Đào tạo ngành Design với thực tiễn xã hội từ nhà trường đến doanh nghiệp
Tạp chí Khoa học Viện Đại học Mở Hà Nội 57 (07/2019) 41-51
41
ĐÀO TẠO NGÀNH DESIGN VỚI THỰC TIỄN XÃ HỘI
TỪ NHÀ TRƯỜNG ĐẾN DOANH NGHIỆP
INDUSTRIAL DESIGN TRAINING WITH SOCIAL PRACTICES
FROM UNIVERSITY TO BUSINESS
Trần Quốc Bình *1
Ngày tòa soạn nhận được bài báo:5/01/2019
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 5/7/2019
Ngày bài báo được duyệt đăng: 26/7/2019
Tóm tắt: Trong nhiều năm qua, việc phát triển đào tạo chuyên môn về mỹ thuật ứng
dụng ở Việt Nam đã có những bước cải thiện đáng kể. Tuy nhiên sự mất cân đối trong cung
cầu của ngành đào tạo design hiện vẫn đang là một trong những vấn đề cần có hướng giải
quyết cụ thể. Cùng với quá trình hội nhập và phát triển, nước ta đang và sẽ còn nhu cầu về mỹ
thuật ứng dụng có trình độ tay nghề cao, nhưng rõ ràng lượng cung hiện tại chưa đáp ứng
được nhu cầu đó. Nhiều doanh nghiệp phản ánh về thực trạng không tuyển dụng được những
nhà thiết kế design đúng yêu cầu. Thực tế hiện nay cho thấy, có một khoảng cách không nhỏ
giữa giáo dục với thực tiễn xã hội, trong đó mối liên kết với các công ty, doanh nghiệp còn rất
nhiều hạn chế. Các cơ sở giáo dục, đào tạo mất đi sự cân đối trong cơ cấu đào tạo ở cả phần
giáo dục và phần đào tạo, chưa có sự kết nối giữa nhà trường, cơ sở đào tạo design với doanh
nghiệp và xã hội. Tình trạng này gây ra sự mất cân đối trong đào tạo trong các cơ sở giáo
dục đồng thời gây tình trạng lãng phí nguồn lực của cả người học và người sử dụng lao động.
Chính vì vậy, cần có các giải pháp hữu hiệu của các cơ quan chức năng, nhà trường các cơ
sở đào tạo về design cần có hướng đi cụ thể nhằm giải quyết tình trạng mất cân đối trong đào
tạo design của nước ta hiện nay, nhằm đáp ứng tốt hơn yêu cầu nguồn nhân lực trong mỹ
thuật ứng dụng của các doanh nghiệp và xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Đào tạo, design, xã hội, nhà trường, doanh nghiệp
Abstract: Over the years, the development of professional training in applied fine art in
Vietnam has made significant improvements. However, the imbalance between supply and
demand of design training industry is still one of the issues that need specific solutions. Along
with the process of integration and development, our country is and will still be in need of
highly skilled applied art, but it is clear that the current supply has not met that demand.
Many businesses reflect the fact that they cannot recruit the designers. The current reality
1* Trường Đại học Mở Hà Nội
42
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
shows that there is a big gap between education and social practice, in which the linkage with
companies and businesses is still very limited. Education and training units lose the balance
in both the education and training sections, there is no connection between schools and
training institutions with enterprises and society. This situation causes an imbalance in
training in educational institutions while at the same time wasting resources of both learners
and employers. Therefore, it is necessary to have effective solutions of functional agencies,
universities and training units on industrial design, there should be specific directions to solve
imbalance in industrial design training of our country today to better meet the requirements of
human resources in the applied fines arts of businesses and society in the current period.
Keywords: Training, design, society, university, businesses
dáng Ulm (1955-1968) của Đức trong thế kỷ
trước. [1]
1. Thực trạng đào tạo ngành
design và mối liên kết với doanh nghiệp
tại Việt Nam hiện nay
Cụm từ design ở Việt Nam có nghĩa
là "Mỹ thuật công nghiệp", "thiết kế tạo
dáng công nghiệp" hay "mỹ thuật ứng
dụng". Thuật ngữ này mới nhập vào Việt
Nam từ thập niên 1960, bắt nguồn từ
Industrielle Formgestaltung trong tiếng Đức,
khi các giáo sư trường Đại học Mỹ thuật
Công nghiệp Halle (Die Hochschule für
Industrielle Formgestaltung – Halle) sang
trường Trung cấp Mỹ nghệ Hà Nội trao đổi
học thuật và đã được dịch thành "Mỹ thuật
công nghiệp"(MTCN). Từ đó trở thành thuật
ngữ của ngành và trở nên thông dụng, cụm
từ MTCN - MTƯD trở nên phổ biến quen
thuộc ở Việt Nam. [2]
Khái niệm về Design
Định nghĩa Design tiếng Anh hay
Disegno tiếng Latin đều nhấn mạnh ý tưởng
sáng tạo hình thức cho một tác phẩm hoặc
một sản phẩm, một công trình hay một mục
tiêu xác định dự kiến thực hiện và ý tưởng
sáng tạo đó biểu hiện qua bản vẽ, phác
thảo, thiết kế hay bản kế hoạch. Design có
nhiều nghĩa khác nhau trong các lĩnh vực
khác nhau...
Design là giải pháp của thiết kế và
trang trí nhằm sáng tạo một hình thức hấp
dẫn phù hợp công năng, mục đích sử dụng
cho một hay nhiều sản phẩm hoặc một tác
phẩm. Ngôn ngữ của design là ngôn ngữ tạo
hình hữu hình: bản vẽ phác thảo, bản vẽ
thiết kế (hình ảnh 3D và cấu tạo kỹ thuật
2D).
Design hay MTCN - MTƯD
thường được xếp loại bởi một số nhóm
ngành chính sau:
- Design Công nghiệp (Industrial Design).
- Design Đồ họa (Graphic Design)
Ranh giới giữa Design và Nghệ thuật
(Art) là rất mỏng manh, không rõ ràng và
xếp chung cả hai thành khái niệm Nghệ
thuật ứng dụng, Design ngày nay được hiểu
một cách rộng rãi là Nghệ thuật ứng dụng
(Applied Arts). Điều này được đưa ra theo
quan niệm bởi Raymond Loewy, nhà thiết
kế công nghiệp hàng đầu của nước Mỹ thế
kỷ XX và được ứng dụng dạy trong các
trường Bauhaus (1919-1933) và Trường Tạo
- Design Thời trang (Fashion Design)
- Design Nội thất (Interior Design)
- Nghệ thuật trang trí (Decorative Arts)
Ngoài ra design được mở rộng lĩnh vực
theo sản phẩm và dịch vụ đáp ứng nhu cầu
xã hội ngày càng phát triển, đặc biệt trong
bối cảnh thế kỷ XXI khi nền văn minh bước
vào thời kỳ mới với nhiều tiến bộ vượt bậc
của khoa học công nghệ.
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
43
tạo ngắn hạn về MTƯD cho ta thấy nhu cầu
xã hội lớn như thế nào.
1.1. Thực trạng đào tạo ngành design
hiện nay
Trong những thập niên gần đây, sự
bùng nổ về công nghệ thông tin, sự phát
triển công nghiệp hàng hóa mạnh mẽ đã tạo
ra cho thị trường việc làm một cơn khát
nhân lực thiết kế MTƯD. Nắm được xu thế
phát triển, tầm ảnh hưởng trong nền công
nghiệp hàng hóa, cũng như cơ hội việc làm
có thu nhập cao của MTƯD trong đó có ba
ngành Thiết kế nội thất, Thiết kế thời Trang,
Thiết kế đồ họa, các trường đại học, cao
đẳng, trung cấp và các trung tâm đào tạo đã
mở thêm các khoa đào tạo hoặc liên kết đào
tạo về MTƯD ngoài các khoa, chuyên ngành
cơ bản hiện có, nhằm thỏa mãn nhu cầu của
thị trường việc làm trước cơn “khát” về
nhân lực thiết kế MTƯD hiện nay. Số lượng
đào tạo cũng chiếm tỷ lệ cao trong các
ngành nghề đào tạo. Năm 2017 chỉ tiêu
tuyển sinh của trường Đại học Mỹ thuật
Công nghiệp Hà Nội có 450 chỉ tiêu, Trường
Đại học Mở, khoa tạo Dáng Công nghiệp có
200 chỉ tiêu với ba ngành đào tạo: thiết kế
đồ họa, nội thất, thời trang. Chỉ tính riêng
các trường đại học trên cả nước có đào tạo
thiết kế đồ họa như Đại học Mỹ thuật Việt
Nam, Đại học Mỹ thuật TPHCM, Đại học
Mỹ thuật Công nghiệp Hà Nội, Trường Đại
học Nghệ thuật – Đại học Huế, Đại học
Quốc tế Hồng Bàng, Đại học Kinh doanh và
Công nghệ Hà Nội, Đại học Thái Nguyên,
Đại học Hoa Sen, Đại học Tôn Đức Thắng,
Đại học Dân lập Văn Lang, Đại học FPT,
Đại học Sư phạm Nghệ thuật Trung ương,
Đại học Hòa Bình, Đại học Kiến trúc Hà
Nội, Đại học Kiến trúc Đà Nẵng, Đại học
Kiến trúc TPHCM, Đại học Mở Hà Nội, Đại
học Nguyễn Tất Thành, Đại học Nguyễn
Trãi, Đại học Kinh Bắc...chưa kể các trường
cao đẳng, trung cấp và các trung tâm đào tạo
trên cả nước liên tục tuyển sinh các lớp đào
Nhưng trên thực tế ngành MTƯD vẫn
đang tồn tại vấn đề nguồn cung nhiều nhưng
chất lượng chưa tinh, sinh viên ra trường
chưa đáp ứng được ngay công việc của các
nhà tuyển dụng. Nhiều doanh nghiệp phản
ánh lại sau khi nhận sinh viên mới ra trường
họ phải mất khoảng thời gian từ ba đến 6
tháng (tùy từng vị trí) đào tạo thêm cho họ
thì mới đáp ứng được công việc của công ty.
Điều này đã được chỉ ra trong các cuộc hội
thảo về đào tạo thiết kế MTƯD. Trong bài
phát biểu tại Hội thảo Khoa học toàn quốc
“Đổi mới Đào tạo Mỹ thuật ứng dụng ở Việt
Nam từ Thực tiễn đến Giải pháp” tại Thành
phố Hồ Chí Minh ngày 25.6.2016, Tiến sĩ
Đỗ Lệnh Hùng Tú, Ủy viên Ban Lý luận phê
bình thuộc Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ
thuật TP.HCM cho rằng: “Với khoảng 20
đơn vị đào tạo về mỹ thuật công nhiệp, mỹ
thuật ứng dụng, thiết kế trên cả nước, sự
đào tạo ồ ạt nguồn nhân lực thiết kế ở Việt
Nam trong những năm qua đã tạo được
nguồn lực đáng kể góp phần thúc đẩy sự
phát triển thiết kế ở Việt Nam. Tuy nhiên,
không ít sinh viên ra trường không kiếm
được việc làm. Số khác theo nghề không bền
lâu, chủ động bỏ nghề, chuyển nghề vì thu
nhập thấp hoặc nhiều lý do khác...”
