Nghệ thuật tạo hình tượng giám trai bằng gốm trong chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH  
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION  
TẠP CHÍ KHOA HỌC  
JOURNAL OF SCIENCE  
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  
Tập 14, Số 8 (2017): 93-102  
SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES  
ISSN:  
1859-3100  
Vol. 14, No. 8 (2017): 93-102  
NGHỆ THUẬT TẠO HÌNH TƯỢNG GIÁM TRAI BẰNG GỐM  
TRONG CHÙA GIÁC VIÊN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
Nguyễn Thị Thu Tâm*  
Trường Đại học Sài Gòn  
Ngày Tò a soạn nhận được bài: 05-4-2017; ngày phản biện đánh giá: 10-8-2017; ngày chấp nhận đăng: 27-8-2017  
TÓM TẮT  
Tượng Phật Giám Trai trong chùa Giác Viên ở Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) là pho  
tượng gốm tráng men quý hiếm thuộc dòng gốm Cây Mai, Sài Gòn xưa. Đây là pho tượng được chế  
tác vào năm 1880, rất độc đáo về mặt mĩ thuật, mang nhiều giá trị trong nghiên cứu nghệ thuật  
truyền thống Nam Bộ. Bài viết cũng là một trong những cơ sở ban đầu để nghiên cứu về đặc trưng  
của mĩ thuật Nam Bộ.  
Từ khóa: giải phẫu tạo hình, gốm tráng men, nghệ thuật tạo hình, tượng thờ.  
ABSTRACT  
The art of making Giam Trai Buddha statue with pottery at Giac Vien pagoda  
in Ho Chi Minh City  
The Giam Trai Buddha statue at Giac Vien pagoda in Ho Chi Minh City is a rare glazed  
ceramic statue of Cay Mai pottery in ancient Saigon. It was made in 1880, of great values in fine  
arts and researches about traditions of the Southerners. This article is an initiative for further  
research on the unique features of the fine arts of the Southern Vietnam.  
Keywords: anatomy arts, glazed ceramic, visual arts, worshipped statues.  
của dãy nhà thờ chính là Đông lang và Tây  
lang. Tại chùa, ngoài những bao lam có giá  
trị nghệ thuật còn có 153 pho tượng Phật  
(riêng chính điện có 128 tượng) mang giá  
trị về lịch sử, văn hóa, nghệ thuật. Đáng  
chú ý, ở chùa Giác Viên còn có một pho  
tượng cổ được tạo tác bằng chất liệu gốm  
tráng men - tượng Phật Giám Trai được đặt  
ở gian thờ Đông lang. Đã có nhiều học giả  
nghiên cứu về chùa, trong đó có Huỳnh  
Ngọc Trảng. Ông đã đề cập pho tượng Phật  
Giám Trai tại chùa Giác Viên trong cuốn  
sách Gốm Cây Mai - Sài Gòn xưa. Cũng  
theo tác giả, hiện nay trong chùa ở  
1.  
nghề gốm  
Chùa Giác Viên được tạo dựng khi  
Sơ lược về tượng Giám Trai và  
trùng tu chùa Giác Lâm lần thứ nhất vào  
khoảng năm 1802 1804 (tương truyền  
chùa đã có từ năm Gia Long thứ 1), chùa  
tọa lạc tại phường 3, Quận 11, TPHCM.  
Ban đầu chùa là một am nhỏ nằm trên một  
gò cao bên cạnh con lạch thông với rạch  
Ông Bướng và kênh Lò Gốm, là nơi tập kết  
gỗ từ ghe lên, từ đây người ta dùng đường  
bộ kéo gỗ về để xây dựng chùa Giác Lâm.  
Chùa Giác Viên được chia làm 3 trục song  
song, có cấu trúc hình chữ “trung”. Hai bên  
93  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 14, S8 (2017): 93-102  
TPHCM chỉ có hai tượng Phật Giám Trai,  
một tượng ở chùa Giác viên và một tượng  
thờ trong chùa Phước Lưu do lò gốm khu  
vực Cây Mai tạo tác bằng chất liệu gốm sứ.  
