Học tập chuyển hóa và một số gợi ý về sự vận dụng vào thực tiễn dạy học ở Việt Nam hiện nay

VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38  
Review Article  
Transformative Learning and Suggestions for Its Application  
in Current Educational Practices in Vietnam  
Ngo Vu Thu Hang*  
Faculty of Primary Education, Hanoi National University of Education,  
136 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam  
Received 14 January 2019  
Revised 24 January 2019; Accepted 19 March 2019  
Abstract: This paper presents basic theoretical knowledge on a perspective of  
transformative learning. It focuses on the definition, principles, characteristics of  
transformative learning, and possiblities to apply it into teaching and learning practices in  
Vietnam. Alternatives to innovate traditional learning approaches towards a  
transformative learning approach are also proposed with suggestions for the application  
of open-ended learning tasks. To effectively apply the transformative learning perspective  
in schools, there is a need of more applied research in which integrated approaches and  
cooperation among researchers from various majors are emphasized.  
Keywords: Transformative learning, integrated, teaching and learning, education.  
*
_______  
* Corresponding author.  
E-mail address: hangnvt@hnue.edu.vn  
30  
VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38  
Học tập chuyển hóa và một số gợi ý về sự vận dụng  
vào thực tiễn dạy học ở Việt Nam hiện nay  
Ngô Vũ Thu Hằng*  
Khoa Giáo dc Tiu học, Trường Đại học Sư phạm Hà Ni,  
136 Xuân Thy, Cu Giy, Hà Ni, Vit Nam  
Nhận ngày 14 tháng 01 năm 2019  
Chỉnh sửa ngày 24 tháng 01 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 3 năm 2019  
Tóm tắt: Bài viết trình bày một số vấn đề lí luận về quan điểm học tập chuyển hóa, tập  
trung vào làm sáng tỏ định nghĩa, nguyên lí, đặc điểm và sự vận dụng quan điểm này  
trong giáo dục STEAM. Bài viết cũng cho thấy sự vận dụng khả thi quan điểm này vào  
trong thực tiễn dạy học ở nhà trường phổ thông, cách tiếp cận có thể thay thế lối dạy học  
truyền thống vốn nặng tính dập khuôn, máy móc và đóng kín, khó có thể phát triển năng  
lực ở người học. Để vận dụng hiệu quả quan điểm này vào trong hoạt động giáo dục và  
dạy học ở Việt Nam hiện nay, tác giả bài viết khuyến nghị cần có sự phối hợp giữa các  
nhà khoa học trong những nghiên cứu liên ngành mà ở đó, các bài học được xây dựng gắn  
với những câu chuyện, tình huống mở, chứa đựng những xung đột mà để giải quyết  
chúng, học sinh không những cần có kiến thức, kĩ năng của nhiều lĩnh vực mà còn cần có  
sự cân nhắc những giá trị đạo đức để từ đó xác định được những thái độ, hành vi phù hợp  
cho bản thân mình.  
Từ khóa: Học tập chuyển hóa, tích hợp, dạy học, giáo dục.  
1. Mở đầu *  
Quan điểm hc tp chuyn hóa  
(transformative learning) đang ngày càng thu  
hút squan tâm, chú ý ca nhiu nhà khoa hc,  
giáo dc trên thế giới. Đây là một quan điểm  
giáo dc ci m, giàu tính thc tin, gn lin  
vi nim tin cho rng hoạt động hc tp cn  
phi xut phát tnhu cu ca thc tin trong  
bi cnh cthca nó và cui cùng là phi  
quay trli phc vthc tiễn. Quan điểm hc  
tp chuyn hóa phát trin da trên cái nhìn bin  
chng vthế gii, vthc tin cuc sng. Nói  
mt cách khác, chính vic nhìn nhn thế gii và  
thc tin trong mt chnh thvận động, toàn  
diện đã thúc đẩy sự ra đời của quan điểm hc  
tp có tính bin chng và thc dng này. Trong  
khi đó, thực tin hiện nay được tha nhận đó là  
thc tin ca thi kì phát triển vượt bc ca  
khoa hc công ngh, thi kì ca cuc Cách  
_______  
* Tác giả liên hệ.  
Địa chỉ email: hangnvt@hnue.edu.vn  
31  
N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38  
32  
mng Công nghip ln thứ tư, thi kì ca nhiu  
thay đổi và biến động din ra mt cách nhanh  
chóng, không ngừng. Đó còn là thực tin ca sự  
đa dạng và phc tp, vi nhiu sva chm,  
mâu thuẫn, xung đột gia các giá trmà nếu  
như không có đủ kiến thức, kĩ năng thiết yếu,  
con người khó có ththích ng, làm chủ, để từ  
đó có thể mang li những đóng góp phù hp  
cho cộng đồng chung. Quan điểm hc tp  
chuyn hóa cổ vũ cho sự phát trin và ng dng  
các cách tiếp cn giáo dc tích hợp, đa chiều,  
liên ngành, đặc bit là giáo dc STEM và  
STEAM đang ngày càng nhận được nhiu sự  
ng hhin nay.  