Để thiết kế MTƯD tốt người học
thiết kế phải học nhiều các bộ môn khác
nhau, cộng với tư duy thẩm mỹ, khả năng
sáng tạo, làm chủ được công cụ thiết kế để
có thể biến các ý tưởng thành sản phẩm hấp
dẫn, thu hút người tiêu dùng. Để làm được
điều này ở Việt Nam vẫn chưa có sự thống
nhất giữa các trường và các trung tạo đào
tạo về design.
Ở các cơ sở hay các trung tâm đào
tạo MTƯD thường đi sâu vào đào tạo các kỹ
năng sử dụng công cụ thiết kế, ít dành thời
44
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
gian cho việc học kiến thức cơ bản về mỹ
thuật, mỹ học, lịch sử mỹ thuật, lịch sử các
phong cách thiết kế...Việc đào tạo của các
trung tâm mang tính thực dụng hơn sáng tạo
nên sinh viên tốt nghiệp sẽ trở thành kỹ
thuật viên hơn là nhà thiết kế.
thương hiệu design ngoại quốc mà không có
nhiều những giá trị thiết kế mang bản sắc,
thương hiệu của người Việt Nam.
Các công ty, doanh nghiệp sản xuất
thương mại lớn nhỏ trong nước nhận thức
được vấn đề là mẫu mã Design cần phải
mang bản sắc văn hóa Việt, nhưng trên thực
tế họ lại không tìm thấy những người thiết
kế có tầm. Nếu có thì những người này cũng
đã được các công ty nước ngoài mời về làm
việc. Vai trò, chức năng của nhà design ứng
dụng trở nên mờ nhạt trong suốt quá trình từ
hoạt động ý tưởng sáng tạo sản phẩm đến
quá trình thiết kế sản phẩm, phát triển công
nghệ và quá trình thương mại hóa như đóng
gói bao bì, tiếp thị quảng cáo…Dẫn đến việc
đóng góp của design vào giá trị sử dụng và
giá trị thương mại của sản phẩm trong nước
còn thấp, không đáp ứng được nhu cầu xã
hội và doanh nghiệp. Điều này chúng ta có
thể nhận thấy ngay qua các poster quảng
cáo, hình ảnh quảng cáo, ca nhạc, phim ở
các tụ điểm vui chơi giải trí, rạp chiếu phim,
hàng hóa, kiểu dáng giường, tủ, bàn ghế,…ở
các cửa hàng trang trí nội thất.
Ngược lại các trường đào tạo chính
quy về MTƯD hiện nay thường vẫn còn đi
theo các chương trình khung của Bộ giáo
dục và đào tạo, chú trọng vào việc đào tạo
tổng hợp các môn cả lý thuyết lẫn thực hành
mỗi thứ biết một ít, dẫn đến tình trạng sinh
viên ra trường có nhiều kiến thức tổng hợp
về mỹ thuật vững, khả năng sáng tạo tốt
nhưng lại bị hạn chế bởi các kỹ năng sử
dụng công cụ thể hiện. Điều này khiến sinh
viên khó thể hiện tốt ý tưởng sáng tạo của
mình, hoặc thiếu kiến thức thực tế nên bị
hạn chế cơ hội việc làm.
Trở lại với thực trạng đào tạo MTƯD
hiện nay, do nhiều trường đào tạo mạnh ai
lấy làm nên chưa có sự thống nhất giữa các
trường, các cơ sở, trung tâm đào tạo, mạnh
nơi nào nơi đó đào tạo, không có sự thống
nhất từ Bộ Giáo dục và Đào tạo cho đến các
trường cũng như góp ý chuyên môn của các
chuyên gia trong và ngoài nước. Đặc biệt là
thiếu sự tham gia của các doanh nghiệp sử
dụng lao động về thiết kế MTƯD. Chính vì
vậy, đội ngũ sinh viên thiết kế MTƯD ở
nước ta khi ra trường còn yếu cả về trình độ
chuyên môn, kỹ thuật thực hành, lẫn kinh
nghiệm thực tế. Hiện nay, đội ngũ nhiều nhà
thiết kế MTƯD trẻ chủ yếu thực hiện cóp
nhặt ý tưởng áp đặt kiểu cách “Design ngoại
nhập” vào Việt Nam, trong khi không thể
hiện được giá trị thẩm mỹ mang bản sắc văn
hóa Việt đối với các hàng hoá xuất khẩu ra
nước ngoài. Thực chất những nhà thiết kế
design của chúng ta là những người gia công
rập khuôn theo khuôn mẫu, mẫu mã có sẵn
trong và ngoài nước, hoặc làm nhái theo
Thực trạng trên cho thấy cần phải có giải
pháp kết nối giữa nhà trường với các doanh
nghiệp, công ty thiết kế, quảng cáo… Các
bên cần ngồi lại cùng nhau bàn bạc, định
hướng cho sự đào tạo và phát triển của
design Việt Nam. Trong đó nhà trường là
nơi đào tạo chính, còn các doanh nghiệp
công ty, đặt hàng, tư vấn hỗ trợ về tài chính
và thực tập các vấn đề về chuyên môn…
1.2. Cần có mối liên kết giữa nhà
trường với doanh nghiệp
- Mô hình đại học với doanh
nghiệp trên thế giới
Mô hình đại học trên thế giới đã có
chuyển biến tích cực và thực sự đi vào
thực tế công nghiệp kể từ khi đạo luật
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
45
Bayh-Dole được thông vào tháng 12 năm
1980. Đạo luật này do Thượng nghị sỹ
Birch Bayh và Robert Dole đồng tài trợ,
cho phép các trường đại học và các tổ
chức phi lợi nhuận cấp bằng sáng chế và
thương mại hóa kết quả nghiên cứu của
họ trong các chương trình nghiên cứu
bằng quỹ của chính phủ; cho phép các cơ
quan liên bang cấp giấy phép cho các
công nghệ của họ ứng dụng trong thương
mại và đời sống sản xuất. Nó được xem
như một cuộc cách mạng trong giáo dục.
Đạo luật Bayh-Dole đề cập đến hai vấn
đề quan trọng nhằm góp phần thúc đẩy
mối quan hệ giữa đại học và doanh
nghiệp. Với việc tạo ra một chính sách
bản quyền đồng bộ cho tất cả các cơ quan
liên bang mà được tài trợ nghiên cứu từ
chính phủ và cho phép các đại học giữ
pháp lý của các sáng chế, đạo luật đã tạo
ra một mô hình chính sách quốc gia
khuyến khích các trường đại học và các tổ
chức phi lợi nhuận liên kết với giới doanh
nghiệp - dịch vụ trong vấn đề chuyển giao
tri thức và khoa học công nghệ.
nhận được tài chính từ chính phủ để trả
các chi phí hành chính, khuyến khích các
hợp đồng chuyển giao công nghệ giữa các
trường đại học và đơn vị công nghiệp.
Bên cạnh đó, chính phủ Nhật còn có các
chương trình thúc đẩy các chức năng
chuyển giao công nghệ của các đại học
trong đó có việc gửi các chuyên gia, các
cá nhân có kinh nghiệm kinh doanh trong
các doanh nghiệp vào các trường đại học
giảng dạy, trao đổi những kiến thức
chuyên môn. Sự cải cách mạnh mẽ trong
giáo dục đại học của Nhật Bản đã giúp
những nền tảng tri thức của sự sáng tạo
được nghiên cứu tại các trường đại học
đến nhanh hơn với các doanh nghiệp,
thúc đẩy sự phát triển của đất nước, tránh
được tình trạnh lãng phí tài năng. Ngoài
ra còn góp phần gia tăng quyền độc lập tự
chủ trong mỗi trường đại học. Các trường
đại học tự tìm kiếm tập thể, cá nhân để
cùng hợp tác giáo dục và đào tạo.
Trong các nước công nghiệp, đổi
mới kỹ thuật đã trở thành lực lượng chính
cho khả năng cạnh tranh. Điều này dẫn
đến sự tham gia mạnh mẽ hơn của
ngành công nghiệp ứng dụng trong
nghiên cứu và phát triển (R&D). Ở các
nước công nghiệp, sự tham gia của các
trường đại học trong các dự án đã trở
thành hoạt động quan trọng. Qua sự hợp
tác giữa các trường đại học với doanh
nghiệp sẽ dẫn đến một sự sáng tạo của
xã hội dựa trên nền tảng tri thức cộng
hưởng hai bên cùng có lợi giữa doanh
nghiệp và các trường đào tạo, đặc biệt là
trong ngành design.
Đạo luật này đã góp chuyển biến
mạnh mẽ trong các trường đại học ở Mỹ,
thúc đẩy sự hợp tác với giới công nghiệp
– doanh nghiệp – dịch vụ, đóng góp 40 tỷ
USD và tạo ra trên 260.000 việc làm
[1,2]. Ảnh hưởng của đạo luật lan rộng
đến cả châu Âu, Úc và các nước Châu Á.
Ở châu Á, Nhật Bản và Hàn Quốc đã ban
hành nhiều đạo luật và thành lập nhiều tổ
chức cơ quan thúc đẩy sự chuyển giao tri
thức và khoa học công nghệ giữa các
trường đại học và các tổ chức công
nghiệp [6,7].
- Ở Việt Nam
Năm 1998, tại Nhật Bản ban hành
Chủ trương liên kết giữa các trường
luật xúc tiến chuyển giao công nghệ công
đào tạo nghề, đại học với các doanh nghiệp
(DN), cơ sở sản xuất để tạo việc làm cho
sinh viên sau khi tốt nghiệp ra trường để giải
nghiệp - đại học, cho phép thành lập các
văn phòng cấp phép công nghệ (TLOs)
46
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
quyết việc làm cho sinh viên đã được Chính
phủ chỉ đạo tại nhiều văn bản. Cụ thể như:
Nghị quyết số 100/NQ-CP ngày 18/11/2016
của Chính phủ ban hành Chương trình hành
động của Chính phủ nhiệm kỳ 2016-2021;
Nghị quyết của Chính phủ về những nhiệm
vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực
hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và
dự toán ngân sách nhà nước hàng năm;
Thông tư số 29/2017/TT-BLĐTBXH, ngày
15/12/2017 của Bộ Lao động, Thương binh
và Xã hội quy định về liên kết tổ chức thực
hiện chương trình đào tạo. Theo đó, nhà
trường và DN có thể liên kết tổ chức đào
tạo, trong đó DN có thể đảm nhận đến 20%
chương trình đào tạo.
trường, doanh nghiệp, sinh viên, và tránh
được sự đầu tư lãng phí của Chính phủ.
