Giới thiệu các làng nghề đá mỹ nghệ truyền thống ở Việt Nam
GIỚI THIỆU CÁC LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ NGHỆ TRUYỀN THỐNG Ở VIỆT
NAM
Điêu khắc đá đã có từ lâu đời ở nước ta. Không ai có thể biết rằng nghề đá mỹ nghệ đã
xuất hiện từ bao giờ nhưng có một điều chắc chắn rằng nghề điêu khắc đá đã cùng trải
qua những thăng trầm trong lịch sử dân tộc. Bài viết dưới đây sẽ giới thiệu các làng nghề
đá mỹ nghệ nổi tiếng ở Việt Nam.
LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ NGHỆ NON NƯỚC
Để mở đầu bài viết dưới đây, chúng tôi sẽ đưa các bạn đi đến làng nghề nổi tiếng nhất nước
ta. Đó chính là làng đá Non Nước, Đà Nẵng.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
Làng nghề đá Non Nước tọa lạc dưới chân núi Ngũ Hành Sơn, trực thuộc thành phố Đà
Nẵng. Không có một ghi nhận nào về mốc thời gian cụ thể hình thành làng. Chỉ có một
điều chắc chắn rằng làng đã hoạt động trong lĩnh vực đá hơn 200 năm nay. Theo Phủ biên
tạp lục của Lê Quý Đôn, làng được thành lập khoảng nửa cuối thế kỷ XVII. Trước đây,
làng Non Nước mang tên là Quán Khái Đông Giáp và Quán Khái Tây Giáp. Theo lời kể
của các cụ, nghề đá ở chân núi Ngũ Hành ra đời cùng thời điểm lập làng.
Làng nghề đá Non Nước tọa lạc dười chân núi Ngũ Hành Sơn, trực thuộc thành phố Đà
Nẵng.
Tuy không rõ thời gian cụ thể nhưng ông tổ nghề đá nơi đây đều được mọi người biết đến.
Các tài liệu đều ghi nhận được người mang nghề đá đến nơi đây tên là Huỳnh Bá Quát.
Tương truyền kể lại rằng, ông là người gốc Thanh Hóa, có công đem nghề đá đến Đà Nẵng.
Hiện nay, cứ đến mồng 6 tháng Giêng Âm lịch hàng năm là ngày giỗ Tổ của làng nghề
Non Nước.
QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN
Thời điểm ban đầu, nghề đá nơi đây không phát triển. Lực lượng thợ điêu khắc cũng không
nhiều. Các sản phẩm chủ yếu chỉ là những vật dụng gắn liền đến cuộc sống sinh hoạt hàng
ngày. Đó là những cối giã gạo, cối xay ngũ cốc hay bia mộ bằng đá. Mãi đến nửa đầu thế
kỷ XIX, triều đại nhà Nguyễn tập trung xây dựng nhiều cung điện, lăng tẩm. Điều này đã
tạo điều kiện cho nghề đá nơi đây phát triển mạnh mẽ. Nhiều thợ giỏi của làng có công lớn
đã được triều đình phong hàm Cửu phẩm. Uy tín và danh tiếng của làng bắt đầu được xây
dựng từ đây.
Theo dòng chảy thời gian, sản phẩm đá của làng Non Nước ngày càng đa dạng và phong
phú. Bên cạnh các màu đá tự nhiên, thợ điêu khắc đá còn phải nhuộm đá bằng các phẩm
màu. Rất nhiều yếu tổ ảnh hưởng đến màu thành phẩm. Người nghệ nhân phải kiểm soát
chặt chẽ quá trình pha màu, nhiệt độ cũng như độ đậm nhạt. Điều này đòi hỏi kinh nghiệm
lâu năm được tích lũy của người nghệ nhân.
Theo dòng chảy thời gian, sản phẩm đá của làng Non Nước ngày càng đa dạng và phong
phú.