Các lò gốm Cây Mai cho tới nay  
thực hiện tô men được người thợ vẽ vẽ rất  
ngẫu hứng. Dèrbes đã viết trong Etude sur  
les insdustries de terres Cuites en  
Cochinchina Excursion et Reconaissances  
1882, “Ở Hòa Lục có hơn 30 lò gốm sản  
xuất gạch ngói, lu hũ và đồ sành” (Trương  
Ngọc Tường, 13/6/2012). Cũng theo  
Trương Ngọc Tường (2012), “Con số 30  
mà Dèrbes đưa ra chắc chắn có một số lò  
sản xuất theo kĩ thuật Việt, một số sản xuất  
theo kĩ thuật Hoa. Riêng những lò gốm  
Việt xung quanh khu vực Chợ Lớn (lúc đó  
đã gọi là Chợ Lớn) cũng khá đông, nơi họ  
thành lập một hội đoàn, nay có biển hiệu  
Đào Lư hội quán (Hội quán lò gốm) giữ tại  
đình Phú Hòa (Phú Lâm).  
cũng chưa có nhà nghiên cứu nào xác định  
chính xác được hình thành từ năm nào, chỉ  
biết rằng vùng Sài Gòn, Chợ Lớn, từ trước  
thời Gia Long thứ 17 (1818) đã có rất  
nhiều lò gốm. Nghề gm của vùng đất này  
được ththhin qua hai chng cứ xưa:  
Trong bản đồ Trấn thành Gia Định của  
Trần Văn Học vẽ năm 1815, đã ghi nhận  
địa danh xóm Lò Gm. Trong bài phú cổ  
đầu thế kỉ XIX “Gia Định phong cnh  
vnh” cũng có viết: “Llùng xóm Lò Gm,  
Chân vò vò Bàn cxoay tri”. Theo  
Nguyn Thị Hu, các lò gm ca Sài Gòn  
đều có chung mt ngun gc tkhu vc  
ban đầu có tên là xóm Lò Gm, từ đây theo  
quá trình phát trin và các yếu tlch sử  
mà lan rộng sang các vùng xung quanh như  
Biên Hòa, Lái Thiêu… Xóm Lò Gm có  
nhiu lò và tim buôn bán khác nhau, làm  
ra các sn phm rất đa dạng, từ các đồ gm  
gia dng thô mộc đến đồ sành tinh xo.  
Trong đó khu vực nm phía Bc chùa Cây  
Mai (nên gi là Gốm Cây Mai) là nơi tập  
trung các lò gm có chất lượng cao, làm ra  
các sn phm sành men màu. Các sn  
phm gm Cây Mai phong phú vchng  
loi, hình thc thhin, gồm đồ dùng sinh  
hot gia dụng, đồ thờ cúng, tưng thtrang  
trí. (Nguyễn Thị Hậu, 16/6/2008)  
Để hiểu thêm giá trị đích thực của  
pho tượng Giám Trai trong chùa Giác  
Viên, chúng tôi mong muốn thông qua việc  
nghiên cứu về nghệ thuật tạo hình sẽ khẳng  
định những giá trị về xã hội, văn hóa, nghệ  
thuật của pho tượng, đồng thời thấy được  
mối quan hệ tiếp biến của giao lưu văn hóa  
Ấn, Trung trong sinh hoạt tôn giáo của  
người Việt ở phương Nam vào thời hình  
thành vùng đất Nam Bộ. Đây là tác phẩm  
tượng gốm Giám Trai Nam Bộ độc đáo  
được thờ cúng trong chùa Việt từ thế kỉ  
XVIII đến thế kỉ XIX còn tồn tại đến nay ở  
Việt Nam. Bài viết này giúp hiểu thêm về  
giá trị nghệ thuật người xưa để lại mà  
người đời sau cần phải có trách nhiệm  
bảo tồn, gìn giữ, phát triển những vốn cổ  
quý giá đó.  
Các nguyên liệu đất làm gốm được  
2.  
Tượng Giám Trai  
khai thác quanh khu vực này. Nguyên liệu  
“dầu” gọi là “bạc dầu” mua từ Trung Quốc,  
còn màu men được pha chế tại chỗ, việc  
Tượng Giám Trai trong chùa Giác  
Viên là một tác phẩm bằng gốm thuộc  
dòng gốm Cây Mai (dựa vào những thông  
94  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Thị Thu Tâm  
tin được ghi xuất xứ và niên đại trên bệ  
tượng cũng như dựa vào sắc màu men lưu  
li đặc trưng của pho tượng Phật). Theo  
nhận định của các nhà nghiên cứu thì gốm  
Cây Mai xuất hiện vào khoảng trước thế kỉ  
XIX. Tác phẩm tượng Giám Trai được ghi  
tạo tác năm 1880, như vậy tuổi thọ của  
tượng tính đến nay đã gần 137 năm.  
bọng mắt và những đường rãnh dưới bọng  
mắt, mắt có đuôi vút sang hai bên. Mũi  
thẳng, trái mũi lớn, lỗ mũi kín. Môi với  
khối đầy, môi dưới dầy và chẻ, có đường  
chỉ đi theo vành môi, nhân trung rộng và  
rất sâu, không bị ria che khuất, miệng hơi  
mỉm cười có nếp. Chân dung tượng mang  
tính tả thực.  
Thân tượng: Tượng có đặc điểm  
ngực nở, bụng hơi phệ, mình tượng dầy,  
thân trước và thân sau cân đối, được chú ý  
thể hiện nhiều chi tiết ở thân trước. Thân  
để trần 2/3 bên phải xuống đến nửa bụng,  
tay bên phải để trần.  
2.1. Mô tả tượng  
Mô tả chung: Tượng Giám Trai gồm  
ba phần chính, phần dưới là bệ tượng, trên  
bệ tượng là bệ ngồi có hình khối hộp chữ  
nhật, kích thước nhỏ hơn và trên bệ ngồi là  
tượng Phật Giám Trai, một chân Phật đặt  
trên mặt bệ, chân kia co, gác lên bệ ngồi.  
Tư thế tượng: Tượng Phật trong thế  
ngồi thẳng lưng, thoải mái, vững chãi với  
tay trái chắp trước ngực, tay phải thẳng  
hàng phía dưới, lòng bàn tay phải úp nằm  
ngang đặt lên đuôi cán rìu. Một chân co,  
một chân duỗi, chân trái đặt xuống bệ dưới,  
gót hơi đưa vào trong, đầu gối nhô ra  
ngoài, chân phải co, gác lên bệ ngồi. Một  
tư thế cho thấy sự thoải mái, nghỉ ngơi,  
buông lỏng các cơ nhưng như muốn đứng  
dậy.  
Y phục: Áo cà sa khoác ngoài bên vai  
trái, vạt áo buông trước ngực, thõng xuống  
dưới, vắt qua che nửa phần dưới bụng, phủ  
lên đùi. Tay trái Phật nằm dưới tấm cà sa,  
lộ cổ tay bàn tay trái ra ngoài. Tấm lụa  
trắng nhỏ được vắt từ trước ngực phải chạy  
từ vai phải bay vòng lên phía sau gáy rồi  
vắt lên sang vai trái, chạy xuống dưới luồn  
ra sau tay áo trái. Những nếp gấp của tấm  
áo cà sa như phủ rũ xung quanh đùi trái,  
phía trong là quần với ống rộng lộ ra cổ  
chân và bàn chân, các nếp gấp quần, áo với  
những chi tiết tự nhiên. Bàn chân tượng  
Giám Trai đi dép được cột bằng những sợi  
dây nhỏ như sợi dây gai bắt chéo thắt nút ở  
cổ chân. Từ bàn chân, ngón chân, móng  
chân của tượng được nghệ nhân thực hiện  
với kĩ thuật điêu luyện độc đáo.  
Đầu tượng: Tượng có khuôn mặt chữ  
điền, đầu trần, không tóc, trên trán có con  
mắt dọc theo trục mặt (con mắt thứ ba nằm  
dọc theo hướng trục mặt thường thấy ở các  
Phật như Phật bà Quan Âm… người ta hay  
gọi là con mắt chiếu yêu). Tượng Phật  
Giám Trai còn được tạo tác với râu quai  
nón (ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ), mặt  
nhìn thẳng, dái tai dài, to, vành tai ngoài rõ  
ràng, lông mày rậm. Mắt dướn lên làm hai  
mắt mở to. Khóe mắt nổi rõ, tròng hơi lồi  
ra phía trước, rõ mí trên và mí dưới, rõ cả  
Tượng Giám Trai không trang trí hoa  
văn trên y phục mà tập trung vào sự diễn tả  
các nếp áo tạo ra những đường lượn mềm  
mại. Dải lụa trắng nhỏ chuyển động nhẹ  
nhàng như đang bay rất khéo léo.  
Màu men của tượng: Toàn bộ tượng  
95  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 14, S8 (2017): 93-102  
được sử dụng 5 màu men, gồm: nâu, vàng  
nhạt, nâu nghệ nhạt, xanh ngọc (xanh lưu  
li), trắng và đen. Diện tích sử dụng màu  
xanh ngọc và hai màu nâu nhiều nhất,  
tập trung ở áo cà sa (xanh ngọc), màu da  
tượng (nâu vàng nhạt) và màu quần (nâu  
nghệ nhạt). Màu trắng được sử dụng cho  
tấm lụa và lưỡi rìu. Màu đen sử dụng cho  
bộ râu quai nón và thân rìu.  
