Công tác thực tập sư phạm tại trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội từ góc nhìn của giảng viên và sinh viên

CÔNG TÁC THỰC TẬP SƯ PHẠM TẠI TRƯỜNG  
ĐẠI HỌC NGOẠI NGỮ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI  
TỪ GÓC NHÌN CỦA GIẢNG VIÊN VÀ SINH VIÊN  
*
Nguyễn Thúy Lan  
Phòng Đào tạo, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN,  
Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam  
Nhận bài ngày 18 tháng 11 năm 2018  
Chỉnh sửa ngày 27 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 29 tháng 3 năm 2019  
Tóm tắt: Hoạt động đào tạo nghiệp vụ sư phạm luôn là một hợp phần quan trọng, không thể thiếu  
trong chương trình đào tạo (CTĐT) ngành sư phạm nói chung và sư phạm ngoại ngữ nói riêng. Thông qua  
hoạt động này, sinh viên sẽ được ứng dụng những kiến thức được học trong trường vào thực tế từ đó bớt  
đi sự bỡ ngỡ khi tốt nghiệp, rút ngắn khoảng cách “tập sự” của giáo viên trẻ mới ra trường. Để đánh giá sự  
phù hợp của mô hình thực tập sư phạm hiện thời tại Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội  
(ĐHNN - ĐHQGHN), nghiên cứu đã làm khảo sát với 30 giảng viên và 100 sinh viên đã tham gia thực tập.  
Kết quả ban đầu cho thấy: Về thời lượng thực tập và thời điểm triển khai, phần lớn giảng viên yêu cầu thời  
lượng thực tập cần được tăng lên vì 06 tuần không đủ để sinh viên thực hành và rút kinh nghiệm. Tuy nhiên,  
đa số sinh viên cho rằng thời lượng thực tập như hiện nay là hợp lý trong học kỳ cuối cùng của CTĐT. Về  
thời điểm bắt đầu thực tập, đa số các thầy cô cho rằng thời gian sinh viên nên bắt đầu thực tập vào học kỳ  
cuối khi đã đủ năng lực ngoại ngữ và sư phạm; sinh viên có ý kiến ngược lại khi muốn được thực tập sớm  
hơn và thời điểm linh hoạt hơn. Về những kĩ năng, kiến thức cần được trang bị thêm cho sinh viên, giảng  
viên và sinh viên đều đồng ý rằng CTĐT cần bổ sung thêm kỹ năng mềm cho sinh viên. Về cơ sở tiếp nhận  
thực tập, phần lớn giảng viên và sinh viên tin tưởng vào sự phân công và lựa chọn cơ sở tiếp nhận của Nhà  
trường. Tuy nhiên, giảng viên không đánh giá cao về mức độ hỗ trợ và hiệu quả trong công tác hướng dẫn  
sinh viên của cơ sở tiếp nhận. Những phát hiện ban đầu của nghiên cứu hy vọng sẽ đưa ra những gợi ý cho  
việc điều chỉnh hoạt động thực tập sư phạm tại ĐHNN - ĐHQGHN nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả của  
hoạt động đào tạo rất quan trọng và có ý nghĩa này. **  
Từ khóa: thực tập sư phạm, chương trình đào tạo, sư phạm ngoại ngữ  
1
1. Đặt vấn đề  
rút ngắn khoảng cách “tập sự” của giáo viên  
trẻ mới ra trường, giúp họ nhanh chóng làm  
quen, hòa nhập và có thể hoàn thành tốt nhiệm  
vụ dạy học – giáo dục, đáp ứng Chuẩn nghề  
nghiệp giáo viên phổ thông trung học.  
Hoạt động đào tạo nghiệp vụ sư phạm là  
điểm khác biệt cơ bản giữa CTĐT ngành sư  
phạm và CTĐT các ngành khác của ĐHNN  
- ĐHQGHN. Thông qua hoạt động này, sinh  
viên sẽ được trang bị các kĩ năng dạy học, kĩ  
năng giáo dục cần thiết. Đây là điều kiện “cần”  
để sinh viên bớt đi sự bỡ ngỡ khi tốt nghiệp,  
Hiện nay, với sự chuyển mình mạnh mẽ  
của xã hội Việt Nam, người giáo viên cần  
phải trang bị cho mình những kiến thức, năng  
lực, kỹ năng toàn diện để trở thành “những  
nhà giáo dục nhiều hơn là những chuyên gia  
truyền đạt kiến thức” (điểm 18 – Khuyến nghị  
của UNESCO). Chỉ bằng cách phát triển năng  
lực toàn diện cho những giáo viên tương lai,  
giáo dục đại học mới đáp ứng được yêu cầu  
của sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất  
*
ĐT.: 84-928003530  
Email: lanthuy.nguyen@gmail.com  
Nghiên cứu này được hoàn thành với sự tài trợ của  
Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà  
Nội trong đề tài mã số N.16.18  
**  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 70-79  
71  
nước hiện thời và trong 20 năm tới. Thực hiện  
mục tiêu đổi mới giáo dục đại học nói chung,  
đổi mới chương trình đào tạo nói riêng, năm  
2012, ĐHNN - ĐHQGHN đã tiến hành điều  
chỉnh các CTĐT theo chuẩn đầu ra nhằm phát  
triển năng lực toàn diện cho người học, đáp  
ứng nhu cầu thực tiễn xã hội. Quy chế thực tập  
sư phạm hiện hành được ban hành theo Quyết  
định số 1403/QĐ-ĐHNN ngày 10/9/2013.  
Đến năm 2015, học phần Thực tập nghiệp vụ  
là 1 trong 4 học phần được tích hợp để đánh  
giá học phần Kỹ năng mềm. Những thay đổi  
này đã phần nào phản ánh nỗ lực đưa hoạt  
động thực tập sư phạm gắn liền với mục tiêu  
đào tạo đáp ứng chuẩn đầu ra. Tuy nhiên, trải  
qua 3 năm thực hiện, học phần Kiến thức thực  
tập cũng cần được đánh giá lại và sửa đổi (nếu  
cần thiết) để đáp ứng đầy đủ các chuẩn đầu ra  
mà CTĐT mới đã nêu.  
