Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam

JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077  
Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu  
Gracilaria verrucosa Việt Nam  
Extraction and Characterization of Galactan from Seaweed Gracilaria Verrucosa of Vietnam  
Nguyễn Thu Hà1, Nguyễn Thị Thu Trang1, Toshiaki Ougizawa2, Nguyễn Ngọc Tuệ1*  
1Trường Đại học Bách khoa Hà Nội, Hà Nội, Việt Nam  
2Viện Công nghệ Tokyo, Nhật Bản  
*Email: tue.nguyenngoc@hust.edu.vn  
Tóm tắt  
Trong công trình này, chúng tôi nghiên cứu tách galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam và khảo  
sát những tính chất đặc trưng của nó. Rau câu được ngâm trong nước ở các nhiệt độ khác nhau để thu  
được dung dịch chứa galactan, sau đó đông tụ dung dịch và tinh chế để thu galactan ở dạng bột. Các  
phương pháp Kjeldahl, phổ hồng ngoại, xác định độ nhớt đặc trưng và đo nhiệt quét vi sai (DSC) được thực  
hiện để nghiên cứu đặc trưng cấu trúc và tính chất của sản phẩm. Kết quả cho thấy mẫu galactan thu được  
có cấu trúc agar, không chứa nhóm thế sunfat. Mẫu tách trong nước ở 40 oC có hàm lượng protein cao hơn,  
độ nhớt và độ bền nhiệt đều cao hơn so với mẫu tách trong nước ở 100 oC.  
Từ khóa: Gracilaria verrucosa, galactan, đặc trưng cấu trúc, cấu trúc, độ nhớt đặc trưng, DSC  
Abstract  
In this study, we extracted galactan from seaweed Gracilaria verrucosa of Vietnam and investigated its  
structure and properties. The seaweed was immersed in water in different temperatures to obtain a solution  
of galactan. Thereafter, the solution was coagulated and purified to obtain galactan as a powder. Kjeldahl  
method, infrared spectroscopy, viscosity determination and differential scanning calorimetry (DSC) were  
used to characterize structure and properties of the resulting material. It was found that the obtained  
galactan had agar structure without sulfate as a substitute group. Proteins content, intrinsic viscosity and  
thermal resistance of the galactan extracted in water at 40 oC were higher than those of the galactan  
extracted in water at 100 oC.  
Keywords: Gracilaria verrucosa, galactan, structural characterization, intrinsic viscosity, DSC  
1. Giới thiệu*  
Thông thường, các mạch galactan này được tạo thành  
do sự lặp lại của G-DG hoặc G-LG. Nếu chuỗi  
galactan gồm các đơn vị G-DG thì được gọi là cấu  
trúc cacrageenan, nếu gồm các đơn vị G-LG thì được  
gọi là cấu trúc agar. Đôi khi, các mắt xích DG và LG  
có thể tồn tại ở dạng anhidrit tương ứng là 3,6-  
anhydro-α-D-galactopyranozơ (DA) và 3,6-anhydro-  
α-L-galactopyranozơ (LA). Thí dụ, các cấu trúc có  
thể có của agar được trình bày trên hình 1. Một đặc  
điểm quan trọng trong cấu trúc galactan tách từ  
Rhodophyta nói chung và G. verrucosa nói riêng là  
sự tồn tại của các các nhóm thế sắp xếp ngẫu nhiên  
trên mạch galactan. Nguyên tử H trong các nhóm OH  
của vòng galactopyranozơ thường bị thay thế bởi các  
nhóm như metyl, sulfat, pyruvat… Tuỳ thuộc điều  
kiện tự nhiên như thời điểm thu hoạch, thời tiết, nhiệt  
độ, thổ nhưỡng, rau câu sẽ cho galactan với số nhóm  
thế trong mỗi vòng galactopyranozơ rất khác biệt.  
Các nhóm thế này quyết định các đặc tính hoá lý  
cũng như chất lượng của galactan.  
Rau câu chỉ vàng là một loại rong phổ biến ở bờ  
biển Việt Nam, có tên khoa học là Gracilaria  
verrucosa (G. verrucosa), thuộc ngành rong đỏ  
Rhodophyta [1,2]. Từ lâu, loại rau câu này đã được  
người dân dùng làm thức ăn. Nhiều món ăn quen  
thuộc được chế biến từ rau câu như nộm, thạch hoặc  
canh. Theo các tài liệu đã công bố, trong G.  
verrucosa chứa các galactan tan tốt trong nước tạo  
thành gel [3,4]. Loại galactan này có thể dùng làm  
chất tạo đông trong thực phẩm hoặc trong các ngành  
kĩ thuật, dùng chế tạo thạch agar làm môi trường nuôi  
cấy vi khuẩn, chế thuốc nhuận tràng, làm chất nhũ  
hóa…  
Cấu trúc của galactan tách từ Rhodophyta cũng  
được công bố rộng rãi trong nhiểu công trình nghiên  
cứu [5-8]. Các loại mắt xích thường thấy trong các  
chuỗi galactan này là ß-D-galactopyranozơ (G), α-D-  
galactopyranozơ (DG) và α-L-galactopyranozơ (LG).  
