Hoạt động thể lực và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Hùng Vương
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y học
HOẠT ĐỘNG THỂ LỰC VÀ CÁC YẾU TỐ LIÊN QUAN
Ở PHỤ NỮ MANG THAI TẠI BỆNH VIỆN HÙNG VƯƠNG
Nguyễn Thị Thu An*, Trương Thị Thùy Dung*, Trịnh Thị Hoàng Oanh*
TÓM TẮT
Đặt vấn đề: Hoạt động thể lực (HĐTL) trong thời kỳ mang thai đã được chứng minh là mang lại nhiều lợi
ích sức khỏe cho cả mẹ và thai nhi. Tuy nhiên, tỷ lệ HĐTL trong thai kỳ trên thế giới được báo cáo rất thấp. Bởi vì
phần lớn phụ nữ lựa chọn giảm HĐTL và tăng thời gian nghỉ ngơi khi phát hiện mang thai.
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ HĐTL đủ theo khuyến nghị Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) và các yếu tố
liên quan ở phụ nữ mang thai.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang này tiến hành trên 365 phụ nữ mang thai
- đến khám tại bệnh viện Hùng Vương. Các yếu tố cá nhân, các yếu tố gia đình - xã hội, các yếu tố môi trường
của họ được ghi lại và Bảng câu hỏi hoạt động thể lực khi mang thai (PPAQ) được sử dụng để đánh giá mức độ
HĐTL của họ trong thời kỳ mang thai. Các yếu tố liên quan đến HĐTL đủ theo khuyến nghị ACOG được xác
định bằng hồi quy đa biến Poisson và điều chỉnh gây nhiễu.
Kết quả: Hoạt động việc nhà (55,3%) và hoạt động cường độ nhẹ (72,2%) đại diện phần lớn của hoạt động
trong thời kỳ mang thai. Chỉ có 17,3% phụ nữ mang thai đáp ứng HĐTL theo hướng dẫn ACOG (ít nhất 150
phút mỗi tuần cho hoạt động cường độ vừa). Thông tin hướng dẫn tập thể dục thai kỳ từ nhân viên y tế, thói
quen tập thể dục trước khi mang thai là những yếu tố liên quan có ý nghĩa với HĐTL đủ theo hướng dẫn ở phụ
nữ mang thai.
Kết luận: Rất ít phụ nữ mang thai đáp ứng HĐTL theo hướng dẫn ACOG. Các phát hiện nhấn mạnh sự
cần thiết của hệ thống chăm sóc tiền sản và nhân viên y tế để khuyến khích phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và thai
phụ hướng đến một lối sống năng động theo khuyến nghị.
Từ khóa: hoạt động thể lực, phụ nữ mang thai, yếu tố liên quan, bộ câu hỏi PPAQ
ABSTRACT
PHYSICAL ACTIVITY AND AFFECTED FACTORS AMONG PREGNANT WOMEN
AT HUNG VUONG HOSPITAL
Nguyen Thi Thu An, Truong Thi Thuy Dung, Trinh Thi Hoang Oanh
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Vol. 24 - No. 1 - 2020: 82 - 89
Background: Physical activity (PA) during pregnancy has been proven to result in marked health benefits
for mother and fetus. However, the worldwide prevalence of PA during pregnancy is reportedly low. Because
most women choose to reduce their level of PA and increase relaxation after they discover they are pregnant.
Objectives: To determine the prevalence and factors associated with enough PA as recommended by
American College of Obstetricians and Gynecologists (ACOG) among pregnant women.
Materials and method: This cross-sectional study was conducted on 365 pregnant women admitting the
Out-patient Department of Hung Vuong hospital. Their intrapersonal, interpersonal, environmental factors were
recorded, and the Pregnancy Physical Activity Questionnaire (PPAQ) was used to assess their level PA during
pregnancy. Factors associated with enough PA according to American College of Obstetricians and Gynecologists
(ACOG) recommendations were modelling by using Poisson regression model.
*Khoa Y tế *Đại học Y Dược TP. Hồ Chí Minh
Tác giả liên lạc: CN. Nguyễn Thị Thu An ĐT: 0765162217
Email:tanntt1602@gmail.com
82
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y học
Results: Household activity (55.3%) and light-intensity activity (72.2%) represented the majority
component of activity during pregnancy. Only 17.3% of the pregnant women met the PA according to ACOG
practice guidelines (least 150 minutes per week of moderate-intensity aerobic activity). Information on exercise
from health workers, pre-pregnancy exercise habit were significantly related to sufficient physical activity
according to recommendations.