được học vào một môi trường giảng dạy thực  
tế dưới sự hướng dẫn của những người nhiều  
kinh nghiệm hơn (Tang, 2003). Hoạt động này  
chính là cầu nối giữa lý thuyết và thực hành  
trong bước khởi đầu công việc của một giáo  
viên (Darling-Hammond, 2006).  
Grossman và các cộng sự (2009) đã đưa ra  
một mô hình thực tập nghiệp vụ bao gồm ba  
thànht:Lýthuyết(Representation),Thựchành  
(Decomposition) vàThực tập (Approximation).  
Phần lý thuyết (Representation) nêu ra các  
hoạt động chuẩn bị cho thực tập có thể được  
tiến hành thông qua các hình thức giảng dạy  
tại trường. Phần thực hành (Decomposition)  
chia nhỏ các phần của hoạt động thực tập và  
giao cho các giảng viên hướng dẫn giáo sinh  
thực hành tại trường đại học. Phần thực tập  
(Approximation) nói đến các cơ hội mà giáo  
sinh được thực sự trải nghiệm giảng dạy trong  
môi trường thực tế. Như vậy, giảng viên tại  
trường đại học sẽ chịu trách nhiệm hướng dẫn  
giáo sinh về các nghiệp vụ sư phạm như thiết  
kế bài giảng, kiểm tra đánh giá, thực hiện hoạt  
động giảng dạy, quản lý lớp học, mô phỏng các  
tình huống sư phạm. Các giáo viên tại trường  
phổ thông sẽ hỗ trợ giáo sinh trong phương  
diện học thông qua tập giảng.  
Trong khuôn khổ bài báo, tác giả cung cấp  
đánh giá của giảng viên và sinh viên trường  
ĐHNN - ĐHQGHN về mức độ phù hợp của  
mô hình thực tập nghiệp vụ sư phạm hiện có  
trong việc đào tạo sinh viên ngành sư phạm  
trường ĐHNN - ĐHQGHN theo CTĐT  
chuyển đổi đáp ứng chuẩn đầu ra.  
Áp dụng mô hình của Grossman (2009),  
Cheng (2014) đã tiến hành nghiên cứu những  
yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt  
động thực tập nghiệp vụ của một số CTĐT  
sư phạm của Hồng Kông. Những yếu tố được  
đưa ra nghiên cứu bao gồm những khóa học  
tại trường đại học, sự hợp tác của trường phổ  
thông và bản thân giáo sinh. Kết quả cho thấy  
chương trình thực tập nghiệp vụ đã giúp bồi  
dưỡng năng lực thiết kế bài giảng, kiểm tra  
đánh giá và quản lý hoạt động học tập của giáo  
sinh. Nghiên cứu đã đưa ra một số nguyên tắc  
để nâng cao chất lượng của hoạt động thực  
tập nghiệp vụ như nâng cao chất lượng các  
học phần nghiệp vụ tại trường đại học bằng  
cách bổ sung các học phần về năng lực kiểm  
tra đánh giá, tăng cường mối liên hệ hợp tác  
giữa trường đại học sư phạm và trường phổ  
thông, tập huấn cho giáo viên phổ thông về kỹ  
năng hướng dẫn thực tập, tăng cường kỹ năng  
2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu  
2.1. Ngoài nước  
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu phát  
triển nhanh và đầy cạnh tranh, mọi ngành nghề  
đều có nhu cầu rất lớn về một nguồn nhân lực  
mới sẵn sàng tham gia thị trường lao động với  
đủ kỹ năng cần thiết (Ralph, 2007). Đã có một  
số lượng nghiên cứu nhất định đề cập đến tính  
hiệu quả của các chương trình thực tập nghiệp  
vụ, đặc biệt trong lĩnh vực giảng dạy. Phần lớn  
các nghiên cứu đều nhấn mạnh tầm quan trọng  
của chương trình thực tập nghiệp vụ, thậm chí  
có nghiên cứu cho rằng thực tập giảng dạy là  
phần quan trọng nhất trong CTĐT các ngành  
sư phạm (Howitt, 2007; Loughran, Mulhall,  
& Berry, 2008). Sở dĩ hoạt động thực tập quan  
trọng như vậy là do hoạt động thực tập giúp  
giáo sinh có cơ hội ứng dụng những kiến thức  
N.T. Lan/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 70-79  
72  
tự học, tự hoàn thiện kỹ năng nghiệp vụ của  
giáo sinh.  
Như vậy, có thể thấy hầu như các nghiên  
cứu trên thế giới đều nhấn mạnh tầm quan  
trọng của hoạt động thực tập nghiệp vụ.  
Nhưng để đạt được hiệu quả cao nhất, cần có  
một nghiên cứu nêu rõ hơn nữa những yếu tố  
ảnh hưởng đến chất lượng của hoạt động thực  
tập nghiệp vụ. Ngoài ra, các nghiên cứu đều  
cho thấy còn nhiều vấn đề cần phải xem xét  
kỹ, đặc biệt là sự chuẩn bị cho giáo sinh tại  
trường về các nghiệp vụ sư phạm như năng  
lực kiểm tra đánh giá, năng lực giải quyết tình  
huống sư phạm, năng lực giao tiếp với đồng  
nghiệp; sự hợp tác chặt chẽ giữa nhà trường  
phổ thông và trường đại học sư phạm trong  
việc đào tạo các giáo sinh trẻ cũng cần được  
chú trọng hơn và có những hoạt động hợp tác  
cụ thể giữa hai bên.  
Trong nghiên cứu của mình về đánh giá  
của giáo sinh đối với chương trình thực tập  
nghiệp vụ sư phạm tại Isarel, Kari và Lilach  
(2005) đã đưa ra những kết luận như: phần  
lớn giáo sinh đánh giá cao tính hiệu quả của  
chương trình thực tập sư phạm; nhưng họ  
cảm thấy cần thiết phải được trang bị thêm về  
mặt lý thuyết để tự tin tham gia thực tập hơn.  
Theo đánh giá của giáo sinh, họ nhận được  
nhiều sự hỗ trợ nhất từ giáo viên hướng dẫn  
của trường sư phạm, trường phổ thông, bạn  
bè cùng tham gia đợt thực tập nhưng sự hỗ  
trợ từ các hiệu trưởng các trường phổ thông  
chưa nhiều. Điều này cho thấy một bộ phận  
các hiệu trưởng chưa coi việc phối hợp với  
các trường đại học đào tạo giáo sinh là một  
phần trách nhiệm của mình.  
2.2. Trong nước  
Trong xu hướng chung của thế giới,  
các trường sư phạm tại Việt Nam cũng có  
sự quan tâm cho hoạt động thực tập nghiệp  
vụ. Tuy nhiên, vẫn còn những câu hỏi đặt  
ra và chưa có câu trả lời thấu đáo: năng lực  
thích ứng nghề nghiệp của nhiều sinh viên  
sư phạm chưa cao (Trương, 2015). Rất nhiều  
công trình khoa học đã đề cập đến vấn đề này.  
Phạm Văn Chín (2010) trong “Thực trạng và  
một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng  
nghiệp vụ sư phạm cho sinh viên trường  
Đại học Sư phạm Hà Nội”, Nguyễn Thành  
Thi (2010) trong “Từ “Học” đến “Hành” và  
“Tập” – Khoảng cách cần phải rút ngắn trong  
đào tạo giáo viên” đã chỉ ra những bất cập  
trong công tác đào tạo nghiệp vụ sư phạm ở  
các trường đại học sư phạm. Nguyễn Thành  
Thi cho rằng “chương trình, các quy cách dạy  
học các môn Giáo dục học, Tâm lý học còn  
nặng sách vở, kinh viện, giảng viên bộ môn  
phương pháp không thích dạy phương pháp  
mà chỉ thích “lấn sân” dạy lại kiến thức cơ  
bản, chuyên ngành. Trương Thị Bích (2015)  
cũng đưa ra những nhận xét về một số vấn đề  
còn tồn tại của chương trình thực tập nghiệp  
vụ của các trường sư phạm như:  
Ralph (2007) điều tra về phản hồi của 431  
giáo sinh thực tập tại các trường phổ thông  
của Canada về hiệu quả của hoạt động thực  
tập. Những phản hồi tích cực bao gồm: (a) sự  
hỗ trợ của các bên liên quan đến hoạt động  
thực tập, (b) kinh nghiệm giảng dạy được cải  
thiện, (c) sự tự tin của giáo sinh về khả năng  
tác động thay đổi học sinh. Tuy nhiên, những  
phản hồi tiêu cực gồm có: (a) những khó khăn  
trong giải quyết tình huống sư phạm, (b) mối  
quan hệ đồng nghiệp tại cơ sở thực tập, (c)  
chính sách của trường đại học với hoạt động  
thực tập, (d) thủ tục giấy tờ cồng kềnh.  
Hamaidi (2014) tiến hành nghiên cứu với  
71 giáo sinh sau khi họ tham gia đợt thực tập  
nghiệp vụ ở các trường phổ thông của Jordan.  
Sau khi tìm hiểu những đánh giá của giáo  
sinh về chương trình thực tập, Hamaidi đưa ra  
những khó khăn của giáo sinh bao gồm: thiếu  
sự hướng dẫn của giảng viên và khó khăn  
trong giao tiếp với đồng nghiệp tại cơ sở thực  
tập. Từ đó, Hamaidi đưa ra đề xuất tổ chức  
những buổi tập huấn trước mỗi kỳ thực tập để  
giảng viên của trường đại học sư phạm, giáo  
viên hướng dẫn tại trường phổ thông, giáo  
sinh thực tập gặp nhau, phân rõ trách nhiệm  
và mong đợi của mỗi phía.  
(a) Đội ngũ giảng viên dạy nghiệp vụ sư  
phạm chưa được đào tạo bài bản, chủ yếu là  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 70-79  
73  
3. Phương pháp nghiên cứu  
theo kinh nghiệm công tác. Điều này không  
khó hiểu bởi theo Nguyễn Thu Tuấn (2010),  
có tới 90 % giảng viên các trường sư phạm  
hầu như chưa tham gia dạy học tại các trường  
phổ thông nên họ thiếu kinh nghiệm thực tế  
phổ thông, không nắm vững môi trường sư  
phạm ở trường phổ thông và những đổi mới  
giáo dục phổ thông, do vậy kiến thức kĩ năng  
để trang bị cho sinh viên chưa tương ứng;  
3.1. Công cụ nghiên cứu  
Một bảng câu hỏi điều tra được thiết kế để  
thu thập ý kiến đánh giá của các bên liên quan  
đối với mức độ hiệu quả của chương trình  
thực tập nghiệp vụ sư phạm hiện thời.  
