Nghệ thuật trang trí bao lam tại chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH  
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION  
TẠP CHÍ KHOA HỌC  
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN  
Tập 14, Số 2 (2017): 107-113  
JOURNAL OF SCIENCE  
SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES  
ISSN:  
1859-3100  
Vol. 14, No. 2 (2017): 107-113  
NGHỆ THUẬT TRANG TRÍ BAO LAM  
TẠI CHÙA GIÁC VIÊN Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH  
Nguyễn Thị Thu Tâm*  
Ngày Tò a soạn nhận được bài: 18-11-2016; ngày phản biện đánh giá: 08-12-2016; ngày chấp nhận đăng: 22-02-2017  
TÓM TẮT  
Chùa Giác Viên là một di tích kiến trúc được tôn tạo vào khoảng đầu thế kỉ XIX tại Thành  
phố Hồ Chí Minh (TPHCM). Các bao lam chạm khắc ở chùa Giác Viên là một công trình nghệ  
thuật tiêu biểu, mang dấu ấn dân tộc rõ nét, khá điển hình về mĩ thuật ở vùng đất phương Nam. Do  
đó, việc nghiên cứu, phổ biến và bảo tồn vốn quý nghệ thuật dân tộc là điều cần thiết và cấp bách  
đối với mỗi chúng ta trong giai đoạn hiện nay.  
Từ khóa: nghthut trang trí, chm khc, khqua, mãng cu.  
ABSTRACT  
The art of fresco in doors at Giac Vien Pagoda in Ho Chi Minh city  
Located in Ho Chi Minh city, Giac Vien pagoda is an architectural relic embellished at  
about the beginning of the 19th century. The fresco-painted doors carved at the pagoda are typical  
works of art and bear clear traditional marks, typical in the South of Vietnam. Conducting  
research, popularizing and preserving this traditional art is essential and imperative for Vietnam  
nowadays.  
Keywords: the art of fresco, carving, bitter melon, soursop.  
chứa trong mình những giá trị nghệ thuật  
với khuynh hướng dân gian đậm nét, độc  
đáo, được biểu hiện sinh động qua mĩ thuật  
rất cần được quan tâm nghiên cứu, giải mã.  
Đặc điểm của đa số chùa Việt tại  
1.  
Đặt vấn đề  
Vi din tích tnhiên 2093 km², đặc  
điểm địa lí đa phần là sông nước, TPHCM  
hiện có khoảng gn mt nghìn ngôi chùa,  
trong đó có sáu ngôi chùa Việt được nhà  
nước xếp hạng di tích kiến trúc - nghệ  
thut cp Quc gia: Giác Lâm, Giác Viên,  
Sc tứ Trường Th, Hội Sơn, Phụng Sơn,  
Phước Tường. Sáu ngôi chùa này được  
hình thành vào khoảng năm 1741 đến 1818  
tại Nam Bộ. Ngoài giá trị về văn hóa, tín  
ngưỡng, di tích này còn gn vi nhng  
điển tích lch sdân tộc trên vùng đất Nam  
Bộ từ ngày đầu mở cõi. Các ngôi chùa ẩn  
phương Nam được xây dựng trên các gò  
cao, thường ẩn mình dưới nhng lùm cây,  
hướng ra mt sông, rch. Kiến trúc bên  
ngoài có vẻ khiêm nhường, nhưng bên  
trong, cách bài trí tượng và trang trí chm  
khắc lại khiến người xem choáng ngợp,  
bởi: “Nghthut chm khc gTPHCM  
được hình thành và phát triển như sự tiếp  
ni liên tc ca nghthuật điêu khắc  
* Trường Đại học Sài Gòn; Email: tranha056@gmail.com  
107  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 14, S2 (2017): 107-113  
truyn thng ca dân tc. Nghthuật chạm  
khc gtTrung, Bc là nn tng chính  
yếu để từ đó, qua những chặng đường phát  
trin vsau, do những điều kin lch scụ  
thca xứ đô hội mà thâu thái thêm nhng  
tinh hoa tnhng nguồn khác để tng  
bước xác lp cái riêng của địa phương”  
[15, tr.570]. Những nghiên cứu cho thấy  
nghệ thuật trang trí bao lam tại chùa Giác  
Viên được đánh giá là rất đẹp. Qua khảo  
sát thực tế tại di tích, chúng tôi bước đầu  
đặt vấn đề cần nghiên cứu sâu, giải mã và  
phát hiện những giá trị nghệ thuật dân gian  
Nam Bộ ở một số đồ án trang trí bao lam  
tại đây. Việc khẳng định giá trị nghệ thuật,  
độc đáo tại ngôi chùa Việt vùng Nam Bộ  
này nhằm nâng cao ý thức trách nhiệm của  
cộng đồng đối với việc bảo vệ, phát huy  
giá trị của di tích.  