Trên thế gii, quan điểm hc tp chuyn  
hóa đã và đang ngày càng được đẩy mnh trong  
nghiên cu và ng dng vào trong hoạt động  
dy hc tại các nhà trường phthông. Tuy  
nhiên Việt Nam, quan điểm này vẫn chưa  
thc sự được phbiến, khái nim hc tp  
chuyn hóa vn còn khá mi mvi nhiu  
người, cho dù dy hc theo cách tích hp, thể  
hin rõ nht qua các hoạt động giáo dc STEM  
và STEAM, đã trở nên quen thuộc hơn. Việc  
thiếu vng nhng nghiên cu lí luận, đầy đủ về  
quan điểm hc tp chuyn hóa có thphn nào  
hn chế vic có được nhng kiến thc nn tng,  
vng chắc để trên cơ sở đó có được sthc  
hành, vn dng hp lí, hiu qucác cách tiếp  
cn giáo dc, dy hc tích hp. Trong phm vi  
bài viết này, tác gimun gii thiệu rõ hơn về  
quan điểm hc tp này, cthể đó là làm sáng tỏ  
định nghĩa, nguyên lí, đặc điểm, và sự ảnh  
hưởng ca nó vào trong các hoạt động dy hc  
ở nhà trường phổ thông. Để thc hiện điều đó,  
tác giả đã tiến hành các hoạt động hi cu, tng  
hp và phân tích các nghiên cu sâu và rng  
ca các nhà khoa hc giáo dc trên thế gii và ở  
trong nước. Trên cơ sở đó, tác giả đi đến nhng  
đề xut, khuyến nghcho vic vn dng quan  
điểm này vào Vit Nam nhm nâng cao cht  
lượng giáo dc, dy hc ở nhà trường phổ  
thông hin nay.  
2.1.1. Định nghĩa  
Khái niệm hc tp chuyn hóa bắt đầu được  
xuất hiện vào những năm cuối 1970, gắn với  
tên tuổi của nhà khoa học giáo dục Jack  
Merizow. Khái niệm này tập trung vào việc  
nhìn nhận quá trình học tập là sự diễn tiến  
chuyển hóa của 3 khía cạnh: tâm lí - nhận thức -  
hành vi. Theo đó, HTCH được hiểu là quá trình  
người học tích cực tham gia vào hoạt động xem  
xét, chiêm nghiệm, đánh giá lại những trải  
nghiệm mình đã thực hiện để từ đó đi đến  
những thay đổi sâu sắc trong suy nghĩ và hành  
vi ở bản thân mình, từ đó có sự vận dụng phù  
hợp vào trong thực tiễn. Sự thay đổi đó là kết  
quả đến từ hoạt động xác định lại các giá trị  
trong mối quan hệ có chứa đựng sự xung đột  
giữa chúng, đòi hỏi người học cần phải có sự  
nhìn nhận, phản ánh, phân tích, đánh giá một  
cách thấu đáo các vấn đề đang tồn tại. Quan  
điểm hc tp chuyn hóa, do đó, được cho là có  
sự kế thừa và phát triển dựa trên quan điểm  
giáo dc kiến tạo xã hội và quan điểm giáo dc  
thực dụng gắn liền với tên tuổi của các nhà giáo  
dc như John Dewey, Jean Piaget và Lev  
Vygotsky [1]. Theo đó, quan điểm này chú  
trọng sự tác động, ảnh hưởng của hoạt động học  
đến thực tế, tập trung trả lời cho câu hỏi Học để  
làm gì? hơn là Học để biết gì?. Nói cách khác,  
quan điểm hc tp chuyn hóa coi trọng yếu tố  
động của hoạt động học, theo triết lí nhìn nhận  
các thực thể trong thế giới trong một sự vận  
động đa dạng và ảnh hưởng lẫn nhau. Nó nhấn  
mạnh đến yếu tố chức năng “giáo dc” của giáo  
dc. Chức năng của giáo dc không phải chỉ là  
đào tạo ra con người có hiểu biết. Chức năng  
của giáo dc, hiểu một cách sâu xa, phải hướng  
đến sự tác động mang tính cải thiện tích cực của  
con người đối với thế giới, với thực tiễn, làm  
cho thế giới, thực tiễn ngày một tốt đẹp hơn.  
Theo quan điểm đó, giáo dc phải đào tạo ra  
được những con người có khả năng đóng góp,  
xây dựng, mang lại những giá trị thiết thực cho  
cuộc sống. Muốn như vậy, đòi hỏi bản thân  
người học cần được giáo dc, dy hc theo cách  
phù hợp để có thể hình thành được khả năng  
xác định đúng đắn những giá trị và theo đuổi  
những giá trị ấy cho một tương lai bền vững,  
lâu dài.  
2. Nội dung nghiên cứu  
2.1. Khái niệm học tập chuyển hóa  
N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38  
33  
Với việc hiểu về hoạt động học như thế,  
quan điểm HTCH rõ ràng cho thấy nó có sự  
khác biệt rất lớn so với các quan điểm học tập  
trước đây, vốn tập trung chủ yếu vào kiến thức  
và hoạt động lĩnh hội, ghi nhớ kiến thức, chỉ  
nhằm giải quyết vấn đề Học để biết cái gì?. Sự  
tập trung vào kiến thức ở thể tĩnh như vậy đã  
dẫn đến sự thực hành lối dạy học nhồi nhét kiến  
thức diễn ra khá phổ biến, biến học sinh trở  
thành một cỗ máy ghi nhớ và học thuộc lòng,  
và sự vận dụng, đóng góp vào trong thực tế khi  
các em bước vào cuộc sống thực gặp nhiều khó  
khăn, trở ngại do nhận thức, tư duy thiếu sự linh  
hoạt, thiếu biện chứng trong việc xem xét, nhìn  
nhận, đánh giá các vấn đề, hiện tượng gặp phải.  
2.1.2. Nguyên lí  
Hc tp chuyn hóa bao hàm sự thay đổi  
lớn trong nhận thức, cảm xúc và hành vi, dẫn  
đến sự chuyển hóa dần trong lối sống và hoạt  
động mà ở đó thể hiện sự thấu hiểu bản thân  
bên trong và các đối tượng bên ngoài. Theo  
Charles Taylor [2], nhà giáo dc đương đại  
người Australia, hc tp chuyn hóa gồm có 5  
nguyên lí sau:  
(1) Tự học tập văn hóa (Cultural-self  
learning): Theo đó, việc học tập nhằm giúp  
người học có sự hiểu biết đầy đủ hơn về thế  
giới quan, đặc biệt là các giá trị, cảm xúc, tư  
tưởng tồn tại trong cả tiềm thức lẫn nhận thức  
của bản thân, những yếu tố mà tạo nên thói  
quen tư duy, suy nghĩ, hình thành nên thực thể  
cá nhân và chi phối các hành vi nội tâm bên  
trong cũng như những hành vi xã hội bên ngoài.  
Nói ngắn gọn, việc học phải giúp người học  
hiểu rõ về bản thân mình đầu tiên.  
(2) Học tập quan hệ (Relational learning):  
Học tập để hiểu và đề cao giá trị của việc kết  
nối với thế giới tự nhiên, với những suy nghĩ, tư  
tưởng văn hóa, và với những sự tồn tại khác  
biệt. Nói ngắn gọn, học tập giúp phát triển lòng  
khoan dung đối với người khác và với cả  
tự nhiên.  
với thế giới tự nhiên, với những sự khác biệt về  
văn hóa ra sao. Nói ngắn gọn, học tập gắn với  
sự nhìn nhận, đánh giá lại những niềm tin cá  
nhân và niềm tin xã hội.  
(4) Học tập tầm nhìn và đạo đức (Ethical  
and visionary learning): Học tập phải gắn liền  
với mong muốn về một thế giới tốt đẹp và cần  
có sự hình dung, mường tượng ra thế giới đó  
như thế nào.  
(5) Học tập thực hành (Practical learning):  
Học tập phải giúp người học nhận ra thế giới tốt  
đẹp mà mình mong muốn và nhận ra rằng thế  
giới ấy là khả thi, từ đó họ thấy được sự cần  
thiết phải đóng góp, cống hiến để làm cho thế  
giới trở thành một nơi tốt đẹp hơn, xác định  
được những gì mình có thể làm để góp phần  
vào việc thực hiện điều đó. Nói ngắn gọn, học  
tập phải giúp người học làm nên sự thay đổi,  
khác biệt.  
Năm nguyên lí trên đã cho thấy rõ đặc điểm  
của hc tp chuyn hóa. Đó là về một hoạt động  
học có tính phức hợp, kết nối biện chứng, gắn  
với suy xét, thực hành và hướng đến sự phát  
triển bền vững của cá nhân người học và của  
cộng đồng xã hội nói chung.  
2.2. Giáo dục tích hợp - sự vận dụng quan điểm  
học tập chuyển hóa  
Giáo dc tích hợp là một cách tiếp cận sư  
phạm hiện đại, ở đó người học cần huy động  
mọi nguồn lực để giải quyết một tình huống  
phức hợp có vấn đề nhằm phát triển các năng  
lực và phẩm chất cá nhân. Giáo dc tích hợp có  
tác dụng phát triển năng lực của người học về  
các mặt phương pháp, thái độ, kĩ năng, trí tuệ,  
tình cảm, giúp tận dụng vốn kinh nghiệm của  
người học, thiết lập mối quan hệ giữa các mảng  
kiến thức, kĩ năng và phương pháp của nhiều  
môn học. Ngoài ra, nó được cho là có thể tinh  
giản kiến thức, tránh sự lặp lại ở các môn học  
nhưng lại giúp học sinh hiểu sâu được vấn đề  
của bài học.  
Giáo dc tích hợp có thể được thực hiện  
bằng nhiều cách. Một trong những cách phổ  
biến và đang ngày càng được thúc đẩy hiện nay  
là hoạt động giáo dc STEAM. Giáo dc  
STEAM được cho là sự mở rộng, phát triển của  
giáo dc STEM. STEAM là cách viết tắt của  
(3) Học tập phản biện (Critical learning):  
Học tập để hiểu rằng sức mạnh của kinh tế, tổ  
chức trong lịch sử đã cấu tạo nên thực thể văn  
hóa, xã hội như thế nào (đặc biệt là tầng lớp,  
chủng tộc, giới, và thế giới quan khoa học hiện  
tại…), chúng chi phối thực tại và mối quan hệ  
N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38  
34  
các chữ cái Science (khoa học), Technology (kĩ  
thuật - công nghệ), Engineer (cơ khí), Arts (Mĩ  
thuật), và Mathematics (toán học). Giáo dc  
STEAM nhằm giúp phát triển ở học sinh các  
kiến thức, kĩ năng của đa dạng lĩnh vực, gắn  
liền với các môn Khoa học, Kĩ thuật - Công  
nghệ, Mĩ thuật và Toán học ở nhà trường phổ  
thông. Yếu tố mĩ thuật (Arts) trong giáo dc  
STEAM được nhiều người ngầm hiểu như  
chính là hoạt động thẩm mĩ, sáng tạo được thêm  
vào trong giáo dc STEM. Nói cách khác, giáo  
dc STEAM chính là một dạng hoạt động trải  
nghiệm sáng tạo mà qua đó học sinh thực hiện  
các hành vi học tập của mình để nhằm chiếm  
lĩnh kiến thức, kĩ năng và phát triển các yếu tố  
thuộc về thái độ, cảm xúc. Giáo dc STEAM  
gắn liền với các hoạt động học tập theo dự án,  
học tập dựa trên vấn đề, giải quyết các vấn đề  
phức hợp, học sinh được thu hút vào các hoạt  
động học tập, thực hiện cá hoạt động tìm tòi,  
khám phá trong một chương trình tích hợp  
nhiều môn học.  
Giáo dc STEAM là sự thể hiện rõ ràng cho  
quan điểm hc tp chuyn hóa với cái nhìn biện  
chứng về thế giới, xem xét các đối tượng, sự vật  
trong một mối quan hệ chặt chẽ, kết nối với  
nhau, không có sự tách rời cơ học. Nói cách  
khác, các kiến thức ở trong nội tại mỗi môn học  
đều có sự liên quan hay mối quan hệ với các  
kiến thức ở các môn học khác. Cách tiếp cận  
học tập thông qua giáo dc STEAM sẽ giúp cho  
học sinh có được những khối kiến thức toàn  
diện hơn khi nhận ra được mối quan hệ của các  
kiến thức thuộc khoa học, kĩ thuật - công nghệ,  
cơ khí, mĩ thuật và toán học trong quá trình các  
em khám phá, chiếm lĩnh tri thức. Hơn thế, với  
cách tiếp cận tích hợp và hướng tới sự chuyển  
hóa, giáo dc STEAM được cho là còn góp  
phần thúc đẩy sự sáng tạo, thẩm mĩ, đạo đức và  
ngôn ngữ ở học sinh.  
của đời sống thực được mang vào trong lớp  
học, đòi hỏi các em phải tham gia vào quá trình  
ra quyết định mà ở đó có sự cân nhắc đến  
những yếu tố đạo đức và đưa ra được những lời  
giải thích phù hợp [2]. Ví dụ, “câu chuyện” đó  
có thể là về một bữa tối ở một gia đình, mọi  
người cùng nhau bàn luận có nên ăn cà chua đã  
bị biến đổi gen hay không [2]; đó có thể là câu  
chuyện bàn luận về sự tồn tại của những chiếc  
cối xay gió: nên hay không khi mà chúng là  
nguyên nhân của việc chim chết hàng loạt vào  
mùa di cư tránh rét; Câu chuyện bàn luận về  
việc xăm hình ở giới trẻ - nên hay không, vì  
sao; Câu chuyện về môi trường liên quan đến  
việc sử dụng nhựa, nilon trong sự cân nhắc lợi,  
hại… Với những câu chuyện ấy được mang  
vào lớp học, học sinh không chỉ biết được điều  
gì đang diễn ra ở thế giới bên ngoài mà quan  
trọng hơn, thông qua việc khám phá tri thức ở  
các môn học, các em có thể đưa ra những quyết  
định phù hợp cho những suy nghĩ, hành vi tiếp  
theo của mình, ý thức được rõ ràng hơn trách  
nhiệm của mình đối với bản thân và với cộng  
đồng nói chung.  
Với cách tiếp cận tích hợp sâu sắc và giàu  
tính thực tiễn như vậy, giáo dc STEAM và  
quan điểm hc tp chuyn hóa hoàn toàn phù  
hợp với quan điểm của UNESCO về giáo dc.  
Đó là hướng đến một nền giáo dc làm thay đổi  
thế giới vì một sự phát triển bền vững [3]. Cụ  
thể, giáo dc phải giúp thu hút người trẻ tham gia  
vào những cuộc tranh luận mà qua đó họ tự hình  
thành và thực hiện được những cam kết đạo đức  
liên quan đến những vấn đề môi trường, chính trị,  
văn hóa, xã hội, kinh tế…, làm họ thay đổi giá trị  
và niềm tin một cách tích cực và hướng đến một  
cuộc sống chung tốt đẹp hơn.  
2.3. Vận dụng quan điểm học tập chuyển hóa  
vào Việt Nam  
Quan điểm hc tp chuyn hóa thông qua  
cách tiếp cận giáo dc STEAM gắn liền với với  
việc tổ chức, xây dựng những “câu chuyện”,  
tình huống, bối cảnh để dạy học. Những câu  
chuyện ấy, tình huống ấy phải chứa đựng những  
mâu thuẫn, xung đột đạo đức. Nó phải giúp  
khắc họa tính cách của nhân vật trung tâm -  
chính là học sinh với những tình huống, vấn đề  
2.3.1. Vấn đề bất cập trong dy hc ở phổ  
thông tại Việt Nam  
Việt Nam đang tiến hành công cuộc đổi mới  
chương trình giáo dc một cách toàn diện, theo  
hướng phát triển năng lực ở người học [4].  
Những vấn đề bất cập của chương trình giáo  
dc trước đây và hiện hành đã được nhiều nhà  
khoa học, giáo dc chỉ ra. Cụ thể, một nghiên  
N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38  
35  
cứu trường hợp gắn với môn khoa học ở tiểu  
học của Ngô Vũ Thu Hằng và cộng sự [5] đã  
cho thấy hoạt động giáo dc và dạy học ở tiểu  
học đang tồn tại những vấn đề như sau:  
i. Hoạt động học tập trung chủ yếu vào việc  
tái hiện và ghi nhớ thông tin, dữ liệu rời rạc;  
ii. Học sinh phụ thuộc vào giáo viên và sách  
giáo khoa;  
vào yêu cầu đầu ra như hiện nay đã cho thấy sự  
coi trọng tính thực tế trong dy hc, đòi hỏi  
giáo dục và dy hc phải giúp học sinh có thể  
vận dụng những kiến thức, kĩ năng, thái độ vào  
trong thực tế để thay đổi bản thân mình, đóng  
góp cho cộng đồng chung. Định hướng như vậy  
hoàn toàn phù hợp với quan điểm hc tp  
chuyn hóa.  
iii. Kiến thức được truyền thụ một chiều và  
áp đặt từ phía giáo viên;  
iv. Học sinh chưa có sự phát huy các giá trị  
cá nhân trong giờ học;  
v. Lớp học thiếu sự bình đẳng, dân chủ  
trong quá trình tương tác giữa giáo viên và  
học sinh.  
Bản chất của thực tiễn là đa dạng và luôn  
thay đổi. Do đó, trong giáo dc, cách dy hc  
giáo điều, áp đặt là không phù hợp với thực  
tiễn. Giáo viên cần chấp nhận, ghi nhận sự khác  
biệt trong quan điểm, suy nghĩ của học sinh dựa  
trên những câu trả lời hợp lí được các em đưa  
ra. Thước đo cuối cùng không phải là đáp án  
cứng nhắc, tĩnh tại trên giấy mà chính là tính  
tích cực trong sự vận động của tư duy, suy nghĩ  
mà học sinh đạt được, trong thái độ, hành vi mà  
học sinh thực hiện được. Vì chỉ khi học sinh có  
được sự phát triển trong tư duy thì khi ấy các  
em mới có được sự phát triển lâu dài về sau, các  
em mới có thể tự học, tự đào tạo mình sau khi  
rời ghế nhà trường. Để thực hiện được điều đó,  
các bài học, bài tập không nên tập trung hướng  
vào sự tái hiện kiến thức hay đưa ra những vấn  
đề, tình huống đóng với những đáp án cứng  
nhắc bám theo cách đánh giá đúng - sai. Thay  
vào đó, bài học, bài tập nên có độ mở nhất định,  
ở đó học sinh dùng kiến thức như một công cụ  
trong quá trình học tập khám phá tri thức mới.  
Khi ấy, học tập có thể giúp học sinh là chính  
mình, thể hiện được chính mình, phát triển năng  
lực của cá nhân mình.  
Kết quả này thống nhất với nhiều báo cáo  
phản ánh thực trạng dy hc nhồi nhét, chủ yếu  
tập trung vào kiến thức lí thuyết, thiếu sự vận  
dụng và tính thực tế; học vẹt, học bằng cách ghi  
nhớ vẫn được coi trọng. Tại các nhà trường,  
cách đánh giá vẫn tập trung vào kiến thức, vào  
kết quả, đáp án cuối cùng. Đánh giácơ học theo  
tiêu chí “đúng - sai”, “đủ - thiếu” vẫn là chủ  
yếu. Đây được cho là một trong những nguyên  
nhân dẫn đến tình trạng học sinh gian lận trong  
thi cử, thể hiện qua việc phao thi vẫn còn được  
sử dụng khá phổ biến trong các kì thi; tình trạng  
học thêm, dạy thêm vẫn chưa thể dẹp bỏ triệt để  
[6]. Bản thân nhiều nhà quản lí giáo dc, nhà  
khoa học, sư phạm cũng như nhiều người dân  
trong xã hội đều chưa thật sự hài lòng với tình  
trạng giáo dc hiện tại và thể hiện mong muốn  
có những đổi mới mạnh mẽ hơn trong giáo  
dc [7].  
Dưới đây là một số ví dụ cụ thể trong môn  
văn thể hiện rõ ràng sự khác biệt giữa cách tiếp  
cận đóng truyền thống và cách tiếp cận mở theo  
quan điểm hc tp chuyn hóa.  
2.3.2. Vận dụng quan điểm hc tp chuyn  
hóa vào đổi mới hoạt động dy hc tại nhà  
trường phổ thông  
Vấn đề đổi mới căn bản, toàn diện giáo dc  
đã được thông qua tại Hội nghị lần thứ 8 Ban  
Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt  
Nam (khóa XI). Mục tiêu đổi mới giáo dc là  
nhằm góp phần chuyển nền giáo dc nặng về  
truyền thụ kiến thức sang nền giáo dc phát  
triển toàn diện cả về phẩm chất, năng lực, và  
phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh.  