Bảng 1. Kích thước và tỉ lệ của tượng Giám Trai trong chùa Giác Viên  
CAO  
(cm)  
87,0  
21,0  
10,0  
14,5  
6,5  
NGANG SÂU  
GHI  
BỘ PHẬN TƯỢNG  
MÀU MEN  
(cm)  
51.0  
47,0  
51.0  
10,0  
(cm)  
35,5  
16,3  
35,5  
CHÚ  
Toàn bộ tượng  
Nâu đậm  
Bệ ngồi  
Bệ tượng  
12,0 Nâu vàng nhạt  
Đầu (cả râu)  
Chân mày tới chân mũi  
Chân mũi tới cằm (cả phần râu)  
Cổ  
5,5  
2,0  
7,5  
7,5  
5,0  
Nâu vàng nhạt  
Nâu vàng nhạt  
41,0  
13,0  
13,0  
21,0  
Thân  
Từ cằm tới đầu vú  
Từ đầu vú tới rốn  
Ngang vai  
29,0  
20,0  
5,0  
Ngang ngực  
Tay: phải/trái  
Vai tới khuỷu  
Khuỷu tới cổ tay  
Bàn tay  
20,0/22,0  
16,0/18,0  
10,7/10,7  
6,0  
6,0/6,0  
35,0  
Ngón tay  
Cùi tay phải đến cùi tay trái  
Chân: phải/trái  
Gối tới cổ chân  
Bàn chân  
17,0/17,0  
14,0/14,0  
6,5/6,5  
46,0  
Khoảng giữa cách hai đầu gối  
96  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Thị Thu Tâm  
Hình. Tượng Giám Trai và tỉ lệ theo giải phẫu tạo hình  
Các đoạn AB = BC = CD = DE = FG  
= GH cho thấy về mặt tỉ lệ khá chuẩn mực.  
(Phần vẽ nét đứt đã bị gãy).  
giản, song nghệ nhân chú ý nhấn mạnh đến  
các chi tiết của y phục, các chuyển động  
ca nếp quần áo theo dáng ngồi, dáng vẻ  
ca nếp theo chân duỗi, chân co, gác lên bệ  
ngồi, tạo nên sphong phú ca hình th.  
Cánh tay phải và cánh tay trái tạo một góc  
45°, bàn tay tạo góc 45°, cánh tay phải và  
cẳng tay phải tạo góc 135°, bàn tay phải  
song song với mặt bục tượng. Cẳng chân  
trái và đùi trái tạo thành góc 90° và  
nghiêng 8so với mặt bục tượng.  
Qua việc đo kiểm tra, khảo sát cấu  
trúc, chúng tôi tạm đưa ra nhận xét về tlệ  
tượng Giám Trai được các nghệ nhân thực  
hiện như sau:  
(i) Vtlphần đầu và toàn thân,  
tượng làm khá đúng theo quy chuẩn gii  
phu tạo hình. Duy phần chân hơi ngắn so  
với tlệ của người bình thường, đây cũng  
là đặc điểm ca nhiều pho tượng c,  
thường rút tlệ ở phn chân. Các vtrí mt,  
mũi, miệng trên khuôn mặt tương đối đúng  
tlệ, toàn bộ thân tượng cân đối. Chân hơi  
ngắn nhưng trong tư thế ngồi nên không lộ  
ra nhiều sự sai lệch đó.  
2.2. Nghệ thuật chế tác  
Trong tư liệu khảo sát của các nhà  
nghiên cứu cho thấy nghệ nhân ở các lò  
gốm Nam Bộ xưa đã dựa trên tính chất của  
đất để tạo tác tượng. Tượng hoàn toàn  
được nn bng tay tdải đất cun tròn,  
trc tiếp, không dùng khuôn dp. Nghệ  
(ii) Tượng có sự diễn tả khá đơn  
97  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 14, S8 (2017): 93-102  
nhân đã thực hiện tạo tác tượng Giám Trai  
bắt đầu từ việc tạo phần đế và bục ngồi. Họ  
cán đất thành các tấm theo yêu cầu rồi cắt  
vuông vắn thành khối hộp 5 mặt. Sau đó  
ghép chúng lại với nhau khi các mảng đã  
định hình nhưng chưa khô, dựa trên bệ  
ngồi. Nghệ nhân tiếp tục đắp bằng tay tạo  
dáng tượng gồm các phần chính như thân,  
chân, tay và đầu.  
không lặp lại, có vẻ sống động. Cái tĩnh và  
chi tiết động đã tạo cho tượng Giám Trai  
trong chùa Giác Viên độc đáo hơn tượng  
Giám Trai hiện có ở các chùa Việt khác  
như chùa Hội Sơn, chùa Phước Lưu… Các  
đường uốn lượn nhp nhàng ttrên phn  
di lụa sau đầu, xung nếp qun áo tri dài  
đến chân, to một đường lượn uyn  
chuyển, giúp pho tượng tuy ngi tĩnh mà  
to hình lại động, cho thấy tài năng của  
nghệ nhân. Việc thay đổi hướng của tay,  
chân, toát lên thần thái của tượng, cái động  
trong tư thế tĩnh. Chân đi dép cột bằng dây  
sợi nhỏ, rất gần với cuộc sống đời thường,  
đầu để trần, không đội mũ, quấn khăn.  