Hiện nay, ngành du lịch tại Đà Nẵng đang vô cùng phát triển. Đây chính là cơ hội giúp du
khách được tham quan và chứng kiến quá trình điêu khắc đá. Đôi tay tài hoa của người
nghệ nhân khiến rất nhiều khách du lịch ngưỡng mộ. Điều này đã giúp đem sản phẩm đá
tại nơi đây ra ngoài thế giới. Làng nghề đá Non Nước ngày càng khẳng định được vị thế
của mình.
NHỮNG THÁCH THỨC HIỆN TẠI
Trước đây, làng nghề Non Nước tập trung dưới chân núi Ngũ Hành Sơn. Tuy nhiên, việc
này đã làm ảnh hưởng đến cảnh quan danh thắng Ngũ Hành. Vì thế, chính quyền Đà Nẵng
đã thực hiện chính sách di dời làng nghề về vị trí tập trung. Chính điều này đã lộ ra những
bất cập về sau này.
Với gần 500 cơ sở ban đầu, chỉ có khoảng trên 300 cơ sở tập trung vào vị trí mới. Số còn
lại vẫn cố bám trụ tại khu dân cư. Bởi vì diện tích 100m2 mà thành phố bố trí không đủ để
các xưởng đá hoạt động. Ngoài ra, khu vực làm việc chật chội sẽ tiềm ẩn những nguy cơ
cao về tai nạn lao động.
Vấn đề nổi bật thứ hai chính là tình trạng ô nhiễm môi trường nặng nề. Việc đục đẽo, chế
tác đá đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến không khí và nguồn nước xung quanh. Bụi đá bay
mờ mịt, phủ lên các mái nhà, ngọn cây, đường phố xung quanh. Nước trộn hóa chất đánh
bóng đá, nước rửa đá thải tràn khắp nơi, trộn chung với bụi đá tạo nên những lớp bùn dẻo
quánh. Không những thế, tiếng đục đẽo ầm ĩ ảnh hưởng trực tiếp đến người thợ điêu khắc.
Vì thế, ngày càng nhiều nhân công xin nghỉ khiến công việc đình trệ.
Trên đây là hai thách thức nổi bật nhất cần được khắc phục hiện nay. Tuy nhiên chính
quyền địa phương vẫn chưa có cách giải quyết nào phù hợp. Để ngành điêu khắc đá tiếp
tục phát triển, người dân và chính quyền địa phương phải cùng nhau hợp tác để đưa ra
hướng đi thích hợp.
LÀNG NGHỀ ĐÁ MỸ NGHỆ NINH VÂN
Tiếp đến, bài viết sẽ đưa mọi người đến với một làng nghề đá nổi tiếng không kém. Đó
chính là làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân.
LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
Ninh Vân là một xã miền núi nằm ở Tây Nam huyện Hoa Lư, Ninh Bình. Sở hữu nguồn
đá vôi dồi dào và chất lượng, làng Ninh Vân nổi tiếng với nghề điêu khắc đá. Được biết,
làng nghề đá Ninh Vân đã có bề dày lịch sử khoảng 500 năm nay.
Qua lời kể của người dân, ông tổ nghề của làng tên là Hoàng Sùng. Ông gốc là người làng
Nhồi (Thanh Hóa) ra Ninh Vân sinh sống và lập nghiệp. Từ đó, ông bắt đầu phổ biến và
truyền nghề lại cho con cháu và mọi người xung quanh. Làng nghề đá Ninh Vân ra đời
cũng vì như thế.
Thuở bắt đầu, sản phẩm đá tại đây vô cùng ít ỏi và đơn giản. Chủ yếu chỉ là các vật dụng
phục vụ cho cuộc sống người dân như cối giã, cối xay… Dần dần về sau, chủng loại sản
phẩm được mở rộng với nhiều mẫu mã đa dạng.
Ngày xưa, tất cả các công đoạn bao gồm cả khai thác và vận chuyển đá đều phải làm thủ
công. Vì thế, công sức bỏ ra vô cùng lớn nhưng tiến độ công việc thì lại chậm. Ngày nay,
với sự giúp đỡ của máy móc hiện đại, năng suất chế tác được cải thiện đáng kể. Điều này
cũng tạo điều kiện cho các nghệ nhân có thời gian sáng tạo ra những mẫu mã mới.
Hầu hết các gia đình trong làng đều theo nghề điêu khắc đá mỹ nghệ. Vì thế, tại đây,
ngành nghề này được gìn giữ và lưu truyền qua nhiều thế hệ. Làng đá mỹ nghệ Ninh Vân
đang góp phần bảo vệ và truyền bá những giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc.
CÁC CÔNG TRÌNH ĐẶC SẮC CỦA LÀNG ĐÁ MỸ NGHỆ NINH VÂN
Làng nghề đá mỹ nghệ Ninh Vân đã và đang tạo ra những sản phẩm đá đặc sắc. Chúng ta
không thể không nhắc đến 3 công trình bằng đá cách đây hàng trăm năm. Đó là Đình làng
Xuân Vũ, căn nhà đá của ông Lương Văn Xiển và căn nhà đá của nghệ nhân Đỗ Khắc Đức.
Đình làng Xuân Vũ được xây dựng vào năm 1730 thời vua Lê Cảnh Hưng. Lúc ban đầu,
đình được xây dựng từ gỗ lim, vôi vữa và gạch nung. Qua thời gian bị tàn phá bởi chiến
tranh, đình làng bị hư hỏng nặng nề. Vì thế, đình làng mới được phục dựng lại hoàn toàn
bằng đá nhưng vẫn giữ nguyên kiến trúc cũ. Những họa tiết Long-Lân-Quy-Phụng, rồng
bay phượng múa trên thân cột được chạm khắc tỉ mỉ và sống động. Trong đó, cột cái được
chạm khắc hình rồng. Các cột con còn lại chạm trổ hình hoa lá cỏ cây, chim muông, đại
điện cho 4 mùa trong năm. Đình làng Xuân Vũ chính là nơi tổ chức lễ giỗ cụ tổ Hoàng
Sùng vào 16/8 Âm lịch hàng năm.
Ngôi nhà của ông Lương Văn Xiển được xây dựng vào năm 1934 và vẫn bền vững đến bây
giờ. Trong khi đó, căn nhà của ông Đỗ Khắc Đức được xây dựng vào năm 1954. Đến tận
bây giờ, những câu thơ được điêu khắc trên cột đá vẫn hiện lên rõ ràng.
Ngôi nhà của ông Lương Văn Xiển được xây dựng vào năm 1934 và vẫn bền vững đến
bây giờ.
Ngoài ra, chúng ta không thể bỏ qua công trình cổng làng đá mỹ nghệ Ninh Vân và tượng
500 vị La Hán đang được trưng bày ở chùa Bái Đính.
LÀNG NGHỀ CHẠM KHẮC ĐÁ NÚI NHỒI
Trước khi kết thúc bài viết, chúng tôi sẽ dẫn quý khách đến làng nghề đá lâu đời nhất Việt
Nam. Đó chính là làng đá Nhồi.
LÀNG ĐÁ NHỒI HÌNH THÀNH LÚC NÀO?
Làng đá Nhồi thuộc địa phận phường An Hưng, xã Đông Tân, thành phố Thanh Hóa, tỉnh
Thanh Hóa.
Như đã trình bày ở trên, ông tổ của làng nghề Non Nước và làng đá Ninh Vân đều xuất
thân từ Thanh Hóa. Có thể nói, làng Nhồi chính là cái nôi của nghề điêu khắc đá mỹ nghệ.