thành chùa Giác Viên, từ đó, qua nhiều lần  
trùng tu, Giác Viên có quy mô như hiện  
nay.  
Trong chùa Giác Viên, ngoài 153  
tượng gỗ, đồng, đá và gốm… còn có rất  
nhiều bao lam chạm khắc tinh xảo, có giá  
trị về văn hóa, lịch sử và nghệ thuật. Theo  
thống kê của Bảo tàng Cách mạng  
TPHCM, chùa Giác Viên có gần 60 bao  
lam trang trí độc đáo. Với số lượng bao  
lam mang giá trị nghệ thuật như vậy, tại  
TPHCM, hầu như không có chùa nào vượt  
qua chùa Giác Viên. Nhưng theo thống kê  
mới nhất của chúng tôi vào ngày 20-10-  
2016, tổng số bao lam hiện có tại chùa  
Giác Viên chỉ còn 55 cái, bên cạnh đó một  
ít bao lam bị hư hỏng do thời gian, bị ảnh  
hưởng khi một phần gian thờ bị sập đang  
được tu bổ. Trong số 55 bao lam trang trí  
còn lại, có 17 bao lam về đề tài Phật giáo  
và 38 bao lam thể hiện cây cỏ muông thú  
đặc trưng của Nam Bộ. Tại chính điện có 9  
bao lam, Hậu Tổ có 5 bao lam, khu giảng  
kinh Phật có 23 bao lam, Tây lang có 9 bao  
lam (trong đó có 2 bao lam không chạm  
thủng), Đông lang có 9 bao lam. Toàn bộ  
bao lam tại chùa Giác Viên đều do nhóm  
thợ Cầu Ông Thìn và nhóm thợ Đinh Văn  
Dực (thường gọi là nghệ nhân Sáu Dực)  
tạo tác kéo dài suốt mấy chục năm mới  
hoàn tất. Chùa Giác Viên đã trải qua ba lần  
tu bổ lớn (1958, 1961, 1962), có bổ sung  
các công trình kiến trúc cũng như chạm  
khắc bao lam và hiện nay đang trong giai  
đoạn được tháo dỡ để đại trùng tu.  
2.  
Bao lam chùa giác viên  
Nói đến mĩ thuật chùa TPHCM từ  
thế kỉ XVIII đến đầu thế kỉ XIX thì phải kể  
đến các công trình chạm khc gmà ni  
bt là khắc bao lam (cửa võng) thần vng,  
bao lam trang, kchm… Riêng chùa  
Giác Viên, nghệ thuật trang trí bao lam rất  
tiêu biểu.  
Chùa Giác Viên được xây dựng trong  
thời gian trùng tu chùa Giác Lâm vào  
khoảng năm 1798, tiền thân chùa là một  
am nhỏ thường gọi là “Quan Âm Các”, đây  
là nơi tập kết gỗ (theo đường thủy) để xây  
dựng chùa Giác Lâm. Chùa Giác Viên  
hướng ra rạch Ông Bường, cho đến nay chỉ  
còn lại một ít dấu tích của con rạch đó.  