Các nghiên cứu về cấu trúc, tính chất của  
galactan tách từ G. verrucosa đã được tiến hành khắp  
nơi trên thế giới. Tuy nhiên như đã biết, tính chất và  
cấu trúc của loại galactan này tách phụ thuộc rất lớn  
vào điều kiện sinh trưởng của cây. Ở Việt Nam, các  
ISSN 2734-9381  
Received: February 14, 2020; accepted: August 01, 2020  
73  
 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077  
nghiên cứu về loài rau câu chỉ vàng chủ yếu nhằm  
trong 2 giờ, sau đó lọc, thu được dung dịch 2. Đổ từ  
từ dung dịch 2 vào axeton (lấy dư), lọc thu được chất  
rắn đông tụ 1. Hoà tan chất rắn này trong nước cất để  
thu được dung dịch, tiếp tục đông tụ dung dịch bằng  
axeton, thu được chất rắn đông tụ 2. Lặp lại quá trình  
này hai lần để làm sạch các tạp chất trong mẫu. Cuối  
cùng rửa chất rắn đông tụ 2 bằng axeton, sau đó cho  
vào cối sứ, rót thêm dietyl ete và nghiền mịn, thu  
được galactan. Sản phẩm dạng bột được làm khô ở 50  
oC trong 1 tuần. Quy trình này được trình bày trong  
hình 1. Sản phẩm thu được bằng cách đun rau câu ở  
phân loại, tìm hiểu ứng dụng của nó trong thực phẩm,  
thuốc chữa bệnh [1,9]. Trong công trình này, chúng  
tôi tiến hành chiết tách galactan bằng cách ngâm rau  
câu trong nước nóng ở các nhiệt độ khác nhau. Sau  
đó chúng tôi thực hiện quy trình tinh chế để xác định  
rõ cấu trúc và tính chất của sản phẩm. Thành phần,  
cấu trúc của galactan được xác định thông qua  
phương pháp xác định hàm lượng nitơ và phổ hồng  
ngoại FT-IR. Đặc tính nhớt và tính chất nhiệt của  
galactan được xác định thông qua phương pháp đo độ  
nhớt và nhiệt quét vi sai (DSC). Nghiên cứu này  
nhằm khảo sát những đặc điểm về cấu trúc và một số  
tính chất của galactan tách từ G. verrucosa, từ đó góp  
phần nâng cao giá trị của loại rau câu phổ biến này.  
o
o
40 C và ở 100 C được kí hiệu lần lượt là G40 và  
G100. Các mẫu được bảo quản trong bình hút ẩm.  
CH2OR  
H
RO  
O
O
CH2OR  
H
O
H
H
H
O
H
H
H
OR  
H
H
OH  
OR  
Đơn vị DG – LG  
H
CH2OR  
H
O
O
RO  
H
O
H
O
H
H
H
OR  
H
H
OH  
H
CH2  
O
Đơn vị DG - LA  
Hình 1. Các đơn vị trong cấu trúc agar (R có thể là H,  
hoặc các nhóm thế như metyl, sunfat, pyruvat).  
2. Thực nghiệm  
2.1. Nguyên liệu và hoá chất  
Hình 2. Quy trình tách galactan từ rau câu.  
Rau câu chỉ vàng G. verrucosa được thu hoạch  
vào tháng 5 và tháng 6 tại bờ biển tỉnh Nam Định –  
Việt Nam. Rau câu thu hoạch xong được rửa sạch đất  
cát, ngâm trong dung dịch NaOH 10% trong 8 giờ để  
tẩy trắng. Sau đó, rau câu được lấy ra rửa sạch đến  
khi nước rửa trung tính, phơi khô dưới ánh sáng mặt  
trời trong 24 giờ.  
2.3. Nghiên cứu đặc trưng cấu trúc và tính chất  
Phổ hồng ngoại (FT-IR) của G40 và G100 được  
đo trên máy phổ Jasco FT/IR 480 Plus theo kĩ thuật  
ATR. Mẫu được trộn đều với bột KBr, sau đó ép  
viên. Quá trình đo được thực hiện ở nhiệt độ phòng,  
số vòng quét 64, tần số quét từ 400 đến 4000 cm-1.  
Các hoá chất dùng trong nghiên cứu bao gồm:  
NaOH (99,9%), axeton (99,5%), dietyl ete (99,5%),  
than hoạt tính (99,9%) là sản phẩm của Nacalai  
Tesque (Nhật Bản). K2SO4 (99,9%), CuSO4 (99,9%),  
H2SO4 (98%) và thuốc thử Nessler là hoá chất của  
Merck (Đức). Các hoá chất sử dụng không cần tinh  
chế lại.  
Hàm lượng niơ trong mẫu được xác định bằng  
phