Những tác động từ văn hóa, chính trị làm thay đổi nền hội họa Việt Nam giai đoạn 1945-1954

Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 54 (04/2019) 33-42  
33  
NHỮNG TÁC ĐỘNG TỪ VĂN HÓA, CHÍNH TRỊ LÀM THAY  
ĐỔI NỀN HỘI HỌA VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1945- 1954  
THE CHANGES OF VIETNAM'S PAINTING OF THE PERIOD OF 1945-1954 BY THE  
CULTURAL AND POLITICAL IMPACTS  
Trần Quốc Bình*6  
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 3/10/2018  
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 4/4/2019  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/4/2019  
Tóm tắt: Mỹ thuật Việt Nam cuối thế kỷ XIX đến năm 1954 nằm trong một quá trình chuyển  
biến và phân hoá quan trọng trong lịch sử hội họa Việt Nam. Thế kỷ XIX với nhà Nguyễn một triều  
đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã đặt đất nước ta vào hoàn cảnh mới, sự giao tiếp với  
phương Tây và ảnh hưởng văn hoá Trung Hoa đã tạo lập một nền nghệ thuật đa dạng mang nhiều  
yếu tố ngoại lai phức tạp ảnh hưởng từ bên ngoài. Tuy nhiên dân tộc ta vẫn gìn giữ được những  
nét nghệ thuật cổ truyền, được bảo lưu qua các công trình kiến trúc, điêu khắc, mỹ thuật dân gian  
truyền thống. Mỹ thuật Việt Nam từ 1925 đến 1954 là nền mỹ thuật bản lề của hai thế kỷ, chứng  
kiến sự thay đổi về văn hóa, chính trị, nghệ thuật. Trong đó, nghệ thuật hội họa cho thấy sự ảnh  
hưởng chính trị một cách sâu sắc nhất, thể hiện qua các đề tài, nội dung và lẫn phong cách sáng  
tác của từng họa sỹ.  
Từ khóa: Văn hóa. chính trị. hội họa, chuyển biến, phân hóa  
Abstract: The Fine art in the late nineteenth century to 1954 was in an important process  
of transformation and differentiation in the history of Vietnamese painting. The XIX century in the  
Nguyen Dynasty, the last feudal dynasty in Vietnam has put our country in a new context, with  
communication with the West and influenced by Chinese culture that created an art background,  
a diverse art scene brings complex foreign elements from outside. However, our nation still retains  
the traditional artistic features, preserved through traditional architecture, sculpture and folk art  
works. Vietnamese art from 1925 to 1954 is an art of hinges for two centuries, witnessing changes  
in culture, politics and art. In particular, the art of painting shows the most profound political  
influence, reflected in the themes, content and style of each artist's composition.  
Keywords: Culture. Politics, painting, transformation, differentiation  
Cách mạng Tháng Tám năm 1945  
thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ  
Cộng hòa ra đời đánh dấu sự hình thành ở  
nước ta một hệ thống chính trị cách mạng  
1. Những thay đổi về chính trị văn  
hóa ở Việt Nam từ năm 1945 1954  
1.1.Khái quát về chính trị ở Việt  
Nam từ năm 1945- 1954  
6
*Trường Đại học Mở Hà Nội  
34  
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion  
mới. Đứng đầu là chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh  
đạo, đã trở thành đảng cầm quyền, là trung  
tâm đoàn kết toàn dân trong công cuộc đấu  
tranh để xây dựng và bảo vệ chế độ Dân chủ  
Cộng hoà.  
ra thị trường các loại tiền của Trung Quốc đã  
mất giá, càng làm cho nền kinh tế chính trị  
thêm rối loạn phức tạp.  
Ngày 6/1/1946, Chính phủ nước Việt  
Nam Dân chủ Cộng hoà tổ chức cuộc Tổng  
tuyển cử bầu Quốc hội trong cả nước. Thắng  
lợi của Tổng tuyển cử bầu Quốc hội có ý  
nghĩa to lớn, thể hiện ý chí và quyết tâm của  
nhân dân xây dựng một nước Việt Nam độc  
lập – tự do thống nhất. Ngày 2/3/1946, Quốc  
hội Khoá I Nước Việt Nam Dân chủ Cộng  
hòa họp phiên đầu tiên. Ngày 9/11/1946,  
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân  
chủ Cộng hòa được Quốc hội thông qua.  
Quân đội quốc gia Việt Nam ra đời (5/1946).  
Lực lượng dân quân tự vệ được củng cố và  
phát triển. Viện Kiểm soát nhân dân và Toà  
án nhân dân được thành lập. Bộ máy chính  
quyền nhà nước được kiện toàn, trở thành  
công cụ sắc bén phục vụ sự nghiệp xây dựng  
và bảo vệ đất nước.  
Chính quyền cách mạng còn non trẻ,  
chưa được củng cố. Đảng và nhân dân Việt  
Nam cũng chưa có kinh nghiệm giữ chính  
quyền. Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra  
đời lúc này vẫn chưa được nước nào công  
nhận và đặt quan hệ ngoại giao. Nhà nước  
non trẻ Việt Nam ở trong tình thế bị bao vây,  
cô lập, đất nước trong cảnh ngàn cân treo sợi  
tóc.  
Trong khi đó quân đội các nước đế  
quốc, dưới danh nghĩa quân Đồng minh giải  
giáp quân đội Nhật Bản, lần lượt ồ ạt kéo vào  
Việt Nam. Từ vĩ tuyến 16 trở ra Bắc có gần  
20 vạn quân Trung Hoa dân quốc. Theo sau  
Trung Hoa dân quốc là Việt Nam Quốc dân  
Đảng (Việt Quốc), Việt Nam cách mạng  
đồng minh hội (Việt Cách) xúc tiến thành lập  
một chính phủ bù nhìn nhằm tiêu diệt Đảng  
Cộng sản, phá tan Việt Minh, nhằm lật đổ  
chính quyền cách mạng còn non trẻ của nhân  
dân Việt Nam. Từ vĩ tuyến 16 trở vào Nam  
có hơn 1 vạn quân Anh kéo vào, tạo điều kiện  
cho Pháp trở lại xâm lược Việt Nam. Ngoài  
ra còn quân Nhật đang chờ để giải giáp vũ  
khí. Một bộ phận theo lệnh đế quốc Anh đánh  
lại lực lượng vũ trang cách mạng, tạo điều  
kiện cho quân Pháp mở rộng chiếm đóng  
Nam Bộ. Chưa bao giờ trên đất nước Việt  
Nam lại có nhiều loại kẻ thù đế quốc cùng  
xuất hiện một lúc như vậy.  
Ngày 23/9/1945, được sự giúp sức  
của quân Anh, thực dân Pháp nổ súng đánh  
úp trụ sở Uỷ ban Nhân dân Nam Bộ và cơ  
quan tự vệ Sài Gòn, mở đầu cuộc chiến tranh  
xâm lược Việt Nam lần hai. Ngay khi thực  
dân Pháp trở lại xâm lược, nhân dân miền  
Nam đứng lên kháng chiến. Trung ương  
Đảng và Bác Hồ cùng nhân dân cả nước  
hướng về “Thành đồng tổ quốc”, đồng thời  
tích cực chuẩn bị đối phó với âm mưu của  
thực dân Pháp muốn mở rộng chiến tranh ra  
cả nước. Các đoàn quân “Nam tiến” sát cánh  
cùng nhân dân Nam Bộ và Nam Trung Bộ  
kháng chiến.  
Nạn đói cuối năm 1944 đầu năm 1945  
Ngày 6/3/1946, Bác Hồ thay mặt  
chưa được khắc phục. Nạn lụt lớn, làm vỡ đê  
ở 9 tỉnh Bắc Bộ, tiếp theo đó là hạn hán kéo  
dài ruộng đất không thể cày cấy được. Ngân  
sách Nhà nước Việt Nam dân Chủ cộng Hòa  
hầu như trống rỗng, Chính quyền cách mạng  
chưa quản lí được ngân hàng Đông Dương.  
Trong khi đó quân Trung Hoa dân quốc tung  
Chính phủ Việt Nam kí với G. Xanhtơni, đại  
diện Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ:  
Chính phủ Pháp công nhận nước Việt Nam  
Dân chủ Cộng hoà là một quốc gia tự do, có  
chính phủ, nghị viện, quân đội và tài chính  
riêng, nằm trong Liên bang Đông Dương,  
thuộc khối Liên hiệp Pháp. Chính phủ Việt  
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion  
35  
Nam đồng ý cho 15.000 quân Pháp ra miền  
Bắc làm nhiệm vụ giải giáp quân Nhật và rút  
dần trong thời hạn 5 năm. Hai bên ngừng mọi  
xung đột ở miền Nam đi đến cuộc đàm phán  
chính thức.  
cách mạng xã hội chủ nghĩa, tạo cơ sở cho sự  
nghiệp đấu tranh giải phóng miền Nam,  
thống nhất đất nước.  
2.2. Sự thay đổi về văn hóa, kinh tế,  
chính trị ở Việt Nam từ năm 1945- 1954  
Nhìn ở góc độ văn hoá học, chiến  
Ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ, thực  
dân Pháp mở các cuộc tiến công. Ở Bắc Bộ,  
hạ tuần tháng 11/1946, quân Pháp tiến công  
ở Hải Phòng, Lạng Sơn, cho quân đổ bộ lên  
Đà Nẵng, sau đó chiếm đóng Hải Phòng.  
Tháng 12 /1946, Pháp gây hấn ở Hà Nội,  
chiếm trụ sở Bộ Tài chính, gây ra vụ thảm sát  
ở phố Hàng Bún (Khu phố Yên Ninh)…Ngày  
18/12/1946, quân Pháp gửi tối hậu thư đòi  
giải tán lực lượng tự vệ chiến đấu, để cho  
Pháp làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự ở Hà Nội,  
nếu không chúng sẽ giành toàn quyền hành  
động vào sáng ngày 20/12/1946.  
tranh là “giai điệu” không bình thường trong  
cuộc sống. Tính chất không bình thường này  
sẽ chi phối mọi phương diện trong đời sống  
văn hoá xã hội của dân tộc từ nội dung đến  
các thể loại hình văn hóa nghệ thuật. Ngay từ  
những năm chưa giành được chính quyền,  
Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng  
Cộng sản Việt Nam) đã chú trọng đến văn  
hoá. Năm 1943, bản Đề cương văn hoá Việt  
Nam của Đảng được công bố. Bản đề cương  
nhấn mạnh ba nguyên tắc vận động của cuộc  
vận động văn hoá là: dân tộc hoá, đại chúng  
hoá và khoa học hoá. Đó là định hướng quan  
trọng cho sự ra đời của nền văn hoá nghệ  
thuật mới ở giai đoạn sau năm 1945. Ngày  
24/11/1946, Hội nghị văn hoá toàn quốc lần  
thứ hai họp tại chiến khu Việt Bắc. Đồng chí  
Trường Chinh lúc ấy là Tổng bí thư của Đảng  
đã trình bày bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và  
vấn đề văn hoá Việt Nam. Có thể nói đây là  
văn kiện lý luận đầu tiên mà Đảng ta đã vận  
dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, để giải quyết  
một số lĩnh vực thuộc văn hoá Việt Nam. Sự  
lãnh đạo của Đảng cùng với đường lối văn  
nghệ xuyên suốt (Bản đề cương văn hóa năm  
1943) là yếu tố trọng yếu, là cột sống cho nền  
tảng phát triển văn hóa nghệ thuật, chấm dứt  
sự phân hóa sâu sắc xen lẫn phần phức tạp  
của văn hóa ở nước ta dưới ách thống trị của  
thực thực dân, tạo nên một nền văn hóa nghệ  
trọng tâm có sự định hướng của Đảng. Đây là  
đường lối sáng suốt mang tính thống nhất cao  
làm nền tảng cho sự phát triển nghệ thuật sau  
năm 1945.  
Ngày 18/12/1946, thường vụ Trung  
ương Đảng Cộng sản Đông Dương quyết  
định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc.  
Tối ngày 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh  
ra “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, phát  
động nhân dân cả nước kháng chiến chống  
Pháp, bảo vệ nền độc lập dân tộc.  
Ngày 7/5/1954, chiến dịch Điện Biên  
Phủ kết thúc. Ngày 21/7/1954, Hiệp định  
Giơnevơ được kí kết. Pháp buộc phải chấm  
dứt chiến tranh xâm lược Đông Dương, rút  
hết quân đội về nước, kết thúc chiến tranh,  
lập lại hoà bình ở Đông Dương, đáp ứng  
nguyện vọng hoà bình của nhân dân Việt  
Nam. Ở Việt Nam: Quân đội Nhân dân Việt  
Nam và quân Pháp tập kết ở hai miền Bắc,  
Nam, lấy vĩ tuyến 17 làm ranh giới quân sự  
tạm thời. Việt Nam sẽ tiến tới thống nhất  
bằng cuộc tổng tuyển cử tự do trong cả nước,  
được tổ chức vào tháng 7/1956. Cùng với  
chiến dịch Điện Biên Phủ, Hiệp định  
Giơnevơ 1954 kết thúc cuộc kháng chiến lâu  
dài và anh dũng của dân tộc, song chưa trọn  
vẹn vì mới giải phóng được miền Bắc. Miền  
Bắc được giải phóng, chuyển sang giai đoạn  
Do bị áp bức đô hộ kéo dài mấy chục  
năm, cộng với chính quyền còn non trẻ chưa  
có nhiều kinh nghiệm gìn giữ chính quyền  
36  
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion  
cách mạng, khi vừa được hình thành đã phải  
tự thân mình đứng chiến để bảo vệ chính  
quyền của mình và nền độc lập tự do của dân  
tộc. Đất nước trong cảnh lầm than lạc hậu,  
nhân dân đói rách khổ sở, đại đa số người dân  
không biết chữ, kinh tế trì trệ chậm phát triển,  
điều kiện giao lưu tiếp xúc với các nền văn  
hóa khác càng bị hạn chế.  
gạo, để đảm nhu cầu lương thực. Để đảm bảo  
cho sự phát triển lâu dài chính phủ đã bãi bỏ  
thuế thân và một số thứ thuế vô lý khác mà  
thực dân Pháp đã áp dụng vào nhân dân ta khi  
chúng đô hộ, chia lại ruộng đất cho nhân dân  
để nhân dân có tư liệu lao động sản xuất, huy  
động nhân dân thi đua lao động hăng hái sản  
xuất lương thực. Về vấn đề tài chính, Chính  
phủ phát động quyên góp tiền của trong nhân  
dân đã được nhân dân ủng hộ nhiệt tình. Tại  
kỳ họp quốc hội thứ 2. Ngày 23/11/1946  
Quốc hội đồng ý lưu hành tiền Việt Nam  
trong cả nước. Đây là đồng tiền đầu tiên của  
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhưng khó  
khăn về tài chính từng bước được đẩy lùi.  
Về văn hoá xã hội, để giả quyết vấn  
nạn mù chữ trong nhân dân. Ngày 8/9/1945  
Chủ tịch Hồ Chí Minh kí sắc lệnh thành lập  
Nha bình dân học vụ, đây là cơ quan phụ  
trách việc chống “giặc dốt”. Chỉ sau 1 năm cả  
nước đã có hơn 2,5 triệu người thoát nạn mù  
chữ. Văn hóa nghệ thuật giai đoạn 1945-  
1954 cũng có những bước phát triển và đạt  
được nhiều thành tựu, đóng góp vào lịch sử  
nghệ thuật và tạo được những giá trị riêng  
biệt. Trong giai đoạn này có những sáng tác  
phản ánh không khí hồ hởi mê say khi đất  
nước mới dành được độc lập, ca ngợi “cuộc  
tái sinh thần kỳ” của dân tộc, về văn học có  
(Tình sông núi của Mai Ninh, Ngọn quốc kì  
của Xuân Diệu, Vui bất tuyệt của Tố Hữu…).  
Từ cuối 1946 trên mặt trận văn hóa nghệ  
thuật tập trung phản ánh cuộc kháng chiến  
chống Pháp. Nghệ thuật gắn bó sâu sắc với  
đời sống cách mạng và kháng chiến, hướng  
đến phẩm chất tốt đẹp của tầng lớp công,  
nông, binh, với niềm tin chiến thắng của  
kháng chiến chống Pháp cứu nước. Chú trọng  
phong trào văn hoá, văn nghệ, nghệ thuật  
quần chúng, hướng dẫn nghệ sỹ hoạt động  
theo hướng phục vụ kháng chiến. Tạo cơ sở  
văn hoá cho chế độ dân chủ, làm tiền đề cho  
công cuộc xây dựng CNXH.  
Thực tế từ khi Đảng ta nên nắm chính  
quyền, mà đứng đầu là Chủ Tịch Hồ Chí  
Minh đã phải đơn phương độc mã đứng ra  
chăm lo giải quyết rất nhiều các vấn đề về an  
ninh, kinh tế, văn hóa chính trị xã hội mà  
không được sự giúp đỡ của cộng đồng quốc  
tế cũng như các nước đồng minh trong quốc  
tế cộng sản. Lúc này kể cả Liên Xô là nước  
đứng đầu Quốc tế cộng sản vẫn không tin Hồ  
Chí Minh và Đảng của mình có thể lãnh đạo  
nhân dân Việt Nam giữ được chính quyền  
trong hoàn cảnh văn hóa kinh tế chính trị khó  
khăn như thế. Chỉ đến năm 1950 khi Liên Xô  
và Trung Quốc ký quan hệ ngoại giao và đến  
tháng 7 năm 1955, nhân chuyến thăm chính  
thức Liên Xô của Chủ tịch Hồ Chí Minh,  
Chính phủ Liên Xô mới hỗ trợ cho vay và  
viện trợ không hoàn lại, nhằm giúp Việt Nam  
khôi phục kinh tế sau kháng chiến chống thực  
dân Pháp. Cũng từ đây Việt Nam (chủ yếu  
tiếp xúc và chịu ảnh hưởng văn hóa các nước  
xã hội chủ nghĩa như; Liên Xô và Trung  
Quốc…).  
Từ năm 1954 đến 1955 trong hoàn  
cảnh khó khăn như thế, một mặt Đảng ta vừa  
phải xây dựng chính quyền cách mạng tạo cơ  
sở nền tảng pháp lý cho nhà nước non trẻ  
nhằm thực hiện các nhiệm vụ đối nội, đối  
ngoại trong giai đoạn mới. Giải quyết nạn  
đói. Bằng nhiều biện pháp trước mắt và lâu  
dài tập trung cứu đói cho nhân dân đồng bào.  
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đứng ra lời kêu gọi.  
Tổ chức hũ gạo cứu đói, tổ chức “ngày đồng  
tâm” để lấy lương thực cứu đói, không dùng  
gạo để nấu rượu, quyên góp, điều hoà thóc  
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion  
37  
Nhìn lại quá trình văn hoá nghệ thuật  
từ cuối thế kỷ XIX đến năm 1945 chúng ta  
thấy. Gần một trăm năm. Từ Bắc vào Nam,  
từ nông thôn đến cho thành thị, văn hoá, kinh  
tế, chính trị Việt Nam đã có những thay đổi  
lớn. Về văn hóa nghệ thuật. Từ thơ Đường  
sang thơ mới, từ văn vần sang văn xuôi, từ  
chữ Hán, chữ Nôm đến chữ Quốc ngữ, từ  
nghệ thuật dân gian truyền thống ảnh hưởng  
học hỏi và tiếp thu nền nghệ thuật tạo hình  
phương Tây hiện đại, dẫn đến nền nghệ thuật  
hội họa hiện thực lãng mạn, không quan tâm  
đến chính trị, bước sang phục vụ chính trị. Về  
kinh tế từ một nước phong kiến, chịu ảnh  
hưởng của chế độ thực dân, tất cả các nguồn  
lực kinh tế điều chịu dưới chế độ thực dân-  
phong kiến kinh tế nghèo nàn lạc hậu nhân  
dân không có ruộng đất cày cấy điều phải đi  
làm thuê cuốc mướn. Trình độ học vấn của  
người dân là rất thập tỷ lệ biết đọc biết viết  
chỉ trên 1%. Văn hóa bị đầu độc bằng thuốc  
phiện rượu chè cờ bạc, nhân dân chết đói đầy  
đường lầm than đói khổ…Chuyển sang một  
nước độc lập tự do, mọi người ai cũng bình  
đẳng, được đi bỏ phiếu bầu cử, có ruộng đất  
để cấy cày sản xuất, được học hành biết đọc  
biết viết. Văn hóa được đề cao bằng lòng tự  
tôn dân tộc, được giao lưu với các  
nước…những điều này chưa hề có trong giai  
đoạn trước. Để có được điều này là nhờ vào  
sự thay đổi về chính trị cũng như đường lối  
văn hóa kinh tế của Đảng và Hồ Chủ Tịch, tất  
cả đều đi trên một con đường giải phóng đất  
nước độc lập dân tộc, tiến tới hoà nhập với  
thế giới.  
vào các phong trào giải phóng dân tộc như  
chống lại triều đình phong kiến và chống thực  
dân Pháp. Lúc này họ chỉ để tâm vào những  
tác phẩm lãng mạn nhẹ nhàng trầm lắng cô  
đọng lại thành nỗi buồn man mác mơ hồ  
trong các tác phẩm. Giai đoạn này các họa sỹ  
được giáo dục bằng hệ ý thức tự do được du  
nhập từ phương Tây lúc này người nghệ sỹ  
đứng ngoài ý tưởng của nhân dân và thời đại,  
họ cho rằng họ không có vai trò cải tạo xã hội  
cụ thể. Vì vậy các tác phẩm của họ chủ yếu  
thiên về những cô gái Hà thành những bức  
tranh phong cảnh cô quạnh sâu lắng…  
Cách mạng tháng Tám thành công đã  
làm thay đổi hoàn toàn hệ tư tưởng của các  
họa sỹ. Nghe theo lời kêu gọi của Chủ tịch  
Hồ Chí Minh toàn quốc kháng chiến đã xác  
định đường lối rõ ràng cụ thể cho tầng lớp  
nghệ sỹ và nghệ thuật. Từ vai trò của nghệ  
thuật, đối tượng sáng tác, quan điểm và mục  
đích nghệ thuật được xây dựng dựa trên ý  
tưởng phục vụ kháng chiến, phục vụ nhân dân  
và kiến quốc. Giới trí thức nói chung và họa  
sỹ nói riêng bắt đầu có sự phân hóa. Phần lớn  
giới văn nghệ sỹ họ tham gia vào kháng chiến  
với tình yêu nước vô vàn. Một số họa sỹ di cư  
ra nước ngoài sáng tác và sinh sống như họa  
sỹ Lê Phổ, Mai Trung Thứ, Trần Phú  
Duyên..., một bộ phận nhỏ đi con đường  
riêng của mình như Nguyễn Gia Trí, là một  
ví dụ điển hình…  
Chín năm trường kỳ kháng chiến biết bao  
nhiên gian khổ, đây không phải là hoàn cảnh  
thuận lợi cho bất kỳ hoạt động nghệ thuật nào  
phát triển. Tuy nhiên trong những khó khăn  
vất vả và đầy dãy những bất lợi, lại là một lò  
luyện cho tất cả những văn nghệ sỹ tham gia  
trên chiến trường luyện gan bền chí, giống  
như lửa thử vàng gian lan thử sức, chính sự  
luyện chí bền gan ấymà sau này họ đã cho ra  
đời những tác phẩm bất hủ cùng thời gian.  
Đúng như lời Bác đã viết: "Văn hóa nghệ  
thuật cũng là một mật trận. Anh em là chiến  
2.3. Sự đổi đề tài, phong cách trong  
nghệ thuật hội họa Việt Nam giai đoạn 1945  
- 1954  
Từ khi trường Cao đẳng Mỹ thuật  
Ðông Dương mở khóa học đầu tiên 1925 cho  
đến năm 1945, gần như tất cả các họa sỹ nhà  
điêu khắc Việt Nam điều đứng ngoài các vấn  
đề chính trị, hoặc không tham gia trực tiếp  
38  
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion  
sỹ trên mặt trận ấy”. Chín năm trường kỳ  
kháng chiến các họa sỹ không có thời gian và  
điều kiện để cho ra đời những tác phẩm hội  
họa mang tính hoành tráng và đồ sộ được, mà  
ở đây chỉ có thể nêu về khúc bi tráng của cuộc  
kháng chiến trong nhân dân, cuộc kháng  
chiến vĩ đại của một dân tộc nhỏ bé, nhưng  
dám đứng nên đánh lại kẻ thù giành lại độc  
lập tự do cho nhân dân. Chính cuộc kháng  
chiến này đã nuôi dưỡng và sản sinh những ý  
tưởng và tâm hồn lớn cho nghệ thuật hội họa  
giai đoạn sau, còn đương thời và những người  
trong cuộc là nghệ sỹ trước hết họ đóng một  
vai trò quan trọng trong hoạt động văn hoá  
kháng chiến cứu quốc và chuẩn bị tư liệu  
sáng tác. Trước và trong thời điểm chuyển  
giao 1945-1946. Đa số các họa sỹ vì tình yêu  
tổ quốc đi theo Đảng Bác Hồ lên chiến khu  
Việt Bắc, bằng mọi nẻo đường. Tùy từng  
hoàn cảnh, điều kiện, nguyện vọng khác  
nhau, họ mặt ở những địa điểm vị trí khác  
nhau trên chiến trường. Núi đỏ, rừng xanh,  
sốt rét, mưa rừng, khói lửa đạn bom, thiếu  
thốn đủ đường trong cuộc kháng chiến trường  
kỳ, nhưng những người nghệ sỹ, họ vẫn đi  
vào vào trong bom đạn, bám lấy cuộc sống,  
bám sát thực tế, khắc phục khó khăn thiếu  
thốn để hoàn thành tốt nhiệm vụ của người  
nghệ sỹ, chiến sỹ thời kháng chiến.  
dễ dàng. Điều này ta còn thấy ở trong văn  
học, hội họa hơi hướng của thi ca lãng mạn  
tiền chiến còn luẩn khuất trong nghệ thuật  
giai đoạn đầu thời kỳ kháng chiến.  
Trong cuộc triển lãm mỹ thuật toàn  
quốc đầu tiên năm 1946, tại Nhà hát Lớn Hà  
Nội đã cho thấy những tư tưởng cũ của dòng  
nghệ thuật lãng mạn vẫn còn vương vấn đọng  
lại bên cạnh dòng tư tưởng mới. Bên cạnh  
một số tác phẩm dòng tư tưởng cũ, chúng ta  
đã thấy xuất hiện nhiều sáng tác mới mang  
dòng tư tưởng cách mạng đánh dấu sự hình  
thành và phát triển đầu tiên của nền nghệ  
thuật cách mạng như. Tác phẩm của họa sỹ  
Tô Ngọc Vân Hà Nội vùng đứng lên” Khắc  
gỗ 1946 H1. “Bác Hồ làm việc tại Bắc Bộ  
Phủ”,sơn dầu 1946, H2. cùng hai bức tranh  
cổ động lớn: “Phá xiềng” “Việt Nam được  
giải phóng”. Tác phẩm của họa sỹ Trần Văn  
Cẩn Xuống đồng. Nguyễn Đỗ Cung "Chân  
dung Chủ tịch Hồ Chí Minh". Dương Bích  
Liên “Bình dân học vụ”. Lương Xuân Nhị  
Cây đuốc sống Lê Văn Tám”. Tất cả những  
tác phẩm này là đại diện tiêu biểu cho sự  
chuyển biến lớn lao trong tư tưởng của thế hệ  
họa sỹ lúc đó. Ngoài ra chúng ta còn thấy  
những gương mặt mới như Nguyễn Sáng,  
Nguyễn Tư Nghiêm, Bùi Xuân Phái... thế hệ  
sau của trường Mỹ thuật Ðông Dương, mà  
sau này tên tuổi của họ đã trở thành những  
bậc thầy của nền mỹ thuật Việt Nam hiện đại  
Năm 1948, Triển lãm Mỹ thuật toàn  
quốc lần thứ II được tổ chức tại Phú Thọ. Gần  
100 tranh lụa, khắc gỗ, chì và tranh tuyên  
truyền với chủ đề hướng toàn dân kháng  
chiến kiến quốc. Ðến năm 1951 triển lãm Mỹ  
thuật toàn quốc lần thứ III được tổ chức tại  
Chiêm Hoá, chào mừng Ðại hội Ðảng lần thứ  
II, tranh cổ động và minh họa các chính sách  
đóng vai trò chính. Bức thư Hồ Chủ tịch gửi  
các họa sỹ Bác viết: “Văn hóa nghệ thuật là  
một mặt trận. Anh chị em là chiến sỹ trên mặt  
trận ấy...”. Cùng với triển lãm tranh, còn có  
Cách mạng tháng Tám thành công,  
nước Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa ra đời đã  
tác động mạnh mẽ vào hệ tư tưởng của các  
văn nghệ sỹ họ đã tự nguyện rời bỏ thói quen  
thẩm mỹ thị dân, và sinh hoạt thành thị với  
các thiếu nữ thướt tha tà áo dài, chuyển đổi  
phương pháp sáng tác phục vụ dân tộc, phục  
vụ nhân dân, phục vụ tổ quốc, dưới sự lãnh  
đạo của Đảng, để có được sự chuyển hướng  
này các họa sỹ đã phải tự đấu tranh, tự phá vỡ  
những mâu thuẫn giằng xé trong từng nội tâm  
của chính mình, để rồi niềm tin và lý tưởng  
cách mạng đã chiến thắng. Để bỏ được thói  
quen thẩm mỹ thị dân không phải là một điều  
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion  
39  
quan tuyên huấn của Đảng tích cực định  
hướng rèn luyện tư tưởng, đường lối nghệ  
thuật, giúp người nghệ sỹ đi theo Cách mạng  
đúng hướng. Chủ nghĩa hiện thực XHCN  
được đề cao. Khi tiêu chí của nghệ thuật và  
vai trò nghệ sỹ đã được xác định, giai đoạn  
này hội họa gắn liền với những vấn đề cũng  
như hơi thở của cuộc sống đương thời. Tranh  
cổ động và tranh đồ họa đóng vai trò kích  
thích thị giác trực tiếp và cụ thể hoá các chủ  
trương đường lối kháng chiến của Đảng và  
cách mạng. Lúc này Chúng ta đã thấy hàng  
loạt các bức tranh cổ động, áp phích: “Phá  
xiềng” “Việt Nam được giải phóng”.Tô Ngọc  
Vân. Nước Việt Nam của người Việt Nam của  
Trần Văn Cẩn. Nguyên tranh này bằng tiếng  
Anh "Vietnam for the Vietnamese" phủ kín  
toà Ngân hàng địa ốc ở phố Ðinh Tiên Hoàng.  
Tranh áp phích Toàn dân đấu tranh cho độc  
lập - thống nhất Việt Nam của Nguyễn Sáng  
treo ở tiệm cà phê và quán rượu. Từ đấy cho  
đến lúc cuộc kháng chiến chóng thực dân  
Pháp của dân tộc ta đi đến thắng lợi vẻ vang,  
tranh cổ động, áp phích đóng vai trò quan  
trọng trong tuyên truyền, thông tin, hình ảnh  
cổ động nhân dân, kêu gọi toàn dân kháng  
chiến, kiến quốc và địch vận, cũng như tham  
gia sản xuất. Tranh cổ động lúc này mang  
tính chất biểu trưng và hình tượng mạnh mẽ,  
nhấn mạnh vào chủ đề chính như một khẩu  
lệnh, được in sao nhiều bản dán ở khắp mọi  
nơi, từ làng quê đến thành thị.  
họa Tô NGọc Vân.Dần dà hình tượng lãnh tụ,  
anh vệ quốc, người nông dân,...đã được khắc  
họa rõ nét, như những tính cách chân chất,  
mộc mạc hết sức giản dị của người Việt Nam  
với đầy đủ bản tính nông dân, với lòng quả  
cảm trong xây dựng bảo vệ tổ quốc được thể  
hiện trong tranh đồ họa và hội họa sau hòa  
bình nhiều năm như những ký ức về chiến  
tranh bằng hình ảnh.  
Các ký họa mầu nước của danh họa  
Tô Ngọc Vân về những người nông dân đốt  
đuốc, thắp đèn đi học bình dân học vụ, đấu tố  
địa chủ vô cùng sinh động đầy tính hiện thực,  
mang hơi thở cuộc sống hiện tại chân thực,  
sống động tới mức lay động tâm hồn người  
thưởng ngoạn. Họa sỹ đã thay đổi chủ đề, đề  
tài, từ bỏ hoàn toàn phong cách so với chính  
ông ở giai đoạn trước. Những tác phẩm khác  
như “Ðuổi giặc trong rừng”, Khi giặc vừa  
qua” của ông cho thấy sự theo đuổi một nền  
nghệ thuật đồ sộ có tính bi hùng ca tráng lệ,  
rất tiếc ông không thực hiện được ước nguyện  
đó vì chiến tranh đã lấy đi cuộc đời khi ông  
đang ở phong độ đỉnh nhất của nghệ thuật. Sự  
ra đi của ông đã để lại một khoảng trống lớn  
trong nền nghệ thuật hội họa chiến tranh cách  
mạng Việt Nam.  