Conclusion: Low rate pregnant women met the PA according to ACOG practice guidelines. The findings
emphasize the need for prenatal care system and health staff to encourage young and pregnant women towards an
active lifestyle.
Key words: physical activity, pregnancy, affected factors, the PPAQ
PNMT một cách hiệu quả(12).
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bệnh viện Hùng Vương là một trong hai
bệnh viện sản khoa lớn nhất tại thành phố Hồ
Chí Minh cũng như toàn bộ khu vực phía Nam,
đây là nơi tập trung đa dạng các đối tượng
PNMT đến khám thai. Theo thống kê, trung
bình hàng năm bệnh viện tiếp nhận hơn 650.000
lượt khám và có xu hướng ngày càng gia tăng(13).
Vì vậy chúng tôi mong muốn kết quả nghiên
cứu có thể góp phần mô tả chính xác tình trạng
HĐTL của thai phụ, cũng như góp phần hoàn
thiện chương trình chăm sóc tiền sản thai phụ
đến khám tại bệnh viện Hùng Vương.
Hoạt động thể lực (HĐTL) được Tổ chức Y
tế Thế giới (WHO) đưa vào một trong chín nội
dung y tế quan trọng được đặt ra để phòng ngừa
và kiểm soát các bệnh không lây(1). HĐTL ở phụ
nữ mang thai (PNMT) đóng vai trò quan trọng.
Nhiều nghiên cứu chứng minh HĐTL đầy đủ
giúp giảm 31% nguy cơ đái tháo đường thai kỳ,
43% nguy cơ tiền sản giật, 44% các triệu chứng
trầm cảm sau sinh, tăng chỉ số phát triển thần
kinh ở trẻ gấp 1,51 lần so với thiếu HĐTL(2,3,4,5)
.
Năm 2002, Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ
(ACOG) đã cập nhật hướng dẫn HĐTL cho phụ
nữ mang thai và khuyến nghị đạt được ít nhất
150 phút hoạt động cường độ vừa phải mỗi
tuần(6). Tuy nhiên, tỷ lệ phụ nữ mang thai HĐTL
đủ theo khuyến nghị của ACOG trong các
nghiên cứu tại Việt Nam còn khá thấp, dao động
từ 23,6% đến 37,1%(7,8). Theo kết quả khảo sát,
HĐTL chưa được quan tâm đúng mức, hầu hết
phụ nữ giảm hoặc ngừng các hoạt động thể dục
khi mang thai. Thêm vào đó, nghỉ ngơi và thư
giãn được xem là quan trọng hơn việc tham gia
các hoạt động thể dục(9,10). Các yếu tố liên quan
đến HĐTL ở PNMT là một tổng thể, bao gồm:
yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình - xã hội và yếu tố
môi trường. Tuy nhiên, phần lớn các nghiên cứu
được thực hiện chỉ tập trung vào yếu tố cá nhân,
một số ít các nghiên cứu đánh giá yếu tố gia
đình - xã hội và yếu tố môi trường nhưng chỉ
dừng lại ở khảo sát định tính(11). Vì vậy, việc
đánh giá toàn diện vai trò động lực hay rào cản
của các yếu tố liên quan này bằng nghiên cứu
định lượng có ý nghĩa quan trọng, nhằm lập kế
hoạch can thiệp thúc đẩy hành vi HĐTL ở
Mục tiêu nghiên cứu
Xác định tỷ lệ HĐTL đủ theo khuyến nghị
Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) ở phụ
nữ mang thai đến khám tại bệnh viện Hùng
Vương năm 2019.
Xác định mối liên quan giữa HĐTL đủ theo
khuyến nghị ACOG với các yếu tố cá nhân, gia
đình - xã hội, môi trường ở phụ nữ mang thai
đến khám tại bệnh viện Hùng Vương năm 2019.
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPHÁPNGHIÊNCỨU
Đối tượng nghiên cứu
Phụ nữ mang thai đến khám tại bệnh viện
Hùng Vương Thành phố Hồ Chí Minh (TP.
HCM) từ tháng 2 đến tháng 5 năm 2019.
Phương pháp nghiên cứu
Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu cắt ngang.
Cỡ mẫu
Nghiên cứu sử dụng công thức ước lượng
83
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y học
một tỷ lệ với xác suất sai lầm loại 1 là 5%, tỷ lệ
phụ nữ mang thai HĐTL đủ của tác giả Cao
Hoàng Hương Trang năm 2015 là 37,1%(7).
hơn 5 hoặc tần số trong ô rất nhỏ thì sử dụng
kiểm định Fisher.
Tỷ số tỷ lệ hiện mắc PR với KTC 95% được
dùng để lượng hóa mối quan hệ. Tiêu chí sử
dụng để báo cáo mối liên quan là p <0,05 và
khoảng tin cậy 95% không chứa giá trị 1.
Tính ra cỡ mẫu cần thiết là 359 trường hợp.
Phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu theo phương pháp ngẫu nhiên hệ
thống, trong đó cứ mỗi năm PNMT đến khám
thì một PNMT được mời tham gia vào nghiên
cứu. Sau khi loại trừ 15 trường hợp trả lời không
đủ 100% bộ câu hỏi HĐTL (33 câu), nghiên cứu
đã thu thập được 365 trường hợp, vượt cỡ mẫu
ban đầu là 6 trường hợp.
Sử dụng mô hình hồi quy đa biến Poisson để
đánh giá mối liên quan giữa HĐTL với các yếu
tố cá nhân, gia đình – xã hội, môi trường.
Các biến số sinh học và các biến số có p <0,2
trong phân tích đơn biến sẽ được giữ lại và đưa
vào mô hình đa biến, sau đó loại dần các biến
không có ý nghĩa p >0,05. Sau đó, kiểm định lại
độ phù hợp của mô hình.
Thu thập số liệu
Tiến hành nghiên cứu thử trên 30 phụ nữ
mang thai đến khám tại bệnh viện Hùng Vương
từ tháng 2-3/2019 để kiểm tra và điều chỉnh bộ
câu hỏi phù hợp. Sau đó tiến hành thu thập số
liệu từ tháng 4-5/2019, phụ nữ mang thai đồng ý
tham gia vào nghiên cứu được phỏng vấn bằng
bộ câu hỏi soạn sẵn. Nội dung phỏng vấn bao
gồm thông tin về yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình
– xã hội, yếu tố môi trường và HĐTL khi mang
thai. Bộ câu hỏi hoạt động thể lực khi mang thai
(PPAQ) được dùng để đánh giá toàn diện các
HĐTL ở phụ nữ mang thai(14). Năm 2008, PPAQ
đã được Ota E và cộng sự dịch chuyển ngữ sang
phiên bản tiếng Việt, và kiểm tra độ tin cậy (hệ
số tương quan nội bộ nhóm-ICC: 0,88), tính giá
trị (hệ số tương quan Pearson-PCC: 0,29) trên
phụ nữ Việt Nam(15).
Y đức
Nghiên cứu được thông qua bởi Hội đồng
Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học Đại học Y
Dược TP. Hồ Chí Minh số: 977/ĐHYD-HĐĐĐ
ngày 20/3/2019.
KẾT QUẢ
Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Bảng 1: Mô tả các yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình xã
hội và yếu tố môi trường (n=365)
Yếu tố
Yếu tố cá nhân
Tần số Tỷ lệ (%)
Nhóm tuổi
18 – 24 tuổi
25 – 34 tuổi
35 – 44 tuổi
77
227
61
21,1
62,2
16,7
Giai đoạn thai kỳ
Ba tháng đầu
Ba tháng giữa
Ba tháng cuối
33
9,1
Phân tích số liệu
156
176
42,7
48,2
Dữ liệu được nhập bằng phần mềm phần
mềm EpiData 3.1 và phân tích bằng phần mềm
Stata 14.0.
Trình độ học vấn
Dưới cấp 2
Cấp 2
43
92
11,8
25,2
27,9
35,1
Thống kê mô tả, các biến số định tính (thuộc
nhóm yếu tố cá nhân, yếu tố gia đình-xã hội, yếu
tố môi trường) dùng tần số, tỷ lệ (%). Đối với
biến số định lượng (năng lượng tiêu hao MET-
phút/tuần) theo mức độ và loại hoạt động dùng
trung bình, độ lệch chuẩn. Thống kê phân tích,
dùng kiểm định chi bình phương để so sánh tỷ
lệ giữa 2 biến định tính.
Cấp 3
102
128
Trên cấp 3
Nhóm nghề nghiệp
Lao động chân tay
Lao động trí óc
Khác (nội trợ)
151
106
108
41,4
29,0
29,6
Tình trạng hôn nhân
Kết hôn/sống cùng đối tác
359
98,4
Nếu trên 20% tổng số các ô có vọng trị nhỏ
84
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y học
Yếu tố
Tần số Tỷ lệ (%)
khu dân cư phức tạp, vắng người, có người
nghiện hút chích. Câu lạc bộ tập thể dục tại khu
dân chiếm tỷ lệ rất thấp (8,5%).
BMI trước khi mang thai
Thiếu cân
Bình thường
Thừa cân
65
225
54
17,8
61,6
14,8
5,8
Tỷ lệ hoạt động thể lực theo loại và theo mức độ
Bảng 2: Tỷ lệ hoạt động thể lực theo loại
Béo phì
21
HĐTL theo loại
Việc nhà
Met-giờ/tuần
76,27
Tỷ lệ (%)
55,3
8,5
Đái tháo đường (có)
53
14,5
Tập thể dục trước mang thai 3 tháng
Đi lại
11,77
Không tập thể dục
<1 lần mỗi tuần
1-4 lần mỗi tuần
≥5 lần mỗi tuần
237
15
64,9
4,1
Thể dục
18,2
13,2
23
Công việc
Tổng HĐTL
31,80
64
17,5
13,5
138,04
100
49
Trong một tuần, phụ nữ hoạt động thể lực
phân bố không đều theo loại: hoạt động chiếm
tỷ lệ hao phí năng lượng cao nhất là việc nhà
(55,3%), chiếm tỷ lệ thấp nhất trong thể dục
(13,2%) và đi lại (8,5%) (Bảng 2).
Yếu tố gia đình – xã hội
Thông tin tập thể dục từ NVYT (có)
Người hỗ trợ việc nhà (có)
69
314
66
18,9
86,0
47,1
Người tập thể dục cùng (có) (n=140)
Thái độ gia đình tập thể dục khi mang thai
Ủng hộ
Không có ý kiến
Phản đối
131
217
17
35,9
59,4
4,7
Bảng 3: Tỷ lệ hoạt động thể lực theo mức độ
HĐTL theo mức độ
Met-giờ/tuần
99,71
Tỷ lệ (%)
72,2
Nhẹ
Vừa
Yếu tố môi trường
36,33
26,3
Khu dân cư an toàn (có)
357
253
164
31
97,8
69,3
44,9
8,5
Mạnh
2
1,5
Khu dân cư có không gian tập thể dục
(có)
Tổng HĐTL
138,04
100
Trong một tuần, phụ nữ chủ yếu tham gia
vào hoạt động nhẹ (72,2%) và hầu như ít tham
gia hoạt động mạnh (1,5%) (Bảng 3).
Khu dân cư có cơ sở tập thể dục (có)
Khu dân cư có câu lạc bộ tập thể dục
(có)
Kết quả Bảng 1 mô tả các đặc điểm của dân
số mẫu. Trước khi mang thai 3 tháng, phần lớn
phụ nữ không tập thể dục (64,9%) và chỉ có rất ít
phụ nữ tập thể dục từ 5 lần trở lên mỗi tuần
(13,4%), tần suất tập thể dục này không có sự
thay đổi rõ rệt từ khi mang thai. Một nửa số phụ
nữ tham gia nghiên cứu nhận được thông tin về
chế độ tập thể dục từ nhiều nguồn khác nhau
(46%), và chỉ số ít nguồn thông tin này đến từ
nhân viên y tế (NVYT) (18,9%). Hầu hết phụ nữ
mang thai nhận được sự hỗ trợ việc nhà (86%)
đến chủ yếu từ chồng hoặc đối tác. Thái độ của
gia đình về tập thể dục khi mang thai thường
không có ý kiến (59,4%), ngoài ra có một số ít
trường hợp gia đình phản đối chiếm (4,7%).
Bảng 4: Tỷ lệ tập phụ nữ mang thai hoạt động thể
lực đủ theo hướng dẫn Đại học Sản phụ khoa Hoa Kỳ
(n=365)
HĐTL đủ theo ACOG (MET-
Tần số Tỷ lệ KTC 95%
giờ/tuần)
Không
Có
302
63
82,7 78,5-86,3
17,3 13,7-21,5
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phụ nữ
mang thai HĐTL đủ theo hướng dẫn ACOG là
khá thấp (17,3%) (Bảng 4).
Các yếu tố liên quan đến phụ nữ mang thai
HĐTL đủ theo hướng dẫn ACOG
Kết quả Bảng 5 cho thấy tỷ lệ PNMT HĐTL
đủ theo ACOG cao hơn ở nhóm phụ nữ có thai
kỳ muộn (p=0,014), nhóm lao động trí óc hoặc
nội trợ (p=0,045), mắc bệnh đái tháo đường
(p=0,001), tập thể dục trước khi mang thai
(p<0,001), nhận được thông tin tập thể dục từ
NVYT (p <0,001), được gia đình ủng hộ về việc
tập thể dục (p=0,002).
Hầu hết các phụ nữ tự đánh giá khu dân cư
sinh sống đủ an toàn cho hoạt động tập thể dục
(97,8%), phần còn lại đánh giá khu dân cư không
an toàn (2,2%) với lý do được kể ra bao gồm:
85
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y học
Bảng 5: Các yếu tố liên quan đến phụ nữ mang thai hoạt động thể lực đủ theo hướng dẫn Đại học Sản phụ khoa
Hoa Kỳ (n=365)
HĐTL
Yếu tố
p
PR (KTC 95%)
Đủ n (%)
Không đủ n (%)
Yếu tố cá nhân
Nhóm tuổi
68 (88,3)
18 – 24 tuổi
25 – 34 tuổi
35 – 44 tuổi
9 (11,7)
44 (19,4)
10 (16,4)
1
183 (80,6)
51 (83,6)
0,139
0,428
1,66 (0,85-3,24)
1,40 (0,61-3,24)
Giai đoạn thai kỳ
31 (93,9)
Ba tháng đầu
Ba tháng giữa
2 (6,1)
1
23 (14,7)
38 (21,6)
133 (85,3)
0,014
0,045
0,001
1,61 (1,10-2,35)
2,59 (1,21-5,53)
Ba tháng cuối
138 (78,4)
Nhóm nghề nghiệp
Lao động chân tay
Lao động trí óc
Khác (nội trợ)
21 (13,9)
16 (15,1)
26 (24,1)
130 (86,1)
90 (84,9)
1
1,32 (1,01-1,74)
1,75 (1,01-3,03)
82 (75,9)
Đái tháo đường
267 (85,6)
Không
Có
45 (14,4)
18 (34,0)
1
35 (66,0)
2,35 (1,48-3,74)
BMI trước khi mang thai
54 (83,1)
Thiếu cân
Bình thường
Thừa cân
Béo phì
11 (16,9)
37 (16,4)
9 (16,7)
6 (28,6)
1
188 (83,6)
0,927
0,970
0,236
0,97 (0,53-1,80)
0,98 (0,44-2,20)
1,69 (0,71-4,01)
45 (83,3)
15 (71,4)
Tập thể dục trước mang thai
207 (87,3)
Không tập thể dục
<1 lần mỗi tuần
1-4 lần mỗi tuần
≥5 lần mỗi tuần
30 (12,7)
3 (20,0)
1
12 (80,0)
<0,001
1,38 (1,17-1,64)
1,92 (1,36-2,70)
2,65 (1,58-4,45)
12 (18,8)
18 (36,7)
52 (81,2)
31 (63,3)
Yếu tố gia đình – xã hội
Thông tin tập thể dục từ NVYT
Không
Có
32 (10,8)
264 (89,2)
38 (55,1)
1
31 (44,9)
<0,001
0,002
4,16 (2,73-6,32)
Thái độ gia đình tập thể dục
98 (74,8)
Ủng hộ
Không có ý kiến
Phản đối
33 (25,2)
29 (13,4)
1 (5,9)
1
188 (86,6)
0,52 (0,34-0,79)
0,27 (0,12-0,62)
16 (94,1)
quan thực sự với HĐTL đủ theo ACOG bao gồm
tần suất tập thể dục trước mang thai và nhận
thông tin tập thể dục từ NVYT. Cụ thể, nhóm
PNMT nhận được thông tin tập thể dục từ
NVYT thì đáp ứng khuyến nghị ACOG cao gấp
3,94 lần so với nhóm PNMT không nhận được
thông tin (PRhc=3,94; KTC 95%: 2,55-6,09;
Bảng 6: Mô hình hồi quy đa biến các yếu liên quan
đến hoạt động thể lực đủ của phụ nữ mang thai theo
hướng dẫn ACOG (n=365)
phc
PRhc (KTChc 95%)
Đặc tính
Tần suất tập thể dục trước mang thai 3 tháng
Không tập thể dục
<1 lần mỗi tuần
1-4 lần mỗi tuần
≥5 lần mỗi tuần
1
0,876
0,198
1,09 (0,38-3,07)
1,47 (0,82-2,65)
2,52 (1,52-4,20)
phc<0,001). Nhóm PNMT có tần suất tập thể dục
<0,001
từ 5 lần mỗi tuần trước mang thai thì đáp ứng
khuyến nghị ACOG cao gấp 2,52 lần so với
nhóm PNMT không tập thể dục trước đó
Thông tin về tập thể dục từ
NVYT (có)
<0,001
3,94 (2,55-6,09)
Qua phân tích đa biến Bảng 6, các yếu tố liên
86
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y học
(PRhc=2,52; KTC 95%: 1,52-4,20; phc<0,001).
BÀN LUẬN
được đưa vào khảo sát trong nghiên cứu tại Việt
Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy khi PNMT
nhận được thông tin tập thể dục từ NVYT là một
động lực làm tăng tỷ lệ HĐTL đáp ứng khuyến
nghị ACOG. Theo phân tích đa biến, nhóm
PNMT nhận được thông tin tập thể dục từ
NVYT thì đáp ứng hướng dẫn ACOG cao gấp
3,94 lần so với nhóm PNMT không nhận được
thông tin trên (PR=3,94; KTC 95%: 2,55-6,09,
p<0,001). Khi phụ nữ mang thai sẽ chú trọng hơn
đến sức khỏe và có xu hướng thực hành những
tư vấn từ NVYT, bao gồm cả chế độ tập thể dục.
Ủng hộ cho kết quả của chúng tôi là nghiên cứu
tại Brazil năm 2015 (p <0,001)(19). Các hướng dẫn
từ NVYT về chế độ tập luyện cho PNMT thực sự
quan trọng, tuy nhiên tỷ lệ PNMT nhận được
hướng dẫn từ NVYT rất thấp. Tỷ lệ này trong
nghiên cứu của chúng tôi chỉ có 18,9%. Điều này
dễ hiểu vì hệ thống chăm sóc tiền sản tại Việt
Nam chưa phát triển, thời gian thăm khám khá
ngắn nên NVYT ưu tiên giải quyết các vấn đề
khác được cho là quan trọng hơn chế độ tập
luyện. Một nghiên cứu khác tại Ba Lan năm
2002, cho thấy có 32% PNMT không tập thể dục
vì lý do không biết phải làm gì(20). Một nghiên
cứu tại Nam Phi năm 2014, tất cả các PNMT
mong muốn được bác sĩ hướng dẫn, điều này
giúp họ cảm thấy an toàn khi bắt đầu tham gia
các hoạt động thể dục(5). Vai trò của NVYT thực
sự quan trọng, khuyến nghị một lối sống năng
động hơn không chỉ cho PNMT mà còn với phụ
nữ trong độ tuổi sinh đẻ, đặc biệt là người có kết
hoạch sinh con.
Tỷ lệ HĐTL đủ theo khuyến nghị ACOG
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ
PNMT đạt được khuyến nghị HĐTL đủ theo
ACOG là khá thấp (17,3%). Kết quả phù hợp với
nghiên cứu tại Tây Ninh năm 2018 (23,6%)(8). Lý
giải được đưa ra là có 41,4% phụ nữ thuộc nhóm
lao động chân tay, tính chất công việc mệt mỏi
nên dành thời gian để nghỉ ngơi thay vì tham gia
các hoạt động thể lực. Ngoài ra, có tới 64,9% phụ
nữ không có thói quen tập thể dục từ trước khi
mang thai và chỉ 18,9% phụ nữ nhận được lời
khuyên tập thể dục từ NVYT. Khác với kết quả
của chúng tôi, một số nghiên cứu khác cho thấy
tỷ lệ PNMT đạt được khuyến nghị HĐTL theo
ACOG khá cao, như tại Thụy Điển năm 2016
(47,1%), tại Đan Mạch năm 2015 (38%), tại Hoa
Kỳ năm 2010 (56,6%)(16,17,18). Điều này phù hợp
với lối sống năng động của phụ nữ phương tây,
lý do tập thể dục được phụ nữ đề cập đến như là
sở thích(16,18)
.
Yếu tố liên quan với HĐTL đủ theo khuyến
nghị ACOG
Kết quả nghiên cứu cho thấy tần suất tập thể
dục hơn 5 lần mỗi tuần trước mang thai 3 tháng
là yếu tố động lực giúp PNMT đạt được khuyến
nghị ACOG. Có thể lý giải là những phụ nữ có
tần suất tập thể dục trước mang thai càng cao sẽ
tiếp tục duy trì việc tập thể dục đến khi mang
thai, đây được xem như một thói quen tốt. Ủng
hộ cho kết quả của chúng tôi là các nghiên cứu
thực hiện tại TP. Hồ Chí Minh (Việt Nam) năm
2015 (p <0,001), Trung Quốc năm 2014 (p <0,001),
Brazil năm 2015 (p <0,001)(7,10,19). Tuy nhiên, các
nghiên cứu trước đây chỉ khảo sát là có hoặc
không tập thể dục trước mang thai, mà chưa
đánh giá được các mức tần suất tập thể dục khác
nhau và đây cũng chính là điểm mới trong
nghiên cứu của chúng tôi.
Nghiên cứu của chúng tôi chưa tìm thấy mối
liên quan có ý nghĩa thống kê giữa HĐTL đủ với
các yếu tố môi trường. Điều này có thể được giải
thích vì yếu tố môi trường ảnh hưởng đến hoạt
động thể dục không nhiều. Nghiên cứu của tác
giả Kelly và cộng sự thực hiện trên PNMT tại
Hoa Kỳ cho thấy yếu tố môi trường chỉ đóng
góp vào có 3% trong tất cả các yếu tố được xem
là rào cản với hoạt động thể lực.
PNMT nhận được thông tin về chế độ tập
thể dục từ NVYT là một yếu tố mới, lần đầu
87
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y học
Offspring Neurodevelopment and IQ in the First 4 Years of Life.
PloS One, 9:10.
Bên cạnh những điểm mạnh, nghiên cứu của
chúng tôi cũng còn một số điểm hạn chế. Nghiên
cứu thực hiện tại bệnh viện Hùng Vương, với
đặc điểm gần một nửa số PNMT đến từ tỉnh
thành khác. Do đó, kết quả nghiên cứu có thể
không khái quát được cho toàn bộ PNMT của
TP. Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu
có ý nghĩa đối với việc phát triển chăm sóc tiền
sản trong thai phụ đến khám tại bệnh viện Hùng
Vương. Do hạn chế của thiết kế cắt ngang nên
dữ liệu không thể hiện chế độ tập luyện trong
suốt thai kỳ, cũng không xác định được mối
quan hệ nhân quả của các yếu tố liên quan đến
HĐTL đủ theo AOCG.
6. ACOG Committee Obstetric Practice (2002). ACOG Committee
opinion. Number 267, January 2002: exercise during pregnancy
and the postpartum period. Obstetrics and Gynecology, 99(1):171-
173.
7. Cao Hoàng Hương Trang (2015) Tỉ lệ vận động thể lực của thai
phụ đến khám thai tại Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản
TP.HCM. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Y tế Công cộng, Đại học Y
dược TP. HCM.
8. Hồ Thị Như Ý (2018). Tỷ lệ vận động thể lực ở thai phụ và các
yếu tố liên quan tại huyện Trảng Bàng, Tỉnh Tây Ninh , năm
2018. Luận văn tốt nghiệp Cử nhân Y tế Công cộng, Đại học Y dược
TP. HCM.
9. Clarke PE, Gross H (2004). Women's behaviour, beliefs and
information sources about physical exercise in pregnancy.
Midwifery, 20(2):133-141.
KẾT LUẬN
10. Zhang Y, Dong S, Zuo J, Hu X, Zhang H, Zhao Y (2014).
Physical Activity Level of Urban Pregnant Women in Tianjin,
China: A Cross-Sectional Study. PLoS One, 9:10
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ
PNMT HĐTL đủ theo khuyến nghị ACOG là rất
thấp (17,3%). Các yếu tố ảnh hưởng tích cực đến
PNMT HĐTL đủ theo ACOG bao gồm: nhận
được thông tin về chế độ tập thể dục từ NVYT
và thói quen tập thể dục từ 5 lần mỗi tuần trước
khi mang thai 3 tháng. Từ kết quả nghiên cứu,
chúng tôi kiến nghị Việt Nam cần xây dựng một
hướng dẫn HĐTL cụ thể cho từng đối tượng.
Hoạt động chăm sóc tiền sản cần được mở rộng
hơn nữa, không chỉ dừng lại ở PNMT mà còn
nhắm vào phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ và các
thành viên trong gia đình.
11. Thompson EL, Vamos CA, Daley EM (2017). Physical activity
during pregnancy and the role of theory in promoting positive
behavior change: A systematic review. Journal of Sport and Health
Science, 6(2):198-206.
12. Downs DS, Chasan-Taber L, Evenson KR, Leiferman J, Yeo SA
(2012). Physical Activity and Pregnancy: Past and Present
Evidence and Future Recommendations. Research Quarterly for
exercise and Sport, 83(4):485-502.
13. Sở Y tế Thành phố Hồ Chí Minh (2016). Phòng khám một cửa:
Rút ngắn thời gian khám bệnh và tăng tỷ lệ hài lòng người
chon-giai-thuong-chat-luong-kham-chua-benh/phong-kham-
mot-cua-rut-ngan-thoi-gian-kham-benh-va-tang-ty-le-hai-long-
nguoi-be-c1289-55.aspx.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
14. Sattler MC, Jaunig J, Watson ED, Poppel MNM, Mokkink LB,
Terwee CB (2018). Physical Activity Questionnaires for
Pregnancy: A Systematic Review of Measurement Properties.
Sports medicine 48(10):2317-2346
1. WHO (2010). Global Recommendations on Physical Activity for
Health. WHO, pp.7-33.
2. Dempsey JC, Sorensen TK, Williams MA, Lee IM, Miller RS,
Dashow EE (2004). Prospective study of gestational diabetes
mellitus risk in relation to maternal recreational physical activity
before and during pregnancy. American Journal of Epidemiology,
159(7):663-670.
15. Ota E, Haruna M, Yanai H, Suzuki M, Dang Duc Anh,
Matsuzaki M (2008). Reliability and validity of the Vietnamese
version of the Pregnancy Physical Activity Questionnaire
(PPAQ). Southeast Asian J Trop Med Public Health, 39(3):562-570.
16. Lindqvist M, Lindkvist M, Eurenius E, Persson M, Ivarsson A,
Mogren I (2016). Leisure time physical activity among pregnant
women and its associations with maternal characteristics and
pregnancy outcomes. Sexual & Reproductive Healthcare, 9:14-20.
17. Lotte B, Anne S. Broberg L, Ersboll AS, Backhausen MG, Damm
P, Tabor A, Hegaard HK (2015). Compliance with national
recommendations for exercise during early pregnancy in a
Danish cohort. BMC Pregnancy and Childbirth, 15:317.
18. Evenson KR, Wen F (2010). National trends in self-reported
3. Marcoux S, Brisson J, Fabia J (1989). The effect of leisure time
physical activity on the risk of pre-eclampsia and gestational
hypertension. Journal of Epidemiology and Community Health,
43(2):147-152.
4. Demissie Z, Riz AMS, Evenson KR, Herring AH, Dole N,
Gaynes BN (2011). Physical Activity and Depressive Symptoms
among Pregnant Women: The PIN3 Study. Archives of Women's
Mental Health, 14(2):145-157.
5. Domingues MR, Matijasevic A, Barros AJD, Santos IS, Horta BL,
Hallal BC (2014). Physical Activity during Pregnancy and
88
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 24 * Số 1 * 2020
Nghiên cứu Y học
physical activity and sedentary behaviors among pregnant
women: NHANES 1999-2006. Preventive Medicine, 50(3):123-128.
19. Nascimento SL, Surita FG, Godoy AC, Kasawara KT, Morais SS
(2015). Physical Activity Patterns and Factors Related to Exercise
Evenson KR, Moos MK, Carrier K, Siega-Riz AM (2009).
Perceived Barriers to Physical Activity among Pregnant
Women. Maternal and Child Health Journal, 13(3):364-375.
during Pregnancy:
10(6):e0128953
A
Cross Sectional Study. PLoS One,
Ngày nhận bài báo:
15/11/2019
26/11/2019
10/03/2020
Ngày phản biện nhận xét bài báo:
Ngày bài báo được đăng:
20. Rutkowska E, Lepecka-Klusek C (2002). The role of physical
activity in preparing women for pregnancy and delivery in
Poland. Health Care for Women International, 23(8):919-923.
89
Bạn đang xem tài liệu "Hoạt động thể lực và các yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai tại Bệnh viện Hùng Vương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- hoat_dong_the_luc_va_cac_yeu_to_lien_quan_o_phu_nu_mang_thai.pdf