Để đạt được những tay nghề mà các
nhà tuyển dụng yêu cầu trở thành ưu tiên
hàng đầu của các trường đại học, nhất là
các trường đào tạo về MTƯD. Để có
những nhà thiết kế có trình độ và tay nghề
cao, cách duy nhất là các trường đào tạo về
design liên lạc với nhà tuyển dụng, các
công ty thiết kế các doanh nghiệp…cùng
đào tạo các kỹ năng, phương pháp thực
hành thực tế chuyên ngành đi vào chiều
sâu của từng chuyên ngành. Điều này rất
cần sự hợp tác giữa trường đại học với
doanh nghiệp. Đây là những yếu tố then
chốt ảnh hưởng đến chất lượng giáo dục,
cũng như trình độ tay nghề của sinh viên.
Chính phủ Việt Nam, mà trực tiếp
là Bộ Giáo dục và Đào tạo, đã đưa ra các
sáng kiến khác nhau, bao gồm các thí
nghiệm, các thử nghiệm và nỗ lực điều tiết
tiếp xúc giữa các trường đại học với doanh
nghiệp. Dự án POHE2 (professional –
oriented higher education: giáo dục đại
học định hướng ứng dụng) đã bắt đầu từ
giả định rằng chất lượng của sinh viên
được đánh giá dựa vào khả năng làm việc
của sinh viên tốt nghiệp trên thị trường lao
động. Do đó, chất lượng sinh viên tốt
nghiệp ngày càng phải được các nhà tuyển
dụng (tương lai) nhìn nhận bằng cách đảm
nhận tốt các công việc chuyên ngành. Các
trường đại học, cơ sở giáo dục phải đổi
mới phương thức đào tạo từ Hàn lâm sang
vừa học vừa làm, vừa trải nghiệm thực tế
qua các doanh nghiệp và các công ty, từ đó
cung cấp nguồn nhân lực cao đáp ứng nhu
cầu tuyển dụng của các doanh nghiệp.
Muốn phát huy được chương trình giáo
dục này, các nhà trường, cơ sở đào tạo
cùng các công ty, doanh nghiệp cần phải
ngồi với nhau đưa ra những chương trình
đào tạo cụ thể có lợi ba bên, đó là nhà
Tuy nhiên, sự đổi mới giáo dục dù đã
được đưa vào chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước với phương châm xã hội hóa giáo
dục, gắn kết giáo dục với thực tế yêu cầu
của xã hội nhưng kết quả chưa mang lại như
kỳ vọng. Có rất nhiều nguyên nhân về mô
hình, cơ chế chính sách và kết cấu hạ tầng
giáo dục...Để có thể tiến đến các mô hình
giáo dục tiên tiến như ở các nước trên thế
giới thì còn rất nhiều việc chúng ta cần giải
quyết dần dần.
2. Một số ý kiến về đào tạo
design kết hợp với doanh nghiệp
2.1. Tổ chức hội thảo khoa học
từ nhà trường đến doanh nghiệp
Để đáp ứng nhu cầu xã hội và
doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay, các
trường đào tạo về MTƯD nên tổ chức các
cuộc hội thoại, đối thoại giữa nhà tuyển
dụng với nhà trường. Hình thành các diễn
đàn trao đổi, các buổi hội thảo khoa học có
sự tham gia của giảng viên, các nhà khoa
học nghiên cứu độc lập, doanh nghiệp và
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
47
cựu sinh viên là một trong các phương
pháp rất hiệu quả để liên kết giữa đại học
và Doanh nghiệp. Các trường, khoa dạy
design thường xuyên tổ chức các buổi đối
thoại giữa nhà trường với doanh nghiệp,
cựu sinh viên thành đạt về các vấn đề kinh
tế xã hội, trào lưu xu hướng thiết kế mới
nổi trội gần đây. Nhà trường, khoa nên có
định hướng đưa mối quan hệ, hợp tác với
các doanh nghiệp lên tầm đối tác chiến
lược. Doanh nghiệp hỗ trợ tài chính, tiếp
nhận và hỗ trợ sinh viên đồ họa, nội thất,
thời trang của nhà trường, khoa đến thực
tập tại công ty,… tài trợ nhà trường trong
việc tổ chức các sự kiện thường niên cho
sinh viên ngành MTƯD như: mở các cuộc
triển lãm thiết kế ứng dụng trên địa bàn
thành phố hoặc triển lãm các trường
MTƯD toàn quốc. Qua đó các doanh
nghiệp, công ty thiết kế biết được khả năng
sáng tạo của sinh viên đồng thời cũng tìm
được những nhà thiết kế phù hợp cho công
ty cũng như doanh nghiệp của mình. Đổi
lại nhà trường, khoa và các giảng viên,
phải cam kết hoàn thành các báo cáo khoa
học phục vụ cho các đề tài nghiên cứu của
doanh nghiệp cũng như nguồn nhân lực
theo đơn đặt của doanh nghiệp và các công
ty thiết kế ngay cả khi các doanh nghiệp,
công ty thiết kế, muốn được góp một phần
vào đào tạo sinh viên nếu doanh nghiệp
yêu cầu.
dạy các kỹ năng thực hành, thực tập để đáp
ứng nhu cầu của doanh nghiệp và xã hội.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng
sẽ cử chuyên gia, những người giàu kinh
nghiệm về thiết kế, marketing,…cùng phối
hợp với khoa và giảng viên trong khoa
tham gia giảng dạy các môn học tự chọn
cùng các giảng viên hướng dẫn đề tài đồ án
tốt nghiệp nhằm hỗ trợ cho sinh viên các
kỹ năng nghề nghiệp phù hợp với yêu cầu
thực tiễn của sự phát triển nguồn nhân lực
ngành MTƯD, nâng cao chất lượng đào
tạo của các trường đào tạo design trong
giai đoạn hiện nay.