Năm Canh Tuất đời Tự Đức (1850), Quan  
Âm Các được trùng tu nâng cấp và đổi tên  
Vni dung của gần 60 bao lam này,  
ta có ththấy các đồ án đều mang đề tài  
108  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Thị Thu Tâm  
điển tích Phật giáo, truyền thuyết và tín  
ngưỡng dân gian hay miêu tả cảnh vật  
thiên nhiên bản địa. Bao lam nói về đề tài  
Phật giáo chủ yếu chạm khắc rồng, phụng,  
La hán cưỡi thú, bát bửu… Trong đề tài  
này, bao lam Thập bát La Hán thượng kì  
thú được nhắc tới như một tác phẩm nghệ  
thuật chạm khắc có giá trị nghệ thuật cao,  
gồm hai bộ, bộ thứ nhất có 2 bao lam đặt ở  
chính điện, giữa 2 bao lam này là bao lam  
Bá điểu, bộ bao lam thứ hai đặt ở Nhà Trai  
(nơi giảng kinh Phật). Bộ bao lam ở chính  
điện đã được các nhà nghiên cứu Huỳnh  
Ngọc Trảng, Đỗ Duy Ngọc miêu tả, giải  
mã biểu tượng, kĩ thuật tạo tác… trong  
cuốn Địa chí văn hóa TPHCM. Bao lam  
Thập bát La Hán thượng kì thú độc đáo ở  
kĩ thuật chạm lộng và khối tròn, ở cách  
diễn tả 18 vị La Hán ngồi ở tư thế chân co,  
chân duỗi và cưỡi thú. Mỗi vị lại cưỡi một  
con thú khác nhau và trên tay mỗi vị cầm  
một vật tượng trưng tính cách như chùy,  
cành, khoen, chập chõa, thanh gỗ như thẻ  
bài, bình hoa, cây ráy tai... Trang phục các  
vị theo quy chuẩn giống nhau nhưng do  
cách tạo hình điêu luyện của nghệ nhân đã  
làm cho tác phẩm trở nên không đơn điệu.  
Xen kẽ các vị La Hán là tùng, bách và cây  
cối tạo thành một bố cục chặt chẽ, với cách  
diễn tả gần như thật, không cách điệu. Đặc  
biệt, bao lam Thập bát La Hán tại chính  
điện đã thoát ra khỏi khuôn phép của quy  
chuẩn mẫu mực xưa. Thường các vị La  
Hán cưỡi các con linh vật, nhưng ở bao  
lam này lại cưỡi các con vật được coi là rất  
bình thường như heo, dê, trâu, bò… thể  
hiện một cách nghĩ phóng khoáng và hài  
hước trong tâm hồn người Việt ở vùng đất  
mới.  
Trong đề tài dân gian, Bao lam “Bá  
điểu” được nhắc tới trong cuốn Địa chí văn  
hóa TPHCM là bao lam được nghệ nhân sử  
dụng kĩ thuật chạm lộng thể hiện 94 con  
chim các loài từ loài cao quý đến loài bình  
thường, đây cũng là bao lam thể hiện số  
chim nhiều nhất ở Nam Bộ. Ở bao lam Bá  
điểu, nghệ nhân kết hợp những giống chim  
đặc trưng của miền Nam như le le, bói  
cá… vào tác phẩm. Với số chim, cây cối  
nhiều nhưng bao lam không gây cảm giác  
nặng nề mà vẫn nhẹ nhàng, luôn dẫn mắt  
người xem đi từ bất ngờ này qua sự ngỡ  
ngàng khác. Các chi tiết thể hiện đặc điểm  
của từng loài chim, cách thể hiện trau  
chuốt, tỉ mỉ nhưng không khô cứng, nặng  
nề. Đây là một tác phẩm thoát ra ngoài sự  
ràng buộc khuôn khổ định sẵn của trang trí  
chùa thời nhà Nguyễn. Tác phẩm này được  
cấp riêng một bằng xác nhận kỉ lục Việt  
Nam số 462/KLVN/2007, thời điểm xác  
lập: 30-11-2007, với kỉ lục “Chùa Giác  
Viên, ngôi chùa có bao lam bách điểu lớn  
nhất Việt Nam”. Hệ thống bao lam tại chùa  
Giác Viên với Nhng bao lam có giá trị  
nghệ thuật cao là: bao lam Thập bát La  
Hán, bao lam Bá điểu, bao lam hình sen  
chài, bao lam Ngư tiều canh độc ở Đông  
lang, bao lam khỉ bắt chim ở Tây lang”  
[14, tr.5-6], phong phú về thể loại, về nội  
dung và nhiều tác phẩm mang rõ phong  
cách thuần Việt. Có thể nói, đây là hệ  
thống bao lam có giá trị cao về mặt nghệ  
thuật, là vốn quý về mĩ thuật cổ.  
Ngoài các bao lam “Thập bát La Hán  
109  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 14, S2 (2017): 107-113  
thượng kì thú”, “Bá điểu” cùng những bao  
lam khác mang các đồ án điển tích có tính  
truyn thống, ở chùa Giác Viên còn có  
những bao lam có các đồ án cách tân, khác  
l, thhiện tín ngưỡng, văn hóa dân gian  
vùng min. Ni bt là các bao lam dùng  
nhiu hình tượng trái Mãng cầu xiêm và  
Khqua. Việc xem xét hai tác phẩm này  
về nghệ thuật, về nội dung và giải mã  
thông điệp mà nghệ nhân xưa muốn  
chuyển tải qua tác phẩm mĩ thuật là rất cần  
thiết đối với người nghiên cứu nghệ thuật.  
Ở Đông lang (hành lang Đông) có  
chính mang tính tả thực, trong khi đó các  
họa tiết trung tâm phía trên và phần kết của  
hai bên cánh gà bao lam được cách điệu  
theo phong cách truyn thống. Toàn bộ bố  
cục chuyển động uốn lượn lên trên và từ  
hai bên chạy tụ vào giữa trung tâm của bao  
lam. Các khoảng trổ thủng được nghệ nhân  
bố trí khéo léo, lớn nhỏ khác nhau. Các  
mảng trang trí cũng có sự thay đổi về hình  
dáng, thân cây bố trí hợp lí nhằm mục đích  
liên kết các mảng trang trí khoảng trống  
chạm thủng. Việc sắp xếp khoảng trống  
phía trên nhiều, phía dưới ít, tạo cảm giác  
chắc chắn và dẫn mắt người xem từ dưới  
lên, càng lên cao cảm giác càng nhẹ nhàng,  
bay bổng. Các họa tiết chạm khắc khá chi  
tiết, tỉ mỉ như các cánh, mắt, mỏ và vẩy ở  
chân con cò được thể hiện rõ. Không  
những vậy, các thân, cành, lá còn rõ cả chi  
tiết gân lá, mắt, mấu của thân cây. Trên trái  
mãng cầu, nghệ nhân thể hiện các gai,  
cuống và thân hình cong theo các hướng  
khác nhau và rất được chú ý về mặt mĩ  
thuật. Các trái mãng cầu cũng thay đổi về  
kích thước lớn, nhỏ khác nhau, trái chìm  
sâu vào trong, trái lồi hẳn ra ngoài tạo một  
không gian mở trong trang trí.  
một bao lam chạm lộng, trên bao lam có  
tổng cộng 26 trái mãng cầu đăng đối, mỗi  
bên 13 trái lớn nhỏ được sắp xếp thành  
từng cặp hai, ba trái, liên kết với nhau bằng  
ha tiết cành cây lớn nhỏ và lá mãng cầu,  
xen lẫn mười con cò bố trí riêng biệt thành  
cặp đối xứng nhau mỗi bên 5 con, con đậu,  
con tung cánh chuẩn bị bay, con đang bay.  
Phía dưới bao lam mỗi bên có hai tảng đá.  
Ở thân cây mọc từ tảng đá trên, tảng đá  
dưới có một vị ngư phủ đang trong tư thế  
cúi, nón đeo sau lưng, đầu quấn khăn, phía  
sau tảng đá là giỏ cá, nhân vật được trang  
trí nút thắt vải ngang bụng, quần xắn lên  
gần ngang đầu gối, một tay nắm hờ đưa ra  
sau, còn tay kia đưa ra phía trước với hai  
ngón tay chỉ thẳng trong khi các ngón khác  
nắm lại như cử chỉ làm phép cho một chú  
cò đang vươn hai cánh lên, đầu gục xuống  
đất. Ở trung tâm bao lam là hình hoa cúc  
lớn cách điệu, dưới cùng là hình hoa văn  
trang trí kiểu bệ đỡ có chạm lá cách điệu.  
Với phong cách thể hiện vừa cách  
Với tất cả các thủ pháp nghệ thuật  
như trên đã nêu, nghệ nhân muốn tập trung  
thể hiện rõ ý nghĩa mình muốn biểu đạt,  
thhin mt hình nh sống động vcuc  
sống vùng đồng quê. Scách tân thhin  
trong việc sử dụng hình tượng trái mãng  
cầu để diễn tnhng trái cây thân quen  
trong cuộc sống hàng ngày, gắn bó với đời  
thường, khác xa các loại trái cây trong điển  
tích các đồ án truyn thống như lựu, đào...  
điệu vừa tả thực, phần thể hiện nội dung  
110  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Thị Thu Tâm  
Ý nghĩa của trái mãng cầu xuất hiện trong  
mâm ngũ quả ngày tết của người dân Nam  
Bộ cũng mang ý nghĩa như những điều mà  
nghệ nhân muốn chuyển tải trong bao lam  
đặc biệt này. Họa tiết vị ngư phủ với con  
cò gợi cho người xem hình ảnh rất đời  
thường, dân dã, đồng thời thể hiện sự gắn  
kết giữa con người với thiên nhiên.  
ta như nhìn rõ từng mấu lồi sần sùi trên  
thân trái, hình trái đa dạng gần với trái khổ  
qua thật. Các cây trúc thanh thoát, nhỏ  
nhắn, các mắt được chạm rõ ràng, lá trúc  
tạo thành từng chùm hay đơn lẻ đều được  
chú ý tới từng chi tiết. Các dây leo quấn  
quanh cây trúc tinh tế, mềm mại, sinh  
động. Phong cách nghệ thuật rất riêng biệt  
trong cách sắp xếp bố cục các mảng chạm  
khắc lá, cành, chim thay đổi liên tục không  
lặp lại, đồng thời các khoảng trống cũng  
không giống nhau về hình, về diện tích, các  
mảng thoáng dần ở phần trên. Dù chú ý  
từng chi tiết nhỏ như vậy song không làm  
phá vỡ bố cục chung, vừa vững vàng, chặt  
chẽ vừa thanh thoát, không gây cảm giác  
nặng nề hay dày đặc trong toàn bộ bao lam.  
Bố cục tạo cảm giác chuyển động từ dưới  
và từ hai phía lên, gặp nhau ở giữa rồi bung  
ra, như một sự mãn nguyện, thăng hoa.  
Nghệ nhân đã thể hiện được ý đồ của nội  
tâm là mong muốn một cuộc sống yên  
bình, hạnh phúc.  
Sau gian chính điện, sát cửa sau của  
khu nhà Trai (khu giảng kinh Phật) là một  
bao lam dài 3,5m, cao 2,5m và bản rộng  
0,25m. Mỗi bên bao lam trang trí 13 trái  
khổ qua, tổng cộng cả bao lam là 26 trái.  
Các trái được sắp xếp khi thì đơn lẻ, khi  
thành cặp hai trái, ba trái, xen kẽ là cây  
trúc và cành trúc. Càng lên trên các đốt  
trúc lại càng ngắn lại. Trên cành trúc, bên  
những trái khổ qua, lá trúc, lá khổ qua là  
những con chim. Mỗi bên 9 con, tổng cộng  
18 con có dáng dấp sinh động, con đậu,  
con thì bay hoặc xòe cánh. Phần trung tâm  
được trang trí hai trái khổ qua được sắp  
xếp đăng đối trên nền chùm lá, tạo thành  
một đồ án đẹp tại trung tâm của bao lam.  
Nghệ nhân sắp xếp các cụm lá trúc,  
Theo quy luật tự nhiên, các đốt trúc  
dưới gốc thường ngắn hơn các đốt trúc ở  
trên ngọn, nhưng ở đây, nghệ nhân cố tình  
tạo các đốt ở trên ngọn ngắn sát nhau để  
thể hiện rằng càng lên cao thân càng chắc  
khỏe. Việc dùng hình tượng tre trúc vn  
tượng trưng cho bậc quân ttrí nhân bên  
cnh nhng trái cây tht dân dã Nam Bộ  
như khổ qua, nhm ca ngi tinh thn khí  
phách của người dân khai hoang mcõi.  
Theo sự nhìn nhận của chúng tôi, bao lam  
này có phong cách và nội dung thuần Việt,  
cách diễn tả phóng khoáng, hiện thực,  
không bị ảnh hưởng bởi bất cứ một phong  
lá cây khổ qua xen kẽ tạo nên bố cục hòa  
quyn, các nét chạm khắc tinh xảo, có  
những cành trúc nhỏ chạm lộng chừng 1cm  
và nhỏ như cọng tăm. Các chi tiết nhỏ ở  
con chim cũng được chú ý từ lông cánh  
đến lông đuôi. Các con chim đứng thành  
cặp, có cả những chú chim nhỏ bên cạnh  
chim bố chim mẹ được thể hiện trong trang  
thái bình yên của một gia đình, các chi tiết  
nhỏ như lông, mắt, mỏ, chân chim được  
diễn tả chi tiết, sắc sảo. Hầu hết trái khổ  
qua được chạm nổi rồi ghép vào tấm chính,  
111  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Tập 14, S2 (2017): 107-113  
cách nào trong cách thể hiện, mang đặc thù  
của cư dân Việt trên vùng đất Nam Bộ.  
Tóm lại, các bao lam chạm khc ca  
thợ chạm khắc gỗ kéo dài không lâu, vì tốc  
độ phát triển kinh tế xã hội ở vùng đất mới  
y rất nhanh chóng” [15, tr.535]. Cũng  
chính trong thời gian “thất nghiệp” đó,  
những người thợ chạm khắc phải bươn chải  
bằng việc song hành khai phá cùng di dân  
ở vùng đất mới. Chính vì vậy mà họ đã  
thấu hiểu những suy nghĩ, tình cảm, ước  
vọng của cư dân vùng đất phương Nam  
này, để rồi bộc lộ điều đó qua các công  
trình chạm khắc trang trí ở chùa. Họ thể  
hiện chân thực những nguyện ước, mong  
mỏi của người dân và sự phóng khoáng  
trong suy nghĩ cũng như trong cách tạo tác.  
Tác phẩm mang đậm chất địa phương Nam  
Bộ và dân gian người Việt, triết lí nhà Phật  
trên nền của ý tứ, kĩ thuật chạm khắc từ  
Trung, Bắc. Mỗi bao lam ở chùa Giác Viên  
là một tác phẩm nghệ thuật có giá trị về  
văn hóa, là bằng chứng sống động về tâm  
tư tình cảm của con người ở vùng đất Nam  
Bộ xưa.  
chùa Giác Viên ngoài giá trị về mặt tạo  
hình trong đường nét chạm khắc trang trí,  
ta còn thấy sự phát triển của đồ án trang trí,  
sự thoát li các đồ án điển tích truyền thống,  
tiếp nhận các đồ án mang tính dân dã, đời  
thường, thể hiện lối sống phóng khoáng,  
hào sảng đặc trưng. Các tác phẩm phản ánh  
những mong ước của người dân mà nghệ  
nhân Nam Bộ gửi gắm trong nội dung  
được chuyển tải qua nghệ thuật chạm khắc.  
Đằng sau ý nghĩa ẩn sâu ấy, hai tác phẩm  
nghệ thuật này dường như còn mang một ý  
nghĩa về tôn giáo sâu sắc. Bao lam trái  
mãng cầu và khổ qua đã thể hiện đậm nét  
dân gian thuần Việt của vùng đất phương  
Nam so với các bao lam khác trong chùa  
Giác Viên và các chùa khác tại TPHCM.  
3.  
Kết luận  
“Nghệ thuật điêu khắc gỗ Nam Bộ có  
nguồn gốc từ Trung, Bắc. Những người thợ  
chạm, theo chân những di dân Thuận,  
Quảng vào hành nghề ở miền đất này. Mặc  
dù, ngay từ buổi đầu chắc đã có những tay  
thợ giỏi, nhưng cuộc sống lúc đó chưa có  
yêu cầu cao. Nhà cửa, đồ dùng bằng gỗ chỉ  
cần bền chắc là đủ thì có lẽ tài năng của  
họ chưa phát huy đúng mức. Tuy nhiên  
thời gian “thất nghiệp” của những người  
Bài viết này góp phần bổ sung làm rõ  
thêm giá trị về các yếu tố tạo hình cũng như  
ý nghĩa về những biểu tượng đó. Chùa Giác  
Viên không chỉ có giá trị về mĩ thuật, lịch sử,  
văn hóa và khoa học, mà còn mang giá trị về  
mặt xã hội, tín ngưỡng nên cũng cần gắn với  
những hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị  
nghệ thuật hơn nữa để xử lí hài hòa mối quan  
hệ giữa bảo tồn và phát triển.  
112  
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM  
Nguyễn Thị Thu Tâm  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Đào Duy Anh (hiệu đính, chú giải và khảo chứng) (2013), Đại Việt sử kí toàn thư, Nxb Thời đại.  
1.  
2.  
Nguyễn Chí Bền (2006), Góp phần nghiên cứu văn hóa dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học  
xã hội, Hà Nội.  
3.  
Trn Lâm Bin (1993), Hình tượng con người trong nghthut to hình truyn thng Vit,  
Nxb Mĩ thuật, Hà Ni.  
4.  
5.  
Trần Lâm Biền (1996), Chùa Việt, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Ni.  
Trn Lâm Bin (chbiên) (2001), Trang trí trong mĩ thuật truyn thng của người Vit, Nxb  
Văn hóa dân tộc, Hà Ni.  
6.  
7.  
8.  
9.  
Trần Lâm Biền (2013), Con đường tiếp cận lịch sử, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Ni.  
Trần Văn Cẩn (biên son) (1975), Vit Nam - Điêu khắc dân gian, Nxb Ngoại văn, Hà Nội.  
Phạm Anh Dũng (2013), Kiến trúc đình, chùa Nam Bộ, Nxb Xây dựng, Hà Nội.  
Lê Quý Đôn, (Trúc viên Lê Mạnh Liêu dch) (1973), Đại Việt thông sử, Tsách cổ văn, Ủy  
ban dịch thuật, Bộ Văn hóa Giáo dục và Thanh niên.  
10. Nguyn Hiền Đức (1993), Lch sPhật giáo Đàng Trong (1558 – 1802), Nxb Thành phHồ  
Chí Minh.  
11. Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng (chủ biên) (1998), Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí  
Minh, tập 1, 2, 3, 4, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.  
12. Đại đức Thích Thiện Hoa (Pl 2550 - Dl 2006), Phật học phổ thông, Nxb Tôn giáo.  
13. Thạch Phương, Lê Trung Hoa (chủ biên) (2008), Từ điển Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh,  
Nxb Trẻ.  
14. Sở Văn hóa Thành phố HChí Minh (1993), Hồ sơ di tích kiến trúc, nghthut cp Quc  
gia chùa Giác Viên, qun 11, Trung tâm bo tn và phát huy giá trdi tích lch sử, văn hóa  
Thành phHChí Minh.  
15. Huỳnh Ngọc Trảng, Đỗ Duy Ngọc (1998), “Nghệ thuật chạm khắc gỗ Thành phố Hồ Chí  
Minh”, Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.  
113  
pdf 7 trang yennguyen 22/04/2022 600
Bạn đang xem tài liệu "Nghệ thuật trang trí bao lam tại chùa Giác Viên ở thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnghe_thuat_trang_tri_bao_lam_tai_chua_giac_vien_o_thanh_pho.pdf