Chúng tôi đã áp dụng mô hình thực  
tập nghiệp vụ của Grossman và các cộng  
sự (2009) bao gồm ba thành tố: Lý thuyết  
(Representation),Thựchành(Decomposition)  
và Thực tập (Approximation). Dựa trên mô  
hình này, để có được những câu hỏi có giá trị  
thu thập thông tin tốt, nhóm nghiên cứu đã  
tiến hành phân tích nội dung và chuẩn đầu ra  
của CTĐT các ngành sư phạm ngoại ngữ, quy  
chế thực tập và phỏng vấn một nhóm giảng  
viên dạy học phần Phương pháp giảng dạy và  
sinh viên thực tập ngành sư phạm thuộc các  
khoa khác nhau. Ý kiến của nhóm tham gia  
phỏng vấn, chuẩn đầu ra của chương trình  
đào tạo, nội dung của quy chế thực tập được  
chuyển thành những nhận định được đưa ra  
trong phiếu câu hỏi điều tra. Thang 5 điểm  
Likert được sử dụng. Thang Likert là thang  
được sử dụng phổ biến trong nghiên cứu về  
thái độ, hành vi (Cheung, 2014). Thang này  
phân biệt các câu hỏi từ “Hoàn toàn đồng  
ý” đến “Hoàn toàn không đồng ý” (Likert,  
1932). Bảng hỏi gồm có 5 phần: Phần 1 bao  
gồm những câu hỏi liên quan đến ý kiến về  
thời lượng của học phần thực tập và thời  
điểm triển khai hoạt động thực tập, Phần 2  
bao gồm những câu hỏi lấy ý kiến về những  
kỹ năng, kiến thức mà sinh viên cần được  
trang bị trước khi đi thực tập, Phần 3 yêu cầu  
người trả lời đánh giá về cơ sở tiếp nhận thực  
tập và Phần 4 tập trung làm rõ ý kiến đánh  
giá về quy trình thủ tục liên quan đến hoạt  
động thực tập. Riêng phần 5 dành cho ý kiến  
đóng góp về công tác thực tập sư phạm và  
thực tập nghiệp vụ ngoài các thông tin và các  
câu hỏi đã được cung cấp ở trên.  
(b) Các trường sư phạm chưa thực sự gắn  
kết chặt chẽ thường xuyên với các trường phổ  
thông; các trường phổ thông chưa coi nhiệm  
vụ hướng dẫn, giúp đỡ giáo sinh là nhiệm vụ  
bắt buộc của mình;  
(c) Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm chỉ chú  
trọng tập trung vào những năm cuối, trong khi  
để có năng lực nghiệp vụ sư phạm, sinh viên  
phải được rèn luyện ngay từ khi vào trường,  
nhưng hoạt động này lại rất ít được quan tâm  
ở thời gian đầu của hoạt động đào tạo;  
(d) Sinh viên trong học tập nghiệp vụ sư  
phạm còn tỏ ra nhút nhát, thụ động, giao tiếp  
kém, kĩ năng sống yếu và thiếu, chưa sáng tạo  
trong tiếp thu những kiến thức nghiệp vụ sư  
phạm, thiếu kĩ năng quan sát, kĩ năng biểu đạt  
ngôn ngữ.  
Qua phân tích tình hình nghiên cứu trong  
và ngoài nước, chúng tôi nhận thấy không thể  
phủ nhận tầm quan trọng của hoạt động thực  
tập nghiệp vụ trong việc phát triển năng lực  
giảng dạy của sinh viên các ngành sư phạm.  
Tuy nhiên, hoạt động thực tập trên thế giới nói  
chung và trong bối cảnh Việt Nam nói riêng  
đều đang gặp phải những thử thách lớn chưa  
được giải quyết triệt để. Những thử thách này  
xuất phát từ bản thân CTĐT, đội ngũ giảng  
viên giảng dạy học phần nghiệp vụ sư phạm  
trong trường đại học, bố trí thời gian của học  
phần thực tập, sự kết hợp giữa trường đại học  
và trường phổ thông, những kỹ năng mềm  
(ngoài kỹ năng nghiệp vụ) của bản thân giáo  
sinh. Việc giải quyết những vấn đề trên càng  
trở nên cấp thiết trong bối cảnh đổi mới CTĐT  
theo hướng chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu xã  
hội của ĐHNN - ĐHQGHN.  
Ngoài bảng câu hỏi, nhóm nghiên cứu tiến  
hành phỏng vấn (semi-structured interview)  
với các bên liên quan để thu thập được những  
N.T. Lan/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 70-79  
74  
thông tin sâu hơn. Phỏng vấn được tiến hành  
với 3 giảng viên và 3 sinh viên. Những người  
tham gia phỏng vấn được lựa chọn dựa trên  
những thông tin họ cung cấp thêm ở phần 5  
của bảng hỏi. Mục đích của phỏng vấn để làm  
rõ hơn các ý kiến bổ sung được nêu ra. Mỗi  
cuộc phỏng vấn kéo dài 30 phút.  
tập sư phạm tại trường ĐHNN - ĐHQGHN.  
Với số liệu định tính, phương pháp mô tả-diễn  
dịch được sử dụng (interpretive-descriptive  
method) để xác định ý kiến đánh giá của các  
bên.  
4. Kết quả nghiên cứu và bàn luận  
3.2. Đối tượng khảo sát  
4.1. Thời lượng thực tập và thời điểm triển  
khai  
Nghiên cứu đã tiến hành khảo sát ý kiến  
của 30 giảng viên đang giảng dạy tại bộ môn  
Phương pháp giảng dạy của các khoa đào tạo  
trực thuộc nhà trường. Tiêu chuẩn lựa chọn là  
các giảng viên này đều có kinh nghiệm giảng  
dạy từ 05 năm trở lên và có kinh nghiệm hướng  
dẫn các đoàn thực tập sư phạm từ 03 năm trở  
lên. Ngoài ra, bảng hỏi cũng được phát đến  
100 sinh viên được lựa chọn ngẫu nhiên trong  
số 611 sinh viên tham gia các đoàn thực tập  
sư phạm của Nhà trường tại các trường phổ  
thông trên địa bàn thành phố Hà Nội.  
Khi được hỏi về thời lượng thực tập (6  
tuần) như được quy định trong Quy chế thực  
tập hiện nay, phần lớn các thầy cô yêu cầu thời  
lượng thực tập cần được tăng lên (53%). Bên  
cạnh đó, cũng có một số lượng tương đối giáo  
viên (27%) nhận định rằng thời gian thực tập  
cho sinh viên như hiện tại đã hợp lí, còn lại  
một phần nhỏ giáo viên không có ý kiến gì về  
sự phân bổ thời gian thực tập cho sinh viên  
theo như Quy chế hiện nay. Tuy nhiên, đối  
tượng sinh viên được hỏi lại cho ý kiến khác:  
đa số sinh viên cho rằng thời lượng thực tập  
như hiện nay là hợp lý (56%), chỉ hơn một  
phần ba cho rằng cần tăng thời lượng thực tập  
hơn nữa (32%).  