2.2. Liên kết đào tạo ngành design
với các doanh nghiệp liên quan
Trong các trường đạo tạo về MTƯD
thường có nhiều khoa, ngành, ví dụ như
khoa nội thất, đồ họa, thời trang…vì vậy nhà
trường cần cho từng khoa chủ động thiết lập
trung tâm hợp tác doanh nghiệp và trung
tâm phát triển nghề nghiệp cho sinh viên,
xây dựng mạng lưới các doanh nghiệp có
các thành tố là cựu sinh viên, mối quan hệ
lãnh đạo, doanh nghiệp để tranh thủ sự hỗ
trợ của doanh nghiệp hoặc hình thành nên
các trung tâm phát triển hợp tác doanh
nghiệp. Các bộ phận này có thể là một
phòng/ban độc lập, cũng có thể là một bộ
phận trong một phòng/ban hoặc trung tâm.
Có thể đưa ra ví dụ về tên của các bộ phận
này như: Trung tâm hợp tác doanh nghiệp
và hỗ trợ sinh viên. Trung tâm kết nối doanh
nghiệp với sinh viên, Trung tâm đào tạo
(khác với phòng đào tạo). Các tuyên bố
về chức năng và nhiệm vụ của các trung
tâm. Trung tâm này đều có các nhiệm vụ
chính, như:
Qua các cuộc hội thảo giữa nhà
trường, khoa và doanh nghiệp, đại diện
lãnh đạo các trường và doanh nghiệp cùng
nhau thảo luận, góp ý về nội dung chương
trình đào tạo design, tùy theo từng ngành
cụ thể, phối hợp với trường, khoa xây dựng
và phát triển chương trình đào tạo về
nguồn nhân lực cao mà các công ty thiết
kế, các doanh nghiệp cần góp ý trong giảng
- Tiếp nhận, tư vấn và hỗ trợ giới thiệu
việc làm thêm cho sinh viên để sinh viên
vừa có cơ hội làm việc cũng như thực tập
nâng cao tay nghề và có thêm thu nhập.
48
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
Trung tâm này còn là nơi giới thiệu việc làm
cho sinh viên khi tốt nghiệp.
đào tạo tại khoa, mời các nhà nghiên cứu
doanh nhân nói chuyện thực tiễn hay giảng
dạy một số chương thực hành, tổ chức hội
thảo và giao lưu giữa cựu sinh viên, doanh
nghiệp với sinh viên nhằm tạo điều kiện
cho sinh viên tìm hiểu về thực tiễn hoạt
động kinh doanh. Qua các buổi trao đổi
này, sinh viên có thể tìm hiểu thêm hoặc
phát triển những nghiên cứu sau này, đồng
thời doanh nghiệp cũng có cơ hội quảng
bá, giới thiệu và cũng có thể tuyển chọn
được ứng viên tiềm năng, tâm huyết.
tác và tổ chức đào tạo. Hợp tác đào tạo theo
nhu cầu doanh nghiệp.
- Tổ chức triển khai các hoạt động đào
tạo cho sinh viên. Xây dựng và phát triển
mối quan hệ với cựu sinh viên và doanh
nghiệp. Hỗ trợ giới thiệu cho sinh viên đến
các công ty thiết kế để sinh viên thực tập.
- Tư vấn hướng nghiệp, tiếp nhận tài
trợ học bổng của các doanh nghiệp trong
và ngoài nước, trang thiết bị học tập cho
sinh viên.
2.3. Nhà trường, cơ sở đào tạo thiết
kế chương trình dựa trên nhu cầu xã hội
và doanh nghiệp
- Tổ chức khảo sát tình trạng việc làm
của sinh viên sau khi tốt nghiệp, đánh giá
thông tin phản hồi của các doanh nghiệp và
tổ chức sử dụng lao động về chất lượng sinh
viên sau tốt nghiệp. Tổ chức cho sinh viên
tham quan doanh nghiệp. Tổ chức một
lần/một học kỳ. Thời gian của các đợt tham
quan doanh nghiệp cũng khác nhau, từ một
ngày đến vài ngày.
Qua sự hợp tác giao lưu trao đổi nói
trên, nhà trường, khoa, cơ sở đào tạo có thể
kết hợp với các doanh nghiệp thiết kế các
chương trình đào tạo dựa trên nhu cầu thực
tế của từng doanh nghiệp. Phương pháp này
rất cần được áp dụng vào các chương trình
đào tạo ngành MTƯD ở Việt Nam vốn dĩ xa
rời thực tế công nghiệp. Phương pháp này
rất phù hợp với kinh tế thị trường vì thường
chỉ giải quyết một vấn đề liên quan đến công
ty theo xu hướng biến đổi kinh tế xã hội.