Ngoài những tác phẩm và sự thay đổi  
phong cách và đề tài của danh họa Tô Ngọc  
Vân ra, chúng ta còn thấy nhiều tác phẩm đi  
theo xu hướng này bằng nhiều chất liệu khác  
nhau như; bột màu, sơn dầu, sơn mài…vẽ về  
thủ đô kháng chiến như; “Du kích La Hay tập  
bắn” 1947.H4. chất liệu bột màu của Nguyễn  
Ðỗ Cung, tác phẩm mang tính khái quát cao  
và một cấu trúc bố cục chặt chẽ. “Cái  
bát” (1949) H5. chất liệu sơn mài của  
Nguyễn Sĩ Ngọc, tác phẩm đã khắc họa một  
nét đỉnh hình, hình tượng một bà cụ nông dân  
miền Bắc bộ đứng quạt cho anh chiến sỹ uống  
nước là hình ảnh đẹp đẽ bền chặt khó quên về  
tình quân dân, quân với dân như cá với nước  
tình mẫu tử muôn đời.  
Do hoàn cảnh thời kháng chiến  
nguyên vật liệu vẽ tranh thiếu thốn khan hiếm  
về tất cả các chất liệu, thứ mà có thể dễ kiếm  
và tiện nhất là chất liệu gỗ và đã mang phổ  
thông nhất, vì vậy tranh khắc gỗ và in đá rất  
phát triển mạnh. Có thể kể đến tranh của Trần  
Văn Cẩn "Cùng nhau đi hùng binh" H3.  
mang đậm tính dân gian khắc họa hình theo  
lối trẻ thơ độc đáo mà không mấy họa sỹ nào  
làm được. Tô Ngọc Vân “Bác Hồ làm việc tại  
Bắc Bộ Phủ”. Cũng từ tác phẩm này của danh  
40  
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion  
Lặng lẽ đồng hành cùng sự thay đổi về văn  
hóa, kinh tế, chính trị cũng như cuộc chiến  
tranh vệ quốc vĩ đại kéo dài 9 năm của đất  
nước, ông thể hiện tài năng hội họa của mình  
để vẽ, phục vụ cuộc kháng chiến của dân tộc  
phục vụ cho cách mạng ông vẽ tranh tuyên  
truyền cổ động cho cách mạng, vẽ tranh tham  
gia triển lãm mỹ thuật chào mừng Quốc  
khánh đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ  
Cộng hoà, vẽ giấy bạc cho Bộ Tài chính. Sau  
đó Nguyễn Sáng ra chiến khu Việt Bắc ở  
Tuyên Quang vẽ mẫu giấy bạc, năm 1951 đến  
1952, ông tham gia chiến dịch Cao - Bắc -  
Lạng, sau ông về Tổng cục Chính trị làm  
tranh khắc gỗ in màu với nhiều đề tài như  
“Chiến dịch Cao Bắc Lạng”, “Tình dân  
quân”.... Tuy nhiên lúc này tranh của ông vẫn  
chưa được đánh giá cao, chỉ đến khi cuộc  
chiến tranh thần thánh của dân tộc gần đi đến  
hồi kết, ông mới cho ra đời tác phẩm “Giặc  
đốt làng tôi”,1953.H6 chất liệu sơn dầu. Đây  
là một tác phẩm có kích thước lớn và hoàn  
chỉnh nhất của ông trong hoàn cảnh kháng  
chiến chống thực dân Pháp hết sức khó khăn,  
thiếu thốn. Tác phẩm có giá trị đánh dấu một  
bước ngoặt lớn trong cuộc đời nghệ thuật của  
ông và cũng là một báo hiệu cho sự thay đổi  
về phong cách nghệ thuật cho đề tài chiến  
tranh cách mạng của các họa sỹ về sau này.  
Có thể nói sự thay đổi về chính trị  
cũng như hoàn cảnh văn hóa xã hội giai đoạn  
1945- 1954 đã tác động mạnh mẽ đến các  
tầng lớp trí sỹ trong nước đặc biệt là giới văn  
nghệ sỹ. Sự thay đổi này đã làm thay đổi lớn  
đến tư tưởng cũng như chủ đề, đề tài sáng tác  
của các họa sỹ, có thể các họa sỹ không làm  
được nhiều như mong đợi, trong hoàn cảnh  
chiến tranh trường kỳ kéo dài suốt chín năm,  
nhưng những tháng năm ở rừng, mưa rừng  
cơm vắt trên chiến hào, đồng cam cộng khổ  
cùng nhân dân và bộ đội đã để lại những ấn  
tương không thể nào quên được của những  
người nghệ sỹ cầm bút ra mặt trận. Khi hòa  
bình lập lại họ tìm về những ký ức xưa bằng  
những suy tư, băn khoăn trăn trở để rồi lại tái  
hiện lại những hình ảnh đó bằng các tác phẩm  
hội họa. Ngày nay, khi quay về chín năm  
kháng chiến, người ta thường tự hỏi trong  
hoàn cảnh như nhà thơ Tố Hữu viết  
Mấy tầng mây gió lớn mưa to  
Dốc Pha Đin, chị gánh anh thồ  
Đèo Lũng Lô, anh hò chị hát  
Dù bom đạn xương tan, thịt nát  
Không sờn lòng, không tiếc tuổi xanh...  