3.3. Phân tích số liệu  
Với số liệu định lượng, nghiên cứu sử  
dụng các giá trị trung bình (mean) và trung  
vị (median) của biến số để so sánh đánh giá  
của giáo viên và sinh viên về mô hình thực  
Hình 1. Thời lượng thực tập  
Sự khác nhau giữa hai đối tượng khảo sát việc làm nên thường muốn kỳ thực tập gọn  
có thể được lý giải như sau: khi được phỏng gàng và kết thúc nhanh chóng. Ngược lại, đối  
vấn, những sinh viên chọn phương án không tượng giáo viên khi được phỏng vấn lại cho  
cần tăng thời lượng thực tập cho biết sinh viên rằng cả một kỳ thực tập 6 tuần chưa đủ để sinh  
năm cuối thường rất bận rộn với việc hoàn viên trải nghiệm hết những tình huống dạy học  
thành luận văn tốt nghiệp và tìm kiếm cơ hội có thể xảy ra trong thực tế, chưa kể số lượng  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 70-79  
75  
sinh viên phân về một lớp học ở phổ thông  
thường tương đối lớn nên mỗi sinh viên chỉ có  
cơ hội dạy thực hành một vài tiết. Sinh viên có  
thể nhận được nhận xét chi tiết của giáo viên  
hướng dẫn nhưng thường không có cơ hội dạy  
lại để sửa sai. Nhận định này tương đồng với  
phát hiện của tác giả Nguyễn Thu Tuấn (2010)  
khi tác giả này cho rằng rèn luyện nghiệp vụ  
sư phạm chỉ chú trọng tập trung vào những  
năm cuối, trong khi để có năng lực nghiệp vụ  
sư phạm, sinh viên phải được rèn luyện ngay  
từ khi vào trường, nhưng hoạt động này lại  
rất ít được quan tâm ở thời gian đầu của hoạt  
động đào tạo.  
sẽ ra quân thực tập vào đầu học kỳ thứ 8 (đây  
cũng là học kỳ cuối trong CTĐT). Khi được  
hỏi xem liệu rằng thời điểm triển khai này đã  
hợp lí hay chưa, đa số các thầy cô cho rằng  
thời gian sinh viên bắt đầu khóa thực tập đã  
hợp lí hoặc khá hợp lý (64%); 20% giáo viên  
cho rằng thời điểm đi thực tập vẫn chưa hợp  
lí, cần được sắp xếp lại. Sinh viên có ý kiến  
ngược lại với giảng viên về vấn đề này: chỉ  
32% cho rằng thời điểm này đã hợp lý, nhưng  
37% muốn được thực tập sớm hơn và 21%  
muốn thời điểm triển khai thực tập sư phạm  
cần linh hoạt hơn, không nhất thiết phải vào  
học kỳ cuối cùng của CTĐT. Khi được hỏi  
thêm về việc liệu có nên thực tập sư phạm từ  
năm thứ nhất không, sinh viên lại khá e dè: chỉ  
38% đồng ý và phần lớn là phản đối (64%).  
Về vấn đề thời điểm triển khai công tác  
thực tập hiện nay, các đoàn thực tập sư phạm  
thường được thành lập vào cuối học kỳ 7 và  
Hình 2. Thời điểm thực tập  
Sở dĩ, giảng viên cho rằng thời lượng 6  
tuần thực tập là chưa đủ nhưng thời điểm thực  
tập vào năm cuối là hợp lý vì các thầy cô tin  
rằng khi sinh viên được trang bị đủ năng lực  
ngôn ngữ và trải qua đầy đủ các học phần về  
phương pháp giảng dạy, kiểm tra đánh giá thì  
việc thực tập mới thật sự hiệu quả. Ý kiến này  
đồng nhất với Cheng (2014) và Isarel, Kari  
và Lilach (2005) khi những tác giả này khẳng  
định một trong những yếu tố đảm bảo chất  
lượng của hoạt động thực tập sư phạm là sinh  
viên được trang bị về mặt lý thuyết để tự tin  
tham gia thực tập hơn. Từ góc nhìn của sinh  
viên, các em cho rằng học kỳ cuối sinh viên bị  
phân tán nhiều về việc tích lũy đủ số tín chỉ,  
hoàn thành luận văn để hoàn thành CTĐT, tìm  
kiếm cơ hội việc làm nên chương trình thực  
tập sư phạm không được dành thời gian đúng  
mức và mang tính hình thức. Rất nhiều sinh  
viên muốn được thực tập nhiều lần từ năm thứ  
hai và kết thúc ở học kỳ 7 (hay học kỳ 1 của  
năm cuối).  
4.2. Kĩ năng, kiến thức trước kỳ thực tập  
Về những kĩ năng, kiến thức cần được  
trang bị thêm cho sinh viên, đa số giáo viên  
chia sẻ rằng giao tiếp là kĩ năng quan trọng  
nhất mà nhà trường cần đẩy mạnh phát triển  
cho sinh viên (73%). Bên cạnh đó, kĩ năng tổ  
chức, lên kế hoạch công việc (53%) cũng như  
N.T. Lan/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 70-79  
76  
kĩ năng về chuyên môn (43%) cũng được xem  
như những hành trang quan trọng mà sinh viên  
cần chú trọng cải thiện và phát triển. Ngoài ra,  
khả năng làm việc theo nhóm cũng là một kĩ  
năng thiết yếu để giúp sinh viên có thể hoạt  
động, phát huy tài năng trong một môi trường  
tập thể (33%). Nguyễn Thu Tuấn (2010) cũng  
có phát hiện tương tự khi cho rằng sinh viên  
sư phạm còn tỏ ra nhút nhát, thụ động, giao  
tiếp kém, kĩ năng sống yếu và thiếu, chưa sáng  
tạo trong tiếp thu những kiến thức nghiệp vụ  
sư phạm, thiếu kĩ năng quan sát, kĩ năng biểu  
đạt ngôn ngữ.  
