Khó khăn tâm lí của giáo viên Tiểu học khi đánh giá bằng nhận xét cho học sinh ở một số trường Tiểu học tại thành phố Sơn La

TẠP CHÍ KHOA HỌC  
Khoa học Xã hội, Số 9 (6/2017) tr. 42 - 47  
KHÓ KHĂN TÂM LÍ CỦA GIÁO VIÊN TIỂU HỌC  
KHI ĐÁNH GIÁ BẰNG NHẬN XÉT CHO HỌC SINH  
Ở MỘT SỐ TRƢỜNG TIỂU HỌC TẠI THÀNH PHỐ SƠN LA  
Lê Thị Thu Hà  
Trường Đại học Tây Bắc  
Tóm tắt: Đánh giá học sinh bằng nhận xét đã được nhiều trường học ở các quốc gia trên thế giới áp  
dụng. Ở Việt Nam, xu thế này đã bắt đầu được áp dụng từ năm học 2014 - 2015 khi Thông tư 30/2014/TT -  
BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo có hiệu lực. Tuy nhiên, khi đánh giá theo hướng này, giáo viên gặp phải  
không ít khó khăn và thách thức. Với bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập đến thực trạng khó khăn tâm lí của giáo  
viên tiểu học khi đánh giá học sinh bằng nhận xét ở một số trường tiểu học tại thành phố Sơn La. Khó khăn đó  
được biểu hiện cụ thể trong các mặt nhận thức, thái độ, hành vi của giáo viên khi tiến hành đánh giá bằng nhận  
xét. Các biểu hiện của các khó khăn xuất hiện với những mức độ khác nhau và chịu ảnh hưởng của nhiều nguyên  
nhân khác nhau.  
Từ khóa: Đánh giá bằng nhận xét, giáo viên tiểu học, khó khăn tâm lí.  
1. Đặt vấn đề  
Khó khăn tâm lí là những nét tâm lí cá nhân nảy sinh trong quá trình hoạt động của chủ  
thể, gây cản trở, ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình và hiệu quả hoạt động của chủ thể.  
Vấn đề khó khăn tâm lí (KKTL) đã được các nhà nghiên cứu xem xét dưới nhiều góc  
độ, nhiều khách thể với nhiều lĩnh vực khác nhau. Tuy nhiên, nghiên cứu phát hiện ra KKTL  
trong việc đánh giá (ĐG) bằng nhận xét (NX) cho học sinh tiểu học (HSTH) thì còn ít được đi  
sâu tìm hiểu, nhất là với học sinh tiểu học ở thành phố trẻ ở vùng Tây Bắc nói chung và Sơn  
La nói riêng. Ở Việt Nam, các tác giả chủ yếu tập trung vào nghiên cứu các KKTL trong giao  
tiếp, trong hoạt động học tập của học sinh, sinh viên.  
Về đánh giá bằng nhận xét, thông tư 30/2014/TT - BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo  
có ghi rõ: “Trong đánh giá thường xuyên, giáo viên ghi những lời nhận xét đáng chú ý nhất  
vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục, những kết quả học sinh đã đạt được hay chưa đạt được;  
biện pháp cụ thể giúp học sinh vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ; các biểu hiện cụ  
thể về sự hình thành và phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh; những điều cần đặc biệt  
lưu ý để giúp cho quá trình theo dõi, giáo dục đối với cá nhân, nhóm học sinh trong học tập,  
rèn luyện”. [1]  
Thực tiễn cho thấy, “Việc đánh giá bằng nhận xét có tác động mạnh mẽ đến các mặt  
tâm lí của học sinh tiểu học. Nó có thể thúc đẩy sự hình thành và phát triển nhân cách lành  
mạnh cho học sinh nhưng cũng có thể gây cản trở, gây khó khăn cho quá trình này, nếu như  
giáo viên không biết cách nhận xét[3]. Hơn nữa, đánh giá kết quả học tập của học sinh bằng  
nhận xét là một hoạt động khá phức tạp, đòi hỏi những người đánh giá phải có cái nhìn sâu  
sắc và cần có căn cứ cụ thể. Những phản hồi về kết quả học tập của học sinh phải thật sự có ý  
Ngày nhận bài: 26/9/2016. Ngày nhận đăng: 15/6/2017  
Liên lạc: Lê Thu Hà, e - mail: lehatbu@gmail.com  
42  
nghĩa đối với bản thân mỗi học sinh vì có như vậy mới tác động đến nhận thức và hành vi của  
học sinh. [5].  
Thông tư 30/2014/TT - BGDĐT của Bộ Giáo dục - Đào tạo đã tạo nên một sự  
chuyển biến trong kiểm tra, đánh giá ở bậc tiểu học. Thông tư thể hiện quan điểm giáo dục  
toàn diện trong giáo dục tiểu học, tạo điều kiện để học sinh phát triển các năng lực, phẩm  
chất và kĩ năng sống. Tuy nhiên, nhiều vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện đòi hỏi  
giáo viên, các cấp quản lý và cả xã hội cần có những giải pháp để hoàn thiện nhằm thực  
hiện việc đánh giá học sinh bằng nhận xét đạt được hiệu quả cao nhất. Những khó khăn  
mà giáo viên gặp phải là khối lượng công việc quá tải về thời gian và công sức bra khi  
đánh giá theo nhận xét [6].  
Thành phố Sơn La có 14 trường tiểu học, việc ĐG học sinh tiểu học được thực hiện theo  
những quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Sự thay đổi đánh giá học sinh thường xuyên bằng  
điểm số sang đánh giá bằng NX cũng gây không ít khó khăn cho giáo viên tiểu học. Bài viết đề  
cập đến thực trạng KKTL của giáo viên tiểu học ở một số trường tiểu học tại thành phố Sơn La  
khi ĐG bằng NX cho học sinh tiểu học. Không chỉ là những khó khăn về nhận thức, thái độ mà  
còn là những khó khăn về thói quen, hành vi khi đánh giá học sinh bằng nhận xét.  
2. Nội dung  
2.1. Thực trạng KKTL của giáo viên khi ĐG học sinh bằng NX ở một số trường tiểu học tại  
TP Sơn La  
Xoay quanh vấn đề đánh giá học sinh tiểu học theo Thông tư 30/2014/TT - BGDĐT của  
Bộ giáo dục và Đào tạo, có rất nhiều thắc mắc - hỏi đáp của giáo viên tiểu học về mục đích,  
nội dung, nguyên tắc, phương pháp đánh giá.... Trong đó, giáo viên gặp nhiều khó khăn trong  
việc đánh giá bằng nhận xét. Chẳng hạn, giáo viên băn khoăn về vấn đề: “Trong đánh giá  
thường xuyên hoạt động học tập, sự tiến bộ và kết quả học tập, khi nào giáo viên dùng lời nói,  
khi nào thì nên viết vào vở, phiếu học tập của học sinh?” hay “Giáo viên bộ môn dạy nhiều  
lớp, nhiều học sinh nên việc nhận xét rất mất nhiều thời gian. Vậy giáo viên bộ môn sẽ thực  
hiện việc đánh giá như thế nào cho hiệu quả?”[4].  
Chúng tôi tiến hành khảo sát KKTL của 89 giáo viên tiểu học. Trong đó, bao gồm 58  
giáo viên chủ nhiệm, 22 giáo viên chuyên và 09 cán bộ quản lí của 3 trường tiểu học: Trường  
Tiểu học Ngọc Linh, Trường Tiểu học Quyết Tâm, Trường Tiểu học Hua La. KKTL của họ  
được biểu hiện trên 3 mặt: Nhận thức, thái độ và hành vi.  
Với câu hỏi: Anh (chị) thường gặp những khó khăn tâm lí sau ở những mức độ nào khi  
đánh giá học sinh bằng nhận xét? Tương ứng với mỗi khó khăn tâm lí của GV chúng tôi liệt  
kê một số biểu hiện và đề nghị GV đánh dấu vào các mức độ “thường xuyên”, “thỉnh thoảng”,  
“không bao giờ”. Sau đó chúng tôi cho điểm theo mức 3đ - - 1đ; Với thang đánh giá là:  
X 1:  
2 X 3: Khó khăn; 1X 2: Có khó khăn nhưng không nhiều;  
Không khó khăn.  
Chúng tôi đã tiến hành xử lí số liệu và kết quả thu được ở các Bảng 1, 2, 3 như sau:  
43  
Bảng 1. KKTL của giáo viên qua biểu hiện về nhận thức khi ĐG bằng NX  
Mức độ  
STT  
Thứ bậc  
X
Biểu hiện  
1
2
3
4
Chưa có hiểu biết nhiều về ĐG bằng NX.  
153  
219  
213  
237  
1,72  
2,46  
2,39  
2,66  
4
2
3
1
Nhận thức về động cơ ĐG học sinh bằng NX chưa rõ ràng.  
Chưa nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của ĐG học sinh bằng NX  
Chưa có hiểu biết đầy đủ về kĩ thuật ĐG bằng NX  
Hầu hết giáo viên đều gặp khó khăn “Chưa có hiểu biết về kĩ thuật đánh giá bằng nhận  
X 2,66  
xét” (  
). Để nhận xét học sinh bằng lời và bằng chữ theo đúng tinh thần “vì sự tiến  
bộ của người học”, “không so sánh học sinh này với học sinh khác” thì giáo viên còn tỏ ra  
thiếu hiểu biết về các kĩ thuật như: Dùng lời nói, cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, câu từ...mang tính  
chất tích cực khi nhận xét học sinh. Mục đích của đánh giá bằng nhận xét là giảm áp lực về  
điểm số cho học sinh, hình thành “động cơ bên trong” cho học sinh trong quá trình học tập.  
Song không phải thầy cô nào cũng hiểu được điều ấy. Chính vì thế mà giáo viên gặp khó khăn  
“Nhận thức về động cơ đánh giá bằng nhận xét chưa rõ ràng”, và “Chưa nhận thức sâu sắc vai  
trò của đánh giá học sinh bằng nhận xét”.  
Bảng 2. KKTL của giáo viên qua biểu hiện về thái độ khi ĐG bằng NX  
Mức độ  
STT  
Thứ bậc  
X
Biểu hiện  
1
2
3
4
5
6
Chán nản khi phải NX quá nhiều  
245  
131  
199  
263  
205  
258  
2,75  
1,47  
2,24  
2,95  
2,3  
3
6
5
1
4
2
Chủ quan trong ĐG học sinh bằng NX  
Thiếu kiên nhẫn trong NX học sinh  
Mệt mỏi vì phải ghi quá nhiều NX vào hồ sơ, sổ sách  
Cảm thấy nhiều áp lực trong việc ĐG bằng NX  
Không hứng thú với việc ĐG bằng NX  
2,89  
Những khó khăn tâm lí được biểu hiện về mặt thái độ của giáo viên khi ĐG bằng NX  
cũng khá đa dạng. Có thể thấy, khó khăn “Mệt mỏi vì phải ghi quá nhiều nhận xét vào hồ sơ,  
X 2,95  
sổ sách” là khó khăn lớn nhất (  
). Thay vì việc chấm điểm như trước đây, giáo viên  
phải nhận xét học sinh, phải ghi lời nhận xét hàng tháng về các mặt: Môn học và hoạt động  
giáo dục; phẩm chất; năng lực của học sinh vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục. Ngoài ra,  
hàng ngày, hàng tuần cũng phải ghi những lời nhận xét cụ thể về ưu nhược điểm của học sinh  
vào vở bài tập để các em biết hướng sửa chữa. Điều này đã khiến cho khối lượng công việc  
của giáo viên rất lớn, nên họ luôn cảm thấy chán nản, mệt mỏi... Vì công việc này đòi hỏi cần  
nhiều thời gian, tâm huyết... chính vì thế đa phần giáo viên thích đánh giá bằng điểm số hơn.  
Cho nên họ “Không hứng thú với đánh giá bằng nhận xét”; “Chán nản khi phải nhận xét quá  
nhiều”. Khó khăn “Chủ quan trong đánh giá học sinh bằng nhận xét” ở mức độ thấp nhất  
44  
X 1,47  
(
). Đa số giáo viên đều nhận thức được việc đánh giá trách nhiệm của mình nên họ  
ít chủ quan trong đánh giá học sinh.  
Bảng 3. KKTL của giáo viên qua các biểu hiện về hành vi khi ĐG bằng NX  
Mức độ  
STT  
Thứ bậc  
X
Biểu hiện  
1
2
3
Lúng túng, thiếu linh hoạt khi đưa ra lời NX phù hợp với HS  
Chưa thích ứng với phương thức ĐG HS bằng NX  
247  
171  
261  
2,77  
1,92  
2,93  
2
6
1
Khó đưa ra những câu từ NX mang tính tích cực đối với HS một  
cách thường xuyên  
4
5
6
Chưa từ bỏ thói quen “so sánh học sinh” trong NX bằng lời  
Chưa quen với việc NX vì sự tiến bộ của học sinh  
NX một cách “hình thức” để hoàn thiện hồ sơ cho HS  
186  
221  
234  
2,09  
2,48  
2,63  
5
4
3
KKTL của giáo viên khi ĐG bằng NX được biểu hiện sinh động nhất qua “hành vi” của  
họ. Giáo viên gặp khó khăn lớn nhất là “Khó đưa ra những câu từ nhận xét mang tính tích cực  
X 2,93  
đối với học sinh một cách thường xuyên” (  
). Những lời nhận xét mang tính tích  
cực như “Cô tin là con sẽ làm được!, “Cô rất vui vì con đã làm xong bài tập”, “Cô nghĩ sẽ tốt  
hơn nếu con...”,... thì không phải giáo viên nào cũng có thói quen dùng để nhận xét học sinh.  
2.2. Nguyên nhân ảnh hưởng đến KKTL của giáo viên khi ĐG bằng NX  
Những KKTL mà giáo viên gặp phải khi đánh giá bằng NX chịu ảnh hưởng bởi nhiều  
nguyên nhân kể cả chủ quan lẫn khách quan. Với câu hỏi: Theo anh (chị), những nguyên nhân  
sau ảnh hưởng đến KKTL của giáo viên khi đánh giá bằng NX ở những mức độ nào? Chúng tôi  
liệt kê một số nguyên nhân và đề nghị GV đánh dấu vào các mức độ “Nhiều”, “ít”, “không ảnh  
hưởng”. Sau đó chúng tôi cho điểm theo mức 3đ - - 1đ; Với thang đánh giá là: 2 X 3:  
X 1:  
Ảnh hưởng nhiều; 1X 2: Có ảnh hưởng nhưng không nhiều;  
Không ảnh hưởng.  
Chúng tôi đã tiến hành xử lí số liệu và thu được kết quả thu được ở Bảng 4, 5 như sau:  
Bảng 4. Nguyên nhân chủ quan dẫn đến KKTL của giáo viên khi ĐG bằng NX  
Mức độ  
Thứ  
bậc  
STT  
X
Nguyên nhân  
1
2
3
4
5
6
Do thiếu kinh nghiệm ĐG bằng NX  
233 2,62  
179 2,01  
203 2,28  
177 1,98  
265 2,98  
242 2,72  
3
5
4
6
1
2
Do bản thân chưa quen với việc ĐG thường xuyên bằng NX  
Do bản thân chưa tích cực với việc ĐG  
Do khả năng thích ứng của bản thân với cách ĐG bằng NX chưa cao  
Do không hứng thú với việc ĐG bằng NX  
Do chịu ảnh hưởng nặng nề của ĐG truyền thống  
45  
Bảng 5. Nguyên nhân khách quan dẫn đến KKTL của giáo viên khi ĐG bằng NX  
Mức độ  
STT  
Thứ bậc  
X
Nguyên nhân  
1
2
3
4
Do thiếu tài liệu liên quan đến ĐG bằng NX  
Do ĐG bằng NX khó  
132  
189  
155  
1,48  
2,12  
1,74  
1,52  
10  
7
Do chưa được hướng dẫn cách ĐG bằng NX một cách cụ thể  
8
Việc tuyên truyền, giải thích hướng dẫn của các cấp quản lý giáo dục 135  
9
chưa hiệu quả, chưa tường minh  
5
6
7
8
9
Chưa có bộ chuẩn chung hay bộ tiêu chí chung để ĐG  
Do ĐG bằng NX tốn nhiều thời gian  
255  
258  
235  
210  
245  
264  
2,86  
2,9  
3
2
5
6
4
1
Do cấp trên yêu cầu phải hoàn thành nhiều sổ sách  
Do nhận thức của phụ huynh về ĐG bằng NX còn hạn chế  
Do sự thiếu hợp tác của phụ huynh trong việc ĐG bằng NX  
2,64  
2,35  
2,75  
2,97  
10 Do phải NX quá nhiều HS  
Như vậy, có thể thấy nguyên nhân ảnh hưởng nhiều nhất đến KKTL của giáo viên là  
“Do phải nhận xét quá nhiều HS”, “Do ĐG bằng NX tốn nhiều thời gian”; “Do không hứng  
thú với ĐG bằng NX”, bởi giáo viên “chịu ảnh hưởng nặng nề của cách đánh giá truyền  
thống. Một số giáo viên Trường Tiểu học Ngọc Linh cho rằng: “Nếu như sĩ số lớp học là 25  
học sinh/lớp thì dường như đánh giá bằng nhận xét sẽ hiệu quả hơn rất nhiều. Lớp chúng tôi  
dạy có đến 40 học sinh thì việc nhận xét thường xuyên cho từng em học sinh là rất khó”  
Dường như giáo viên vẫn thích hướng đánh giá cũ tức là đánh giá thường xuyên bằng điểm số  
với các môn Toán, Tiếng Việt, Khoa học, Lịch sử và Địa lí. Họ cho rằng, đánh giá bằng nhận  
xét tốn nhiều thời gian, công sức nên giáo viên vất vả hơn. Chấm điểm dù đông học sinh  
nhưng vẫn nhanh hơn đánh giá bằng NX. Hơn nữa, giáo viên còn thiếu kinh nghiệm trong  
việc ĐG bằng NX. Chính vì thế đánh giá bằng nhận xét đôi khi còn “hình thức” thậm chí  
“chống đối” để phục vụ cho công tác kiểm tra, thanh tra của cấp trên.  
3. Kết luận  
Việc ĐG học sinh tiểu học bằng NX là việc làm rất cần thiết đối với nền giáo dục hiện  
đại. Tuy nhiên, không phải giáo viên nào cũng có thể “sẵn sàng” trong việc ĐG học sinh theo  
hướng này. Giáo viên tiểu học của một số trường tiểu học ở thành phố Sơn La khi ĐG học  
sinh theo hướng này cũng gặp muôn vàn khó khăn về mặt tâm lí, được biểu hiện qua các mặt:  
nhận thức, thái độ, hành vi. Mỗi biểu hiện khó khăn được xếp theo các thứ bậc khác nhau.  
Những khó khăn lớn nhất mà giáo viên gặp phải đó là: chưa có hiểu biết về kĩ thuật ĐG học  
sinh bằng nhận xét; chán nản khi phải NX quá nhiều; Chính vì thế mà “khó quan tâm đến tất  
cả học sinh trong lớp”. Các khó khăn này do nhiều nguyên nhân từ phía giáo viên, các cấp  
quản lí, học sinh... Năm học 2016 - 2017, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã triển khai chỉnh sửa một  
số nội dung trong Thông tư 30/2014/TT - BGDĐT thành Thông tư 22/2016/TTBGDĐT và  
chính thức có hiệu lực từ 06/11/2016. Trong đó có sự thay đổi cơ bản về việc giảm tải hồ sơ  
46  
sổ sách cho giáo viên [2]. Đây cũng là một trong những giải pháp để tránh tình trạng “hình  
thức” trong đánh giá bằng nhận xét. Chúng tôi hi vọng trong thời gian tới, việc triển khai một  
cách cụ thể các “kĩ thuật ĐG bằng NX trong giờ lên lớp” sẽ được tổ chức một cách rộng rãi  
trên địa bàn các tỉnh miền núi Tây Bắc nói chung và tỉnh Sơn La nói riêng; góp phần nâng cao  
hiệu quả ĐG của các giáo viên tiểu học đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục cho học sinh.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2014). Thông tư số 30/2014/TT - BGDĐT ngày 28/8/2014 về  
“Quy định đánh giá học sinh tiểu học”.  
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2016). Thông tư số 22/2016/TT - BGDĐT sửa đổi, bổ sung  
một số điều của Quy định đánh giá học sinh tiểu học ban hành kèm theo Thông tư số  
30/2014/TT - BGDĐT của Bộ Giáo dục và đào tạo.  
[3] Nguyễn Khải Hoàn - Nguyễn Bá Đức (2015). Đánh giá học sinh tiểu học theo tiếp cận  
năng lực. Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên.  
[4] Nguyễn Hữu Hợp (2015). Hướng dẫn thực hiện đánh giá học sinh tiểu học (theo Thông  
tư 30/2014/TT - BGDĐT). Nhà xuất bản Đại học Quốc gia, Hà Nội.  
[5] Trịnh Thị Hương - Nguyễn Ngọc Diệp - Nguyễn Túy An (2015). Đánh giá học sinh tiểu  
học bằng nhận xét, tiếp cận từ phía người học, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế về  
Đánh giá học sinh theo tiếp cận năng lực. Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên.  
[6] Ngô Minh Oanh (2015). Giải pháp nâng cao hiệu quả đánh giá bằng nhận xét của giáo  
viên đối với học sinh tiểu học theo thông tư 30/2014/BGDĐT của Bộ Giáo dục - Đào  
tạo, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế về Đánh giá học sinh theo tiếp cận năng lực.  
Nhà xuất bản Đại học Thái Nguyên.  
CHALLENGES FACED BY PRIMARY TEACHERS IN SON LA WHEN MAKING  
FORMATIVE ASSESSMENT ON THEIR STUDENTS’ PROGRESS  
Le Thi Thu Ha  
Tay Bac University  
Abstract: Formative assessment has been widely used at primary level worldwide. In Vietnam, the  
implementation of formative assessment across this level has begun since the school year 2014 - 2015 in the  
light of Circular No.30/2014 issued by Ministry of Education and Training in 2014. However, during the  
practice, primary teachers in general and those teaching in Son La city area in particular have been facing a  
number of challenges which are carefully investigated in this study. The findings showed that these challenges  
result from teacher perception, attitude, and behaviors towards formative assessment. The findings also  
suggested that perception, attitude and behaviors towards formative assessment among teacher population in  
Son La city primary schools are different and affected by a number of factors.  
Keywords: Challenge, formative assessment, primary teacher.  
47  
pdf 6 trang yennguyen 16/04/2022 3540
Bạn đang xem tài liệu "Khó khăn tâm lí của giáo viên Tiểu học khi đánh giá bằng nhận xét cho học sinh ở một số trường Tiểu học tại thành phố Sơn La", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkho_khan_tam_li_cua_giao_vien_tieu_hoc_khi_danh_gia_bang_nha.pdf