Theo ghi nhận trong lịch sử, nghề chế tác đá nơi đây đã bắt đầu từ thời nhà Lý. Ts. Phạm
Văn Đấu cho rằng, nghề đá nơi đây ra đời vào khoảng thời gian Lý Thường Kiệt trị nhậm
tại Thanh Hóa. Trong suốt 20 trị nhậm, Lý Thường Kiệt tiến hành khai thác đá quý để xây
dựng thành quách. Có thể, đây chính là thời điểm làng nghề hình thành. Tuy nhiên, đây
cũng chỉ là một giả thuyết được đặt ra. Làng nghề vẫn có thể ra đời sớm hơn hoặc muộn
hơn rất nhiều.
DẤU ẤN LỊCH SỬ CỦA LÀNG ĐÁ NHỒI
Được hình thành lâu năm, làng Nhồi gắn liền với dòng chảy lịch sử của dân tộc ta. Rất
nhiều công trình kiến trúc thời xưa đều một tay do các nghệ nhân làng Nhồi tạo nên. Đó
chính là thành nhà Hồ hay còn có tên gọi khác là kinh thành Tây Đô kỳ vĩ. Hay là các tác
phẩm điêu khắc trong khu điện miếu Lam Kinh thời Lê sơ. Các tượng rồng đá, tượng người,
tượng thú đều do bàn tay chạm khắc của nghệ nhân làng Nhồi. Những tác phẩm này đã góp
phần tạo nên phong cách điêu khắc đá qua mỗi thời kỳ đất nước.
Thành nhà Hồ được xây dựng nên bởi đôi tay của các nghệ nhân làng đá Nhồi.
Một trong những tác phẩm khiến người dân nơi đây tự hào nhất chính là bia mộ Phan Đình
Phùng. Ngoài ra còn có tấm bia Lê Lợi ở huyện Đà Bắc, sông Đá. Dù bom lửa chiến tranh
kế bên, người dân nơi đây vẫn một lòng cùng nhau điêu khắc nên những tấm bia mộ tượng
nhớ đến các vị anh hùng dân tộc. Khi đang tập trung chạm trổ, thấy máy bay địch ngang
qua đều phải tạm trú xuống dưới hầm. Đợi tình hình yên ổn thì lại cùng nhau lên thực hiện
tiếp công việc. Không phải do vậy mà đường nét đục đẽo lại sơ sài, cẩu thả. Các tác phẩm
của làng Nhồi đều tinh xảo dưới đôi tay điêu luyện của các nghệ nhân nơi đây.
KẾT LUẬN
Nghề điêu khắc đá mỹ nghệ là một trong những nét đẹp văn hóa của dân tộc Việt Nam.
Hiện nay, dù đã có máy móc hỗ trợ, vai trò của nghệ nhân vẫn không giảm sút. Nét đẹp
của các sản phẩm đá đều phụ thuộc rất nhiều vào đôi tay người thợ điêu khắc. Dù là tượng
nghệ nhân.
Từ phiến đá cẩm thạch, qua đôi tay nghệ nhân đã trở thành bồn tắm sang trọng.
Vì thế, chúng ta càng phải gìn giữ và phát triển nghề đá mỹ nghệ ngày một lớn mạnh. Nhà
nước cùng chính quyền địa phương phải phối hợp chặt chẽ đề ra các chính sách hợp lý.
Người dân chúng ta cần tỉnh táo lựa chọn và ủng hộ các sản phẩm chất lượng cao. Chúng
ta cần nói không với những sản phẩm giá rẻ, kém chất lượng và tìm đến các cơ sở uy tín
như công ty đá mỹ nghệ Huy Hùng. Có như thế, nghề điêu khắc đá mới ngày một phát
triển và lan rộng ra thế giới.
Bạn đang xem tài liệu "Giới thiệu các làng nghề đá mỹ nghệ truyền thống ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- gioi_thieu_cac_lang_nghe_da_my_nghe_truyen_thong_o_viet_nam.docx