được Nhà trường chọn lọc để sinh viên được  
thực tập trong môi trường tốt nhất. Tuy nhiên,  
vẫn có một bộ phận tương đối nhiều cho rằng  
sinh viên nên chủ động tìm địa điểm thực tập  
cho mình (37%) để giảm áp lực tổ chức cho  
Nhà trường và có thể thuận lợi hơn cho sinh  
viên.  
Đánh giá về mức độ hỗ trợ và hiệu quả  
trong công tác hướng dẫn sinh viên của cơ sở  
tiếp nhận, chỉ 17% giảng viên đánh giá cao.  
Trong khi đó, 65% sinh viên thấy hài lòng với  
địa điểm thực tập và 49% cho rằng nội dung  
thực tập tại cơ sở tiếp nhận là rất thiết thực  
với công việc của các em sau này. Những trải  
nghiệm ngược nhau giữa giảng viên và sinh  
viên có thể do sự tiếp cận của hai đối tượng  
này với cơ sở thực tập là khác nhau. Nếu  
như sinh viên chỉ chủ yếu tiếp xúc với giáo  
viên hướng dẫn tại cơ sở tiếp nhận và nhận  
được phân công, hướng dẫn về mặt chuyên  
môn từ giáo viên, giảng viên phải tiếp cận  
nhà trường phổ thông ở cấp độ chính sách  
và quản lý. Chưa kể có thể còn tồn tại những  
hiểu lầm giữa đối tượng giảng viên đại học và  
giáo viên phổ thông. Như tác giả Nguyễn Thu  
Tuấn (2010) đã đề cập, có tới 90% giảng viên  
các trường sư phạm hầu như chưa tham gia  
dạy học tại các trường phổ thông nên họ thiếu  
kinh nghiệm thực tế phổ thông, không nắm  
vững môi trường sư phạm ở trường phổ thông  
và những đổi mới giáo dục phổ thông, do vậy  
kiến thức kĩ năng để trang bị cho sinh viên  
chưa tương ứng và các trường sư phạm chưa  
thực sự gắn kết chặt chẽ thường xuyên với các  
trường phổ thông; các trường phổ thông chưa  
coi nhiệm vụ hướng dẫn, giúp đỡ giáo sinh là  
nhiệm vụ bắt buộc của mình.  
Sinh viên cũng có ý kiến tương tự về vấn  
đề trên, các em tự nhận thấy nhóm kỹ năng  
mềm của mình chưa tốt khi thực hiện giao  
tiếp tại môi trường công việc thực tế (32%).  
Hamaidi (2014) đã chỉ ra hiện tượng tương  
tự khi cho rằng giáo sinh gặp nhiều khó khăn  
trong giao tiếp với đồng nghiệp tại cơ sở thực  
tập. Từ đó, Hamaidi (2014) đưa ra đề xuất tổ  
chức những buổi tập huấn trước mỗi kỳ thực  
tập để giảng viên của trường đại học sư phạm,  
giáo viên hướng dẫn tại trường phổ thông,  
giáo sinh thực tập gặp nhau, phân rõ trách  
nhiệm và mong đợi của mỗi phía. Trong khi  
sinh viên thấy khá hài lòng với những kiến  
thức thu nhận được từ những môn liên quan  
đến phương pháp giảng dạy (11% cho rằng  
cần phải được bổ sung thêm) thì một số sinh  
viên thấy cần phải được tăng cường thêm  
những kiến thức nền tảng về trường phổ thông  
và hệ thống giáo dục quốc dân (29%). Điều  
này được Nguyễn Thành Thi (2010) giải thích  
là do “chương trình, các quy cách dạy học các  
môn Giáo dục học, Tâm lý học còn nặng sách  
vở, kinh viện”.  
4.3. Về cơ sở tiếp nhận thực tập  
4.4. Về thủ tục hành chính  
Về việc tìm cơ sở tiếp nhận thực tập, khi  
được hỏi liệu rằng sinh viên nên chủ động tìm  
địa điểm thực tập cho mình hay nên theo sự  
phân công sắp xếp các đoàn thực tập của Nhà  
trường, phần lớn giảng viên cho rằng sinh  
viên nên tiếp nhận cơ sở thực tập theo sự phân  
công của Nhà trường (60%). Giảng viên muốn  
đảm bảo rằng những cơ sở thực tập này đã  
Các thủ tục hành chính liên quan đến công  
tác thực tập bao gồm: việc đăng ký thực tập  
tại các đoàn theo thông báo của Nhà trường,  
hướng dẫn về thủ tục trước khi đi thực tập và  
hướng dẫn về việc hoàn thành báo cáo, nộp  
phiếu chấm điểm sau khi đi thực tập về. Khi  
được hỏi về những đánh giá của thầy cô về các  
quy trình thực tập, văn bản phục vụ công tác  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 70-79  
77  
thực tập, 33% số giáo viên cảm thấy khá hài  
lòng, 20% số thầy cô cảm thấy bình thường,  
17% cảm thấy hài lòng và 30% không hài lòng  
về những quy trình, văn bản trên. Tương tự,  
đa số sinh viên (75%) hài lòng hoặc khá hài  
lòng với quy trình hướng dẫn thực tập, văn  
bản phục vụ công tác thực tập của Nhà trường.  
Những ý kiến phàn nàn nhiều nhất liên quan  
đến việc chưa tiếp cận được văn bản hướng  
dẫn (Quy chế thực tập) trước khi đi thực tập.  
Các em mong muốn được hướng dẫn cụ thể  
hơn về những giấy tờ cần phải chuẩn bị để  
mang đến cơ sở thực tập và những giấy tờ cần  
phải nộp khi đã hoàn thành đợt thực tập và  
quay về trường đại học.  