"sốt rét, mưa rừng", "bắp nương sẻ nửa,  
chăn sui đắp cùng", các họa sỹ đã ở đâu, vẽ  
như thế nào, vẽ cho ai để làm gì…? Họ đã đi  
vào một nền hội họa phục vụ phục vụ nhân  
dân, phục vụ giai cấp, chính trị, hay họ vẽ để  
phục vụ cái tôi của chính mình, hay vì sự thay  
đổi văn hóa, kinh tế, chính trị của đất  
nước...Mấy tuýp sơn dầu, vài hộp thuốc nước  
cũ từ thủa còn là sinh viên trên ghế nhà  
trường của chế độ thực dân, còn chủ yếu là  
vài cây chì than…để trong ba lô con cóc vượt  
qua hết những khó khăn này đến gian khổ  
khác, hết thiếu thốn này đến thiếu thốn khác.  
Họ vượt qua hết những khó khăn vất vả ấy  
chỉ bằng lòng yêu nước và tình yêu hội họa  
cộng với những thay đổi lớn của đất nước đó  
là văn hóa, kinh tế, chính trị đã tác động mạnh  
mẽ đến tư tưởng mỗi họa sỹ, đánh thức dậy  
tinh thần yêu nước lòng tự tôn dân tộc để làm  
họ thay đổi, họ vẽ ra những tác phẩm phục vụ  
xã hội phục vụ quần chúng nhân dân và  
Đảng.  
3. Kết luận  
Mỹ thuật Việt Nam từ năm 1945 đến  
năm 1954 nằm trong một quá trình chuyển  
biến và phân hoá quan trọng trong lịch sử mỹ  
thuật Việt Nam cận đại. Thế kỷ XIX với nhà  
Nguyễn một triều đại phong kiến cuối cùng ở  
Việt Nam, đã đặt đất nước ta vào hoàn cảnh  
mới, sự giao tiếp với phương Tây và ảnh  
hưởng văn hoá Trung Hoa đã tạo lập một nền  
nghệ thuật đa dạng mang nhiều yếu tố phức  
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion  
41  
tạp ngoại lai từ bên ngoài. Tuy nhiên bằng  
lòng tự tôn dân tộc hòa mình chứ không hòa  
tan, nhân dân ta vẫn gìn giữ được những nét  
nghệ thuật cổ truyền của dân tộc qua các công  
trình kiến trúc, điêu khắc, mỹ thuật dân gian.  
Mỹ thuật Việt Nam từ 1925 đến 1954 là nền  
mỹ thuật bản lề của hai thế kỷ, nó đã chứng  
kiến sự thay đổi sâu sắc mạnh mẽ về văn hóa  
nghệ thuật. Trong đó nghệ thuật hội họa cho  
thấy sự lột xác về nội dung, đề tài, lẫn phong  
cách sáng tác của từng họa sỹ qua từng giai  
đoạn. Điều này cho thấy sự chuyển biến thay  
đổi về văn hóa, kinh tế, chính trị đã tác động  
rất lớn vào hội họa.  
HÌNH ẢNH MINH HỌA  
H1. Tô Ngọc Vân “Hà nội vùng đứng lên”. H2 Tô Ngọc Vân "Bác Hồ làm việc tại Phủ Bắc Bộ” Khắc gỗ 1946  
Nguồn ảnh bảo tàng mỹ thuật Việt Nam  
H3 Nguyễn Sĩ Ngọc Cái bát 1949 sơn mài, Nguồn ảnh bảo tàng mỹ thuật Việt Nam  
H4. Trần Văn Cẩn “Cùng nhau đi hùng binh” bột màu  
H5 Nguyễn Sáng “Giặc đốt làng tôi” 1953. Nguồn ảnh bảo tàng mỹ thuật Việt Nam  
H6. Nguyễn Đỗ Cung “ Du kích l a hay tập bắn” bột màu  
42  
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion  
4. Tạp chí Đảng Cộng Sản  
Tài liệu tham khảo:  
1. Nguyễn Văn Cường, Sự tiếp biến văn hóa qua  
hội họa Việt Nam giai đoạn 1925- 1945, Tạp chí  
VHNT số 383, tháng 5-2016  
5. Đường lối xây dựng hệ thống chính trị của  
Đảng  
Cộng  
sản  
Việt  
Nam,  
nguồn  
2. Phan Cẩm Thượng. Mỹ thuật thời kỳ kháng  
chiến chống Pháp 1945-1954. 8/10/2002  
6. Tạp chí Xây dựng đời sống văn hóa Văn học  
Việt Nam kháng chiến chống Pháp 1945-1954-  
NXB Khoa học xã hội, HN, 1986.  
3. Phan Thị Thanh Mai (1996) Luận án TS: Phạm  
trù cái đẹp và sự biểu hiện cái đẹp trong nghệ  
thuật tạo hình. Nơi bảo vệ Đại học khoa học và  
xã hội nhân văn. Thư viện quốc gia Việt Nam mã  
lt 5630  
7. Biên niên sử Việt Nam từ khởi nguyên đến năm  
2000-NXB Thanh niên, HN-2002.  
Địa chỉ người gửi: Trường Đại học Mở Hà Nội  
pdf 10 trang yennguyen 22/04/2022 580
Bạn đang xem tài liệu "Những tác động từ văn hóa, chính trị làm thay đổi nền hội họa Việt Nam giai đoạn 1945-1954", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnhung_tac_dong_tu_van_hoa_chinh_tri_lam_thay_doi_nen_hoi_hoa.pdf