Yêu cầu về đầu ra cũng được chú trọng hơn,  
thay vì chỉ tập trung vào số lượng mà bỏ lơi  
chất lượng như trước đây. Việc đặt trọng tâm  
* Ví dụ 1: Miêu tả về Hà Nội. Theo cách  
tiếp cận truyền thống, giáo viên sẽ có xu hướng  
ra một đề bài “đóng” là “Em hãy tả lại vẻ đẹp  
của Hà Nội” và yêu cầu học sinh miêu tả những  
vẻ đẹp Hà Nội. Khi ấy buộc tất cả học sinh sẽ  
phải ca ngợi Hà Nội với những vẻ đẹp của nó,  
cho dù có thể có em sẽ không nghĩ như vậy. Kết  
quả là sẽ có nhiều bài văn giống nhau, cùng một  
ngôn ngữ, cùng một cảm xúc, dù thực tế không  
như vậy. Theo cách tiếp cận mở của quan điểm  
hc tp chuyn hóa, giáo viên sẽ xây dựng một  
N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38  
36  
đề bài “mở” hơn, chẳng hạn hãy viết về Hà Nội  
trong mắt em. Khi ấy, giáo viên có thể khuyến  
khích học sinh miêu tả về Hà Nội và nói lên  
những suy nghĩ, cảm nhận riêng của mình, qua  
đó học sinh có dịp bày tỏ những mong muốn về  
Hà Nội dựa trên cả cảm xúc và tư duy phản  
biện được phát triển từ sự suy xét thực tế. Với  
yếu tố riêng được đẩy mạnh như vậy, học sinh  
sẽ có được những bài văn khác nhau về cùng  
một đối tượng, rất thú vị, chẳng hạn như  
dưới đây:  
vị khách du lịch không thể bỏ qua. Tiến vào  
Hồ Gươm, chúng ta sẽ thấy những hàng cây  
xanh râm mát. Đi sâu vào bên trong, ta sẽ  
thấy chiếc cổng dẫn vào cầu Thê Húc. Cầu  
Thê Húc cong như một con tôm. Đứng trên  
cầu, ta có thể nhìn thấy tháp Rùa cổ kính đã  
lâu năm. Ở nơi đó, ta cũng có thể quan sát  
toàn bộ mặt hồ. Đi thêm vài mét nữa, ta sẽ  
tới đền Ngọc Sơn. Xung quanh đền có rất  
nhiều cây cối, hoa cỏ. Đền Ngọc Sơn là một  
di tích đặc biệt của Việt Nam, tồn tại trên  
500 năm rồi. Ngôi đền được sơn màu đỏ, lợp  
mái ngói âm dương trông rất đẹp. Trong đền  
có bàn thờ thần Kim Quy rất lớn.  
HÀ NỘI TRONG MẮT EM  
Bài văn 1  
Địa điểm em thích nhất ở Hà Nội là công  
viên giải trí. Trẻ em rất thích chơi ở đây.  
Công viên giải trí có hàng cây lộc vừng với  
những tán hoa rủ xuống trông như những  
chùm pháo nhỏ.  
Hà Nội có các mùa với những vẻ đẹp rất đặc  
trưng. Vào những tháng hè, xung quanh phố  
Hai Bà Trưng, Bà Triệu, cây phượng nở hoa  
đỏ thắm như lửa, rực cháy trên cành cây  
xanh đỏ. Tiếng ve kêu inh ỏi. Những tháng  
mùa thu, ở Hà Nội, lá cây rơi như mưa, tạo  
cảm giác lãng mạn tới cho em. Những tháng  
mùa đông lạnh giá, mọi người khoác lên  
mình những chiếc áo xanh, đỏ, tím, vàng  
rất đẹp.  
Mặc dù đã đi bốn phương trời nhưng em  
không thể nào quên nơi chôn rau cắt rốn của  
mình. Đó là Hà Nội, trái tim của Việt Nam.  
Hà Nội là nơi em sinh ra và lớn lên. Dù có ở  
đâu đi chăng nữa, em vẫn cảm nhận được  
trong từng mạch máu của mình tình yêu đối  
với Hà Nội. Em yêu rất nhiều thứ ở đây. Đầu  
tiên là Hồ Gươm. Đó là nơi có tháp Rùa nhỏ  
bé nằm giữa hồ. Rồi có cả đền Ngọc Sơn cổ  
kính đã được xây cách đây hơn 200 năm.  
Cầu Thê Húc đỏ như sơn duyên dáng trên  
mặt hồ. Với những hàng cây xanh và to, nó  
đã trở thành một chiếc ô khổng lồ để che cho  
mọi người giữa trời nắng. Nơi đây có rất  
nhiều người không thân thiện nhưng cũng có  
nhiều người hiền lành, tốt bụng. Con người ở  
đây rất năng động và hoạt bát. Về đêm, tiếng  
ồn ào vẫn không ngớt. Cho nên việc tắc  
đường không còn gì là xa lạ cả. Em thích  
nhất là những khu công viên. Nơi ấy có  
nhiều cây xanh và những chú chim sẻ trò  
chuyện suốt ngày dài ở đó.  
Hà Nội với những mùa đi qua để lại  
trong em rất nhiều cảm xúc. Em rất yêu  
Hà Nội!  
Hồ Nguyễn Quỳnh Trang - Học sinh lớp 4  
Bài văn 3  
Hà Nội trong mắt em rất xấu.  
Người Hà Nội rất mất vệ sinh. Người thì vứt  
rác ra đường. Người thì cắt lá. Người thì  
khạc nhổ bừa bãi. Những danh lam thắng  
cảnh bây giờ đang xuống cấp trầm trọng. Hồ  
Gươm thì cụ rùa chết, nước thì đục. Cầu Thê  
Húc thì bạc màu sơn. Những hàng cây thì  
trụi trơ lá. Đường phố mù mịt khói xe... Con  
người Hà Nội thì rất mất ý thức, hay nói tục,  
không thân thiện. Khuôn mặt mọi người  
Em yêu Hà Nội vô cùng. Hà Nội sẽ mãi là  
một phần máu thịt trong em.  
Ngô Bảo Diệp - Học sinh lớp 4  
Bài văn 2  
Trong mắt em, Hà Nội là Thủ đô đẹp nhất!  
Đẹp nhất nơi đây là Hồ Gươm, là nơi những  
N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38  
37  
thường lộ vẻ cáu kỉnh.  
chức thi kén rể làm gì. Ông ấy là nguyên  
nhân gây ra chiến tranh...  
Sinh viên 4: Em không thích Thuỷ Tinh. Em  
thấy anh ta là người tiểu nhân. Không ăn  
được thì đạp đổ... Không lấy được thì thôi,  
gây ra bao đau khổ cho người khác.  
Giáo viên: Còn công chúa Mị Nương thì sao?  
Sinh viên 5: Em không thích Mị Nương, gió  
chiều nào xoay chiều đó, không có chính  
kiến, mờ nhạt. Sống phụ thuộc, dựa dẫm...  
Sinh viên 6: Em lại thích Mị Nương. Em  
nghĩ cô ấy có hiếu với cha, nghe lời cha,  
cũng vì vận mệnh của đất nước...  
Mặc dù vậy, Hà Nội vẫn có nhiều cái hay.  
Những người bạn thân ở đây luôn sát cánh  
bên em, cùng em trải nghiệm những kỉ niệm  
vui buồn. Em nhớ những lần đi chơi Vinpearl  
Water Park, bọn em chơi rất vui. Sau đó bọn  
em còn đi ăn những món ngon như mì Ý,  
pizza... Ăn xong, chúng em chào tạm biệt  
nhau trên những con phố nhỏ. Mặc dù Hà  
Nội đang xuống cấp nhưng em vẫn có những  
người bạn tốt ở bên.  
Em mong Hà Nội sẽ đẹp hơn, mọi người  
không chửi bậy, ít hơn nữa những khuôn mặt  
cáu kỉnh. Em mong Hà Nội có nhiều danh  
lam thắng cảnh hơn nữa.  
Nhiều học sinh lớn lên sau này đều thừa  
nhận họ từng là nạn nhân của cách dy hc  
truyền thống có tính dập khuôn máy móc, đóng  
kín trong các nhà trường phổ thông. Cách dy  
hc đó khiến học sinh bị chi phối nhiều bởi áp  
lực điểm số gắn với những cách đánh giá bám  
theo chuẩn tập trung vào những đáp án cứng  
nhắc. Với môn Văn, điều này đã gây ra hiện  
tượng học sinh phải làm theo văn mẫu, học  
thuộc lòng văn mẫu để trả bài giáo viên, tránh  
bị điểm thấp. Với môn Đạo đức, Giáo dục Công  
dân, học sinh có thể ghi nhớ và tái hiện đúng  
các kiến thức lí thuyết về giá trị, phẩm chất tốt  
đẹp nhưng lại chưa thể có sự điều chỉnh phù  
hợp, tạo ra sự thay đổi bản chất trong nhận thức  
và hành vi . Cách dy hc áp đặt, một chiều, với  
nội dung dy hc riêng rẽ, tách rời không thúc  
đẩy hoạt động lập luận, phản biện đã dẫn đến  
hậu quả học sinh không được phát triển tư duy  
phản biện, tư duy sáng tạo và các giá trị cá nhân  
- những yếu tố quan trọng bậc nhất trong sự  
hình thành năng lực con người và có ý nghĩa to  
lớn đối với sự phát triển của nhân loại. Những  
gì học sinh học được khá xa rời thực tế cuộc  
sống và do đó các em khó có thể vận dụng,  
chuyển hóa chúng vào thực tế cuộc sống của  
bản thân sau khi rời nhà trường. Điều này thống  
nhất với nhận định của nhiều nhà khoa học,  
giáo dc cho rằng học sinh Việt Nam thường  
lúng túng, bị động khi thực sự bước vào cuộc  
sống của một người trưởng thành.  
Lương Minh Anh - Học sinh lớp 4  
Ví dụ 2: Truyện “Sơn Tinh - Thủy Tinh”.  
Theo cách tiếp cận truyền thống, học sinh  
thường được giáo viên yêu cầu phân tích câu  
chuyện theo hướng ca ngợi Sơn Tinh, được  
hiểu như là nhân vật chính diện, đại diện cho  
bên Thiện. Tuy nhiên, theo cách tiếp cận mở  
của quan điểm hc tp chuyn hóa, học sinh sẽ  
được khuyến khích bày tỏ những suy nghĩ riêng  
của mình về các nhân vật trong truyện và lựa  
chọn một nhân vật nào đó để ủng hộ, ca ngợi,  
như được thể hiện trong trích đoạn hội thoại  
giữa giáo viên và sinh viên sư phạm trong một  
giờ học dưới đây:  
Giáo viên: Ngày xưa phân tích chuyện Sơn  
Tinh - Thuỷ Tinh, các em ca ngợi ai?  
Cả lớp: Sơn Tinh ạ.  
Giáo viên: Thế cô hỏi thật, em thích nhân vật  
nào nhất truyện? Vì sao?  
Sinh viên1: Em thích Thuỷ Tinh. Vì anh ta  
yêu rất mãnh liệt, quyết không từ bỏ. Rất  
điên. Em không thích Sơn Tinh vì được nhà  
vua thiên vị, ưu ái quá.  
Sinh viên 2: Em lại thích vua Hùng, vì biết  
nhìn xa trông rộng. Ông đã chọn Sơn Tinh  
rồi nên mới yêu cầu lễ vật như thế. Làm lãnh  
đạo phải có tầm nhìn chiến lược...  
Sinh viên 3: Em lại không thích vua Hùng,  
bất công với Thuỷ Tinh. Nếu đã như vậy, tổ  
N.V.T. Hang / VNU Journal of Science: Education Research, Vol. 35, No. 1 (2019) 30-38  
38  
3. Kết luận  
Tài liệu tham khảo  
[1] Ngô Vũ Thu Hằng, Sự phát triển của quan điểm  
Bài viết đã trình bày một số vấn đề cơ bản  
về học tập chuyển hóa, bao gồm đặc điểm,  
nguyên lí, tác dụng và khả năng vận dụng của  
nó vào trong hoạt động giáo dc, dy hc ở  
trường phổ thông. Với những giá trị nổi bật mà  
học tập chuyển hóa có thể mang lại, tác giả  
khuyến nghị cần có thêm nhiều hơn nữa những  
nghiên cứu ở Việt Nam, đặc biệt là những  
nghiên cứu cụ thể về sự vận dụng quan điểm  
này vào trong hoạt động thiết kế chương trình,  
bài học với sự chú trọng xây dựng các tình  
huống có vấn đề, chứa đựng những xung đột  
mà để giải quyết chúng, học sinh cần có sự tìm  
tòi, sử dụng, liên hệ kiến thức, kĩ năng của  
nhiều môn học, hình thành nên những giá trị  
đạo đức phù hợp, tích cực. Để thực hiện được  
điều đó, sự phối hợp nghiên cứu giữa các nhà  
khoa học giáo dc là cần thiết. Do đó, những  
nghiên cứu mang tính liên ngành, liên môn cần  
được thúc đẩy nhiểu hơn để có thể tạo ra được  
những bài học có cơ sở khoa học vững chắc,  
tiến bộ, giúp học sinh có thể chuyển hóa được  
các giá trị học được từ trong lớp ra ngoài  
cuộc sống.  
kiến tạo xã hội về giáo dục: Nhìn từ mối liên hệ  
với sự phát triển của khoa học thời kì Khai sáng ở  
châu Âu, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà  
Nội.  
63(5)  
(2018)  
146-152.  
[2] C. Taylor, ST2EAM education in the  
Anthropocene: Countering the Dark Side of  
STEM. Presented at International Conference  
“The 5th International ASEAN Comparative  
Educational Research Network and The 1st  
International Annual Meeting on STEM  
Education, 14th - 15th Khon Kaen, Thailand, 2018.  
[3] United Nations, Transforming our world: the 2030  
Agenda for sustainable development. Retrieved  
[4] Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự thảo Chương trình  
giáo dục phổ thông - Chương trình tổng thể, 2017.  
[5] N.V.T. Hằng, M. Meijer, A.M.W. Bulte, A. Pilot,  
The implementation of a social constructivist  
approach in primary science education in Confucian  
heritage culture: the case of Vietnam, Cultural  
Studies of Science Education. 10(3) (2015) 665-693.  
DOI: 10.1007/s11422-014-9634-8.  
[6] Tran Thu Ha & Trudy Harpham, Primary  
education in Vietnam: Extra classes and  
outcomes, International Education Journal, 6(5),  
(2005) 626-634.  
Lời cảm ơn  
[7] Nguyen Quang Kinh, Nguyen Quoc Chi, Education  
in Vietnam: Development history, challenges and  
solutions. In An African Exploration of the East  
Asian Education Experience, Edited by Birger  
Fredriksen and Tan Jee Peng, The World Bank,  
Washington, D. C, 2008.  
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát  
triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia  
(NAFOSTED) trong đề tài mã số  
503.01-2017.01  
G
kl  
pdf 9 trang yennguyen 16/04/2022 4140
Bạn đang xem tài liệu "Học tập chuyển hóa và một số gợi ý về sự vận dụng vào thực tiễn dạy học ở Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfhoc_tap_chuyen_hoa_va_mot_so_goi_y_ve_su_van_dung_vao_thuc_t.pdf