Khác với các tượng gốm Giám Trai trong  
chùa Phước Lưu và tượng gỗ Giám Trai  
trong chùa Phước Tường, Hội Sơn… các  
tượng Phật này thường ngồi ở tư thế thẳng  
lưng, tĩnh tại, hai tay song song đặt trên tay  
vịn của ngai, hay một tay đặt trên đuôi cán  
rìu, một tay chắp trước ngực, hai chân song  
song ở tư thế tĩnh, thả lỏng vuông góc, đặt  
trên mặt bệ tượng và đầu quấn khăn hay  
đội mũ, chân Phật đi hài hay đi giày.  
Sau khi tạo tác phần thân tượng hoàn  
chỉnh, nghệ nhân đắp thêm các chi tiết của  
tượng như lông mày, râu, áo cà sa, dải  
lụa… Khác với các nhà điêu khắc hiện đại,  
việc tạo tác các chi tiết được tính trước,  
họa sĩ gần như cùng đắp một lần các chi  
tiết và lên dần toàn bộ.  
Việc xây dựng pho tượng bằng tay đã  
tạo nên một tác phẩm mang tính độc nhất,  
thể hiện nhiều cảm xúc, tình cảm của nghệ  
nhân. Qua đường nét, mảng khối, các chi  
tiết của tượng được chú ý và trau chuốt cẩn  
thận. Các nếp vải, sự uốn lượn của dải lụa  
tạo cho những mảng khối đất trở nên mềm  
mại, nhẹ nhàng. Quan sát cấu trúc của  
tượng Phật, ta thấy rõ sự điêu luyện, lành  
nghề của nghệ nhân gốm Cây Mai, Sài Gòn  
xưa.  
Skết hợp tương phản nhưng hài hòa  
của phần đơn giản (vùng da tht ltrn) vi  
phần phc tp (nếp qun áo) càng làm  
ngôn ngbiu cm của tượng thêm thú v.  
Cách diễn tả vải, lụa của nghệ nhân cũng  
tạo sự chú ý, chất mềm của vải thể hiện  
qua các nếp uốn lượn nhẹ nhàng, tấm lụa  
uốn bay tung lên hai bên vai. Hiện nay, do  
quá trình tu bổ và di chuyển mà dải lụa  
tung lên hai bên vai đã bị gãy phần dải lụa  
bay sau gáy, vết gãy vẫn còn. Cách thể  
hiện hai dải lụa tung vòng lên hai bên vai  
thể hiện phong cách tượng thờ Hoa rất rõ.  
2.3. Nghệ thuật tạo hình  
Về bố cục tổng thể, tượng Phật tạo  
thành hình tháp vững chãi, chắc chắn. Tlệ  
chung thuận mắt, phần thân khá cân đối và  
cũng là phần đập vào mắt người xem, các  
phần chi trên cân đối, phần chi dưới ngắn  
nhưng không gây khó chịu cho người xem,  
đây cũng là cùng tình trạng chung của các  
tượng thờ. Tư thế, hướng của cẳng tay,  
cánh tay, đùi, cẳng chân thay đổi về hướng  
và chiều, liên tục tạo trạng thái động,  
98  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Thị Thu Tâm  
Đặc biệt, nghệ nhân đã chú ý diễn tả thần  
thái của nhân vật, bộc lộ tình cảm: Phật  
với tính tình trầm mà cương quyết, dễ gần,  
chứa đựng một lẽ sống, triết lí sâu sắc.  
tướng vô kiến đỉnh, trên đỉnh mắt nhô cao  
thể hiện đỉnh Unisha, Lậu Tận Thông tức  
đạt được trí tuệ Phật, hiểu biết cùng tận từ  
trong tới ngoài mọi biến chuyển của vũ trụ.  
Tóm lại, tượng Phật Giám Trai trong chùa  
Giác Viên mang phong cách Phật giáo Ấn  
rõ nét, pho tượng được nghệ nhân người  
Hoa ở lò gốm Sài Gòn xưa thực hiện tại  
khu vực làng gốm Cây Mai và được thờ  
trong chùa Việt. Đây là một tượng gốm  
Giám Trai độc đáo có giá trị nghệ thuật  
cao, thể hiện rõ sự giao lưu, tiếp biến của  
mĩ thuật chùa Việt ở TPHCM.  
Màu men của tượng Giám Trai trong  
chùa Giác Viên được sử dụng tinh tế với 5  
màu và có đủ gam màu nóng lạnh, sáng –  
tối, các màu nóng chiếm diện tích nhiều  
tôn thêm màu lạnh (xanh lam của áo cà sa).  
Màu đen được sử dụng với diện tích nhỏ,  
đặt vào chỗ hợp và khá đắt làm tôn lên  
thần thái của nhân vật. Bên cạnh đó, các  
mảng tráng men láng, mảng gốm thô mộc  
đã tạo “chất” cho pho tượng. Khi quan sát  
phần áo, quần, khăn tráng men, sự phản  
quang như làm cho tượng bừng sáng lên.  
Hai màu men chủ đạo trên tượng là vàng  
da lươn và xanh ngọc trên áo cà sa đã tạo  
nên sự tương phản về màu nóng lạnh.  
3.  
3.1. Về lịch sử  
Tri qua nhng triều đại Lý, Trn,  
Kết luận  
Lê, Nguyễn, ông cha ta đã mcõi về  
phương Nam, cùng với quá trình mmang  
bcõi đó là sự phát trin ca các làng  
nghề. Làng nghề gốm Nam Bộ cũng ra đời  
trong hoàn cảnh đó. Gốm đã được sử dụng  
trong đời sống, xã hội của người Việt tại  
Nam Bộ từ xa xưa. Tượng gốm Giám Trai  
là một tác phẩm mĩ thuật được chế tác  
phục vụ việc thờ cúng trong thi khai  
hoang, khẩn đất ở Đàng Trong. Vì vy  
tượng thờ này đã trên trăm năm song hành  
cùng cư dân Việt trong hơn 300 năm tồn  
tại ở vùng đất Nam Bộ.  
nh thức của tượng Phật thể hiện sự  
gần gũi đời thực hơn là theo những nguyên  
tắc truyền thống. Điều này đã tạo nên một  
tác phẩm nghệ thuật với phong cách tả  
thực, sống động. Ngoài cách tạo hình sinh  
động, tác phẩm còn vừa mang tính đời vừa  
góp phần làm rõ thân phận phong trần của  
Đức Phật Giám Trai. Điểm đặc biệt thể  
hiện đời thực trong tác phẩm còn nằm ở  
cách diễn tả đôi dép dưới chân của vị Phật  
này. Thông thường, tượng Phật để chân  
trần, nhưng ở đây, nghệ nhân đã cho tượng  
Phật mang dép. Chi tiết này chứng tỏ nghệ  
nhân tạo tác đã có những nghiên cứu thực  
tế rất kĩ, họ đã thổi hồn vào pho tượng làm  
cho tác phẩm càng như gần lại với đời  
thường. Quan sát kĩ ta thấy ở trán tượng  
Giám Trai có con mắt thứ ba, con mắt này  
là dấu hiệu của một tượng Phật, thể hiện  
Tượng Giám Trai là trong số ít tượng  
có ghi thời gian thực hiện, đối chiếu với  
lịch sử phát triển của vùng đất Sài Gòn  
xưa, từ tác phẩm này có thể hình thành một  
bối cảnh lịch sử về phát triển kinh tế cũng  
như quan niệm về Phật giáo, văn hóa của  
thời kì mà vùng đất Nam Bộ đang trên đà  
mở rộng, phát triển; trình độ thẩm mĩ của  
dân tộc Việt trong một giai đoạn phát triển  
99  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 14, S8 (2017): 93-102  
của lịch sử, khi mà cuộc sống thường nhật  
của con người còn phụ thuộc vào may rủi.  
Lò gm Cây Mai nay chcòn li du tích  
và tượng Giám Trai - gm Cây Mai là mt  
cvt ca dân tc. Pho tượng cũng là một  
chng nhân lch scho stn ti mt địa  
danh ccủa phương Nam. Gm Sài Gòn -  
Gm Cây Mai ca xóm Lò Gốm “chơn vò  
vò Bàn Cxây tri”, “Gm sành men màu  
Cây Mai đã xut hin trong lch sgm mĩ  
thut Nam Kỳ như những kẻ tiên phong.  
Chính vì vy, bn thân ngành nghthủ  
công này và nhng thành tựu của nó có giá  
trlch sử đáng kể”. (Hunh Ngc Trng,  
Nguyễn Đại Phúc, 1994, tr.40).  
mới. Nghệ nhân đã thổi vào tác phẩm của  
mình một phong cách riêng, phù hợp  
phong tục, tín ngưỡng người Việt - một đặc  
trưng Việt. Sự đặc trưng của vùng đất  
phương Nam còn nằm ở cách thể hiện sự  
giao lưu nghệ thuật trên cùng một pho  
tượng trong chùa Việt với toàn bộ tượng  
Giám Trai mang sắc thái của dòng Phật  
giáo Ấn Độ; nguyên vật liệu gốc, kĩ thuật  
để làm tượng Phật phần lớn từ Trung  
Quốc; do người nghệ nhân Việt, Hoa cùng  
tạo tác thành tác phẩm của người Việt.  
Điều đó thể hiện tính giao thoa của nghệ  
thuật, của các dân tộc, của văn hóa Việt -  
Hoa - Ấn mà ta thấy ở nhiều nơi trên vùng  
đất Nam Bộ. Những nghệ nhân gốm Cây  
Mai đã biết chắt lọc tinh hoa của thế giới  
để tạo nên những tác phẩm mang tinh thần  
thuần Việt sâu sắc.  
3.2. Về văn hóa  
Theo chúng tôi, việc sử dụng nguyên  
vật liệu gốc mua từ Trung Quốc nhưng  
việc tạo men ngay tại làng gốm Cây Mai  
mang những đặc thù riêng. Các màu nâu  
nhạt (men da lươn) có hai sắc độ sử dụng  
trên da, quần; màu men xanh ngọc được sử  
dụng trên áo cà sa; màu trắng được dùng  
trên dải lụa, lưỡi rìu… là những màu  
thường thấy trên đồ gốm của thời Lý, Trần,  
Nguyễn. Tuy nhiên, trên tượng Giám Trai,  
các màu men đời trước sử dụng đơn lẻ thì  
nay phối hợp lại với nhau tạo nên một hòa  
sắc khá đặc biệt và cũng ít nhiều ảnh  
hưởng gam màu men từ Trung Quốc. Đồng  
thời, cách tô màu đậm nhạt trên tượng Phật  
phảng phất cách thể hiện của tranh thủy  
mặc Trung Quốc. Nhưng điều đáng nói ở  
đây là nghệ nhân chế tác tác phẩm này lại  
chính là những người lam lũ khai khẩn trên  
vùng đất phương Nam. Chính vì vậy mà  
gốm Cây Mai thấm đượm tinh thần của  
những người Việt đi khai khẩn vùng đất  
Bên cạnh đó, sự ảnh hưởng của tiếp  
biến văn hóa từ gm Cây Mai lên gm  
Biên Hòa cũng rt sâu sc. Nhiu nghệ  
nhân lão luyn gốm Cây Mai đã đến dy  
nghề ở Trường Mĩ nghBiên Hòa (sau  
năm 1925). Đây sự kế tha truyn thng  
văn hóa của gm Cây Mai, nên gm Cây  
Mai nói chung và tượng Giám Trai - Cây  
Mai nói riêng mang đậm nét văn hóa  
truyn thống phương Nam cổ, một nét văn  
hóa tâm linh thcúng c. Đây là thành tố  
ci ngun hình thành văn hóa Việt Nam  
xuyên sut từ 1000 năm trước đến nay.  
Gốm Cây Mai đã tri qua những thăng  
trm bi sbiến thiên ca lch s. Nhiu  
cuc chiến tranh đi qua, hiện nay là quá  
trình đô thị hóa, vic gìn gibn sắc văn  
hóa truyn thng là hết sc cn thiết. Di  
tích lò gm Cây Mai – một nét văn hóa đặc  
100  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Thị Thu Tâm  
trưng phương Nam rt khó tìm nên yêu cu  
vbo tn gm Cây Mai cần được đặt ra  
trong giai đoạn hiện nay.  
vva phóng khoáng thanh thoát li va  
uy nghi. Nghthut phi hợp men màu, sự  
kết hợp hài hòa giữa cái thô mộc và chất  
mềm mại của nếp áo làm cho tác phẩm  
mang phong cách sáng to và mt xu  
hướng nghthut rt riêng bit: mc mc  
sâu lắng, đầy nội tâm. Đó là phong cách  
nghthut sáng to bng tâm hn luôn  
hướng đến cái đẹp, cái thiện. Tượng Giám  
Trai được tạo tác trên tích nhà Phật, mang  
hơi thở của Phật giáo Ấn Độ và được  
những nghệ nhân người Hoa, Việt thực  
hiện trên đất Việt khi họ định cư ở Đàng  
Trong với sự chấp thuận của chúa Nguyễn  
và pho tượng được thờ trong chùa của  
người Việt trên đất Sài Gòn đã cho thấy sự  
giao lưu văn hóa nghệ thuật Phật giáo sâu  
sắc ở vùng đất này dần ăn sâu vào tâm  
thức con người vùng Nam Bộ. Đó cũng là  
một trong những yếu tố tạo nên phong cách  
sống mang đặc thù của con người nơi đây.  
Chính nhng cvt quý đã giúp chúng ta  
nhìn lại một nn nghthut gm c. Đây  
cũng là chứng nhân của sự giao lưu tiếp  
biến giữa nghệ thuật Ấn Độ, Việt, Hoa  
trên vùng đất Sài Gòn. “Biến di sản  
tượng cổ của cha ông thành tài sản của  
chúng ta, chúng ta không chỉ để viên ngọc  
trong bảo tàng mà phải gắn vào cuộc sống  
hôm nay” (Chu Quang Trứ, 2016, tr.516).  
3.3. Về nghệ thuật  
Gm là nghthut giao thoa giữa đất  
và la, đó là thế giới đầy biến o sc màu  
của đất qua la. Trong lĩnh vực mĩ thut,  
tượng Giám Trai - gốm Cây Mai đã cng  
hiến mt loi gm men xanh lưu li đặc  
trưng mà ảnh hưởng của nó đối vi gm  
sành xp men màu thi sau là rt quan  
trng.  
Nhận dạng về tượng thờ mang phong  
cách Trung Hoa: “Trang phục, trang trí hoa  
văn, trang sức. Nét mặt thon dài với đôi  
mắt hơi xếch, nhỏ, mày cong, mũi nhỏ, môi  
mỏng” (Trần Hồng Liên, 2008, tr.90).  
Tượng Giám Trai chùa Giác Viên không  
những đặc điểm của phong cách Trung  
Hoa (không trang trí hoa văn trên vạt áo,  
mặt vuông chữ điền, mắt mở to, lông mày  
dướn lên, trái mũi lớn, môi dày, miệng hơi  
cười, bộ râu quai nón rõ nét). Tượng Giám  
Trai mang đậm phong cách Phật giáo Ấn  
nhưng thoát ra ngoài khuôn khổ, quy ước  
tạo tác tượng thờ và rất gần gũi với đời  
thường, đậm nét văn hóa Việt ở vùng đất  
mới.  
Tượng Giám Trai - gm Cây Mai là  
mt tác phm nghthut ctuyệt đp, dáng  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Phan An (chủ biên). (1990). Chùa Hoa Thành phố Hồ Chí Minh. TPHCM: NXB Thành phố Hồ  
Chí Minh.  
Trần Lâm Biền. (1996). Chùa Việt. Hà Nội: NXB Văn hóa - Thông tin.  
Trịnh Hoài Đức, (Đỗ Mộng Khương, Nguyễn Ngc Tỉnh, Đào Duy Anh dịch). (1998). Gia Định  
thành thông chí. Hà Nội: NXB Giáo dục.  
Thu Giang, Nguyễn Duy Cần. (2013). Phật học tinh hoa. TPHCM: NXB Trẻ.  
101  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 14, S8 (2017): 93-102  
hoa-viet-nam/van-hoa-co-trung-dai-o-viet-nam/489-nguyen-thi-hau-xom-lo-gom-sai-gon-  
xua.html  
Cao Lp, Nguyn Trng Chc, Lê Triều Điền, Lê Ký Thương. (2007). Gốm Phương Nam.  
TPHCM: NXB Sở Văn hóa Thông tin.  
Trần Hồng Liên. (2008). Chùa Giác Lâm, di tích lịch sử - văn hóa. TPHCM: NXB Khoa học Xã  
hội.  
Trần Phương Nam. (1987). Chùa Giác Viên - Chùa Hố Đất. Tài liệu lưu hành nội bộ, Phòng Di sản  
Thành phố Hồ Chí Minh.  
Sở Văn hóa Thành phHChí Minh. (1993). Hồ sơ di tích kiến trúc, nghthut cp quc gia chùa  
Giác Viên, Qun 11, Trung tâm bo tn và phát huy giá trdi tích lch sử, văn hóa Thành phố  
HChí Minh.  
Hunh Ngc Trng, Nguyễn Đại Phúc. (1994). Gm Cây Mai - Sài Gòn Xưa. TPHCM: Nxb Tr.  
Chu Quang Trứ. (2016). Tượng cổ Việt Nam với truyền thống điêu khắc dân tộc. Hà Nội: NXB Mĩ  
thuật.  
Trương Ngọc Tường. (2012). Gốm Sài Gòn và gốm Chợ Lớn, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam,  
102  
pdf 10 trang yennguyen 22/04/2022 640
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật tạo hình tượng giám trai bằng gốm trong chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_tao_hinh_tuong_giam_trai_bang_gom_trong_chua_giac.pdf