Chương trình đào tạo có thể được chia ra
làm hai phần:
Trường, khoa kết nối với nhà tuyển
dụng, doanh nghiệp, các công ty thiết kế,
đưa ra các chương trình thực hành, thực
tập cho sinh viên. Chương trình thực tập
rất quan trọng đối với sinh viên ngành
MTƯD, không chỉ giúp sinh viên củng cố,
ứng dụng kiến thức đã học để năng cao tay
nghề mà còn phát triển kỹ năng thao tác
các kỹ năng thực hành máy, tiếp cận với
công nghệ hiện đại, những xu hướng thiết
kế mới đang được thịnh hành trên thế giới
cũng như trong nước, làm quen với môi
trường doanh nghiệp. Từ đó sinh viên có
tay nghề cao đáp ứng nhu cầu của các
doanh nghiệp.
- Kiến thức nền tảng và kiến thức mô
hình thực tế. Kiến thức nền tảng mang tính
học thuật cao nhằm tạo cơ sở khoa học nền
tảng để giải quyết vấn đề đặt ra.
- Kiến thức mô hình thực tế là giới
thiệu các mô hình lý thuyết dùng để giải
quyết các vấn đề sẽ được giải quyết trong
dự án.
Với chương trình đào tạo này sinh
viên sẽ biết học để làm gì và làm để hiểu
hơn những gì được học. Ngoài ra, nhà
trường còn lập ra hội đồng đánh giá khóa
học trong đó có các giảng viên trong trường,
các giảng viên ngoài trường và các thành
Ngoài ra các trường đại học đào tạo về
design nên mời các chuyên gia, cựu sinh
viên thành đạt, doanh nhân đang công tác ở
các doanh nghiệp tư vấn thiết kế đồ họa,
nội thất, thời trang tham gia vào quá trình
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
49
viên khách mời từ các công ty, doanh nghiệp
2.5. Chương trình thực tập nghề tại
công ty, doanh nghiệp thiết kế
về đánh giá kết quả của sinh viên. Sinh viên
khi được các chuyên gia đánh giá sẽ tiếp thu
được nhiều kiến thức quí báu từ các chuyên
gia. Ưu điểm của phương pháp này là tạo
mối liên kết hữu cơ, doanh nghiệp cùng
tham gia kiểm tra đánh giá kết quả học tập
của sinh viên đồng thời có tác động thay đổi
kết cấu chương trình đào tạo, trong khi nhà
trường sẽ cân bằng được chương trình đào
tạo có kịp thời đáp ứng được nhu cầu
của các doanh nghiệp và sự phát triển
của xã hội.
Nhà trường, khoa xây dựng một
chương trình huấn luyện nghề nghiệp (thực
tập hoặc kiến tập) cho sinh viên ngành
design ngay từ năm thứ 3. Sinh viên năm
thứ 3 sẽ được khoa gửi đi đến các doanh
nghiệp theo đúng chuyên môn đang theo
học. Ví dụ sinh viên ngành nội thất gửi về
các doanh nghiệp, công ty thiết kế thi công
nội thất. Sinh viên ngành đồ họa gửi về các
công ty in ấn, công ty quảng cáo, công ty
truyền thông. Sinh viên ngành thời trang gửi
về các công ty may, các nhà chuyên thiết kế
thời trang để thực tập. Từ đó giúp cho sinh
viên được trải nghiệm thực tế, từ thực hành
đến lý thuyết, nắm vững các công đoạn
trước, trong và sau thiết kế, từng bước hiểu
được công việc mà mình đã, đang và sẽ làm
sau này và có cơ hội tạo dựng các mối quan
hệ nghề nghiệp.
2.4. Thành lập doanh nghiệp
thuộc Khoa
Trường cho phép các khoa thành lập
các doanh nghiệp, trung tâm nghiên cứu
thiết kế mỹ thuật, xưởng đồ họa, nội thất,
thời trang dưới sự quản lý của khoa. Đây là
một trong những yếu tố đặc trưng của từng
khoa. Việc này giúp cho trường, khoa xây
dựng được cơ sở hạ tầng phục vụ cho nghiên
cứu học tập đồng thời cũng khai thác được
lợi ích kinh doanh từ đó. Ngoài ra các doanh
nghiệp, trung tâm trực thuộc khoa sẽ đóng
góp một phần kinh phí xây dựng hệ thống
phòng thí nghiệm tiên tiến là hình thức liên
doanh với các doanh nghiệp để xây dựng
các phòng, xưởng thực tế cho các sinh viên
thực hành và đào tạo nâng cao tay nghề cho
kỹ thiết kế tương lai. Đây cũng là một cách
tăng nguồn kinh phí cho các trường, khoa
đang đào tạo mỹ thuật ứng dụng có thêm
kinh phí đầu tư trang thiết bị dạy học hiện
đại phục vụ cho sự phát triển của trường.
Hình thức thành lập doanh nghiệp trung tâm
thuộc khoa thành công khi cả hai bên dựa
trên mục tiêu chuyển giao kiến thức công
nghệ chứ không phải đơn thuần là tiết kiệm
tiền trong việc đầu tư cơ sở hạ tầng cho
nghiên cứu và học tập.