Hình 3. Thủ tục hành chính  
Kết quả này ngược lại với những nhận  
định của Ralph (2007) về những khó khăn của  
giáo sinh khi điều tra 431 giáo sinh thực tập  
tại các trường phổ thông của Canada về hiệu  
quả của hoạt động thực tập. Những khó khăn  
mà giáo sinh Canada gặp phải gồm có: (a) giải  
quyết tình huống sư phạm, (b) mối quan hệ  
đồng nghiệp tại cơ sở thực tập, (c) chính sách  
của trường đại học với hoạt động thực tập, (d)  
thủ tục giấy tờ cồng kềnh.  
kiếm việc làm. Điều này dẫn đến vấn đề thời  
điểm bắt đầu thực tập hợp lý là khi nào; đa số  
các thầy cô cho rằng thời gian sinh viên nên  
bắt đầu thực tập vào học kỳ cuối khi đã đủ  
năng lực ngoại ngữ và sư phạm; sinh viên có  
ý kiến ngược lại khi muốn được thực tập sớm  
hơn và thời điểm linh hoạt hơn, không nhất  
thiết phải vào học kỳ cuối cùng của CTĐT.  
Về những kĩ năng, kiến thức cần được trang  
bị thêm cho sinh viên, giảng viên và sinh viên  
đều đồng ý rằng CTĐT cần bổ sung thêm kỹ  
năng mềm cho sinh viên, đặc biệt là kỹ năng  
giao tiếp, tổ chức, lên kế hoạch công việc.  
Về cơ sở tiếp nhận thực tập, phần lớn giảng  
viên và sinh viên tin tưởng vào sự phân công  
và lựa chọn cơ sở tiếp nhận của Nhà trường.  
Đánh giá về mức độ hỗ trợ và hiệu quả trong  
công tác hướng dẫn sinh viên của cơ sở tiếp  
nhận, chỉ 17% giảng viên đánh giá cao. Điều  
này khiến chúng ta phải suy nghĩ về việc tăng  
cường gắn kết chặt chẽ thường xuyên giữa các  
trường đại học với các trường phổ thông, giúp  
các trường phổ thông nhận thức được rằng  
hướng dẫn, giúp đỡ giáo sinh là nhiệm vụ bắt  
buộc và cũng là cách chuẩn bị nguồn nhân lực  
chất lượng cao cho mình trong tương lai gần.  
5. Kết luận  
Để đánh giá sự phù hợp của mô hình thực  
tập sư phạm hiện thời tại ĐHNN - ĐHQGHN,  
nghiên cứu đã làm khảo sát với 30 giảng viên  
và 100 sinh viên đã tham gia thực tập. Kết quả  
ban đầu cho thấy, về thời lượng thực tập và  
thời điểm triển khai, phần lớn giảng viên yêu  
cầu thời lượng thực tập cần được tăng lên vì  
06 tuần không đủ để sinh viên thực hành và  
rút kinh nghiệm. Tuy nhiên, đa số sinh viên  
cho rằng thời lượng thực tập như hiện nay  
là hợp lý trong học kỳ cuối cùng của CTĐT  
khi các em phải chịu sức ép học đủ số tín chỉ  
còn lại, hoàn thành luận văn và bắt đầu tìm  
N.T. Lan/ Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 70-79  
78  
approach to teaching. Journal of Teacher Education,  
44(5), 361–369.  
Về thủ tục hành chính, phần lớn cả giảng viên  
và sinh viên hài lòng với quy trình hướng dẫn  
thực tập, văn bản phục vụ công tác thực tập  
của Nhà trường.  
Danielewicz, J. (2001). Teaching selves: Identity,  
pedagogy, and teacher education. Albany, NY:  
State University of New York Press.  
Những phát hiện ban đầu của nghiên cứu  
này hy vọng sẽ đưa ra những gợi ý cho việc  
điều chỉnh hoạt động thực tập sư phạm tại  
ĐHNN - ĐHQGHN nhằm nâng cao hơn nữa  
hiệu quả của hoạt động đào tạo rất quan trọng  
và có ý nghĩa này.  
Darling-Hammond, L. (2006). Powerful teacher  
education: lesson for exemplary programs. San  
Francisco: Jossey-Bass.  
Doyle, M. (1997). Beyond life history as a student:  
pre-service teachers’ beliefs about teaching and  
learning. College Student Journal, 31, 519–532.  
Feiman-Nemser, S. (1996). Teacher mentoring: a critical  
ericdigests.org/1997-1/mentoring.html.  
Tài liệu tham khảo  
Tiếng Việt  
Grossman, P., Compton, C., Igra, D., Ronfeldt, M.,  
Shahan, E., & Williamson, P. (2009). Teaching  
practice: a cross-professional perspective. Teachers  
College Record, 111(9), 2055–2100.  
Đinh Quang Báo (2011). Các giải pháp nâng cao năng  
lực của hệ thống cơ sở đào tạo giáo viên. Đặc san  
Khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, 56(8),  
tr. 9-18.  
Hanson, D., & Harrington, M. (1976). From college to  
classroom. London: Routledge and Kegan Paul Ltd.  
Howitt, C. (2007). Pre-service elementary teachers’  
perceptions of factors in an holistic methods course  
influencing their confidence in teaching science.  
Research in Science Education, 37(1), 41–58.  
Trương Thị Bích (2011). Về sự gắn kết giữa trường đại  
học sư phạm với trường phổ thông trong đào tạo  
và bồi dưỡng giáo viên. Tạp chí Giáo dục, 248(1),  
tr. 29-31.  
Phạm Văn Chín (2010). Thực trạng và một số biện pháp  
nhằm nâng cao chất lượng nghiệp vụ sư phạm cho  
sinh viên trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Kỉ yếu  
hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội  
(tr. 53). Hà Nội: Đại học Sư phạm Hà Nội.  
Hudson, P. (2005). Identifying mentoring practices for  
developing effective primary science teaching.  
International Journal of Science Education, 27(14),  
1723–1739.  
Likert, R. (1932). A technique for the measurement of  
Biền Văn Minh (2010). Thực trạng và giải pháp đào tạo  
nghiệp vụ sư phạm ở các trường đại học sư phạm  
hiện nay trong xu thế hội nhập toàn cầu hóa. Kỉ yếu  
hội thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội  
(tr. 36-40). Hà Nội: Đại học Sư phạm Hà Nội.  
attitudes. Archives of Psychology, 140, 1–55.  
Loughran, J., Mulhall, P., & Berry, A. (2008). Exploring  
pedagogical content knowledge in science teacher  
education. International Journal of Science  
Education, 30(10), 1310–1320.  
Trần Quốc Tuấn (2010). Rèn luyện kỹ năng dạy học cho  
sinh viên sư phạm ở các trường đại học nước ta –  
Thực trạng, định hướng và giải pháp. Kỉ yếu hội  
thảo khoa học Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (tr.  
59-65). Hà Nội: Đại học Sư phạm Hà Nội.  
Plake, B. S. (1993). Teacher assessment literacy:  
teachers’ competencies in the educational  
assessment of students. Mid-Western Educational  
Researcher, 6(1), 21–27.  
Nguyễn Thu Tuấn (2010). Một số giải pháp nhằm nâng  
cao chất lượng đào tạo nghiệp vụ cho sinh viên các  
trường đại học sư phạm. Kỉ yếu hội thảo khoa học  
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (tr. 121-125). Hà  
Nội: Đại học Sư phạm Hà Nội.  
Richardson-Koehler, V. (1988). Barriers to the effective  
supervision of student teaching: A field study.  
Journal of Teacher Education, 39(2), 28–34.  
Rodgers, A., & Keil, V. L. (2007). Restructuring a  
traditional student teacher supervision model:  
fostering enhanced professional development  
and mentoring within a professional development  
school context. Teaching and Teacher Education,  
23(1), 63–80.  
Nguyễn Thành Thi (2010). Từ “học” đến “hành” và  
“Tập” - Khoảng cách cần phải rút ngắn trong đào  
tạo giáo viên. Kỉ yếu hội thảo khoa học Trường Đại  
học Sư phạm Hà Nội (tr. 260-263). Hà Nội: Đại học  
Sư phạm Hà Nội.  
Sanford, J. P., Emmer, E. T., & Clements, B. S. (1983).  
Improving classroom management, Educational  
Leadership, 40(7). 56–60.  
Tiếng Anh  
Cheung, H. (2006). The Measurement of teacher  
efficacy: Hong Kong primary in-service teachers.  
Journal of Education for Teaching, 32(4), 435–451.  
Smith, K., & Lev-Ari. L. (2005). The place of the  
practicum in pre-service teacher education: the  
voice of the students. Asia-Pacific Journal of  
Teacher Education, 33(3), 289–302.  
Casey, M. B. & Howson, P. (1993). Educating pre-  
service students based on a problem-centered  
Tạp chí Nghiên cꢀu Nưꢁc ngoꢂi, Tꢃp 35, Sꢄ 2 (2019) 70-79  
79  
Stiggins, R. J. (1999). Evaluating classroom assessment  
training in teacher education programs, Educational  
Measurement: Issues and Practice, 18(1). 23–27.  
Zeichner, K. (2010). Rethinking the connections  
between campus courses and field experiences in  
college and university-based teacher education,  
Journal of Teacher Education, 89(11), 89–99.  
Tang, S. Y. F. (2003). Challenge and support: the  
dynamics of student teachers’ professional learning  
in the field experience initial teacher education,  
Teaching and Teacher Education, 19(5).  
TEACHING PRACTICUM ACTIVITIES AT THE  
UNIVERSITY OF LANGUAGES AND INTERNATIONAL  
STUDIES - VIETNAM NATIONAL UNIVERSITY, HANOI  
FROM THE TEACHERS’ AND STUDENTS’ PERSPECTIVES  
Nguyen Thuy Lan  
Academic Affairs Department, VNU University of Languages and International Studies,  
Pham Van Dong, Cau Giay, Hanoi, Vietnam  
Abstract: Practicum is always an important and indispensable component in a training  
program in general and a foreign language teacher education program in particular. Through this  
activity, students will be able to put their acquired knowledge into practice, thereby shortening  
the gap of “apprenticeship” of young graduates. To assess the appropriateness of the current  
teaching practicum at the University of Languages and International Studies - Vietnam National  
University, Hanoi (ULIS-VNU), the study has conducted a survey with 30 teachers and 100  
students. The initial results show that in terms of practicum duration and implementation time,  
most teachers required that the duration should be increased because 06 weeks was not enough for  
students to practice and learn from experience. However, most students believed that the current  
internship was reasonable in the final semester of the training program. Concerning the time of  
starting the internship, the majority of teachers said that students should start their internship in  
the last semester when they had sufficient foreign language skills and pedagogical skills; students  
conversely preferred to practice earlier. In terms of skills and knowledge that need to be equipped  
for students, all participants agreed that the training of soft skills should be added. In terms of the  
highschools that receive student teachers, most participants believed that those should be selected  
by the university; however, the schools’ level of support and effectiveness in guiding students  
were not highly appreciated. The initial findings of this study may serve as suggestions for the  
continous revision and improved facilitation of the teaching practicum activities at ULIS-VNU to  
achieve the goals of training prospective student-teachers.  
Keywords: practicum activities, training program, foreign language education program  
pdf 10 trang yennguyen 16/04/2022 3220
Bạn đang xem tài liệu "Công tác thực tập sư phạm tại trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội từ góc nhìn của giảng viên và sinh viên", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfcong_tac_thuc_tap_su_pham_tai_truong_dai_hoc_ngoai_ngu_dai_h.pdf