Chương trình thực tập này được tính
như một tín chỉ phải hoàn thành trước khi
bước vào năm cuối. Nhà trường, khoa, kết
hợp với các công ty doanh nghiệp thiết kế
tạo ra một mạng lưới các trợ giảng cấp cao
từ trường đến doanh nghiệp (người của
doanh nghiệp) có hiểu biết và kiến thức về
lĩnh vực nghề nghiệp chuyên môn. Nhà
trường, khoa kết hợp với các công ty, doanh
nghiệp để hỗ trợ sinh viên trong suốt thời
gian thực tập. Trong quá trình thực tập sinh
viên sẽ có cơ hội cọ xát và thể hiện mình
trước yêu cầu và môi trường làm việc tại
doanh nghiệp. Các trợ giảng sẽ giao nhiệm
vụ và giám sát sinh viên trong suốt quá trình
thực tập. Như vậy cho thấy sự liên quan gắn
bó mật thiết của nhà trường với doanh
nghiệp thông qua chương trình thực tập của
sinh viên, mối quan hệ liên kết giữa sinh
viên - trợ giảng - doanh nghiệp – các công ty
sẽ được thiết lập. Lưu ý, đây không phải là
50
Nghiên cứu trao đổi ● Research-Exchange of opinion
đợt thực tập tốt nghiệp như ở các trường
không phải chuyên MTƯD đang thực hiện
mà là đợt thực tập huấn luyện nghề nghiệp
để chuẩn bị kinh nghiệm, kỹ năng thiết kế
cho sinh viên trước khi nhận đề tài/đồ án
nghiên cứu tốt nghiệp của mình. Như vậy,
đề tài/đồ án tốt nghiệp của sinh viên sẽ phù
hợp với như cầu doanh nghiệp và sinh viên
có thời gian trải nghiệm thực tế để có định
hướng nghiên cứu tốt hơn trong đồ án tốt
nghiệp của mình.
Đây là một mô hình cần được nhà
trường, các doanh nghiệp bắt tay nhau hợp
tác đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao.
Một sự hợp tác mang lại ba lợi ích. Một là
lợi ích cho nhà trường, tạo sự uy tín cho cơ
sở đào tạo. Hai là các công ty, doanh
nghiệp không mất công, mất thời gian tiền
bạc đào tạo lại người lao động cho phù
hợp với doanh nghiệp của mình. Ba là
tránh lãng phí tiền của đầu tư của chính
phủ trong tình hình kinh phí chi cho giáo
dục nước ta còn eo hẹp.
3.Kết luận
Theo tôi, các doanh nghiệp trong
nước chưa có cơ hội và điều kiện tiếp cận
với mô hình, từ nhà trường đến doanh
nghiệp. Vì vậy trong quá trình đào tạo cần
có sự tham gia của doanh nghiệp, như đề
xuất danh mục nghề, tham gia giảng dạy và
đánh giá kết quả học tập, tổ chức cho học
sinh thực tập tại doanh nghiệp... Sinh viên
khi ra trường họ đã được thực tập và làm
việc tại doanh nghiệp, công ty và ở mức độ
nhất định đã đáp ứng được yêu cầu của
doanh nghiệp cả về kiến thức và kỹ năng
chuyên môn.
Tài liệu tham khảo:
Tài liệu tham khảo trong nước:
1. Vũ Thị Phương Anh. (2013). Gắn kết giữa
nhà trường và doanh nghiệp: Phải chăng còn
thiếu một mắt xích? Truy cập ngày 27/02/2018
tại http:/ncgd vn. Blogspot.com/2013/10/gan-
ket-giua-nha-truong-va-doanh nghiep.html
2. Nguyễn Ngọc Dũng (2012), “Bàn về thuật
ngữ Design”, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, số
3,4/12, tr.12-15.
3. Nguyễn Ngọc Dũng, “Bàn về thuật ngữ
Design”, Tạp chí Nghiên cứu Mỹ thuật, số
3,4/12, 2012, tr.12-15.
Các doanh nghiệp tư nhân, doanh
4. Vũ Tiến Dũng. (2016). “Một số giải pháp
tăng cường liên kết đào tạo giữa trường đại
học và doanh nghiệp”, Tạp Chí Lí Luận
Chính Trị, số 5.
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, các công
ty tư vấn thiết kế có quy mô nên chủ động
kết hợp với nhà trường, cơ sở đào tạo về
design tổ chức các buổi hội thảo trao đổi về
các xu hướng thiết kế, những yêu cầu của
các doanh nghiệp, hỗ trợ bồi dưỡng kỹ năng,
thực hành thực tập cho sinh viên tại các địa
điểm của công ty, doanh nghiệp mình. Thực
tập tại các cơ sở đào tạo của doanh nghiệp
có ưu điểm là hình thức đào tạo phù hợp với
đặc điểm sản xuất cũng như công nghệ của
doanh nghiệp. Do vậy các doanh nghiệp và
công ty vừa tiết kiệm được thời gian đào tạo
và tiết kiệm chi phí cho doanh nghiệp, vừa
tìm được nhân lực làm việc theo yêu cầu của
doanh nghiệp.
5. Trần Khánh Đức. Giáo Dục Đại Học Việt
Nam Và Thế Giới, Đại học Quốc gia Hà Nội,
2012.
6. Trần Khánh Đức. “Đặc trưng và mô hình
quản lý giáo dục ở một số nước trên thế giới”.
TTKHGD, Số 102 Tr.42-43, 45.
7. Nguyễn Đình Luận. (2015). Sự gắn kết
giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào
tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh
tế xã hội ở Việt nam: Thực trạng và khuyến
nghị. Tạp Chí Phát Triển và Hội Nhập, 22
(32).
8. Phạm Thi Ly. (2016). Về quan hệ hợp tác
giữa nhà trường và doanh nghiệp. Truy cập
Bạn đang xem tài liệu "Đào tạo ngành Design với thực tiễn xã hội từ nhà trường đến doanh nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- dao_tao_nganh_design_voi_thuc_tien_xa_hoi_tu_nha_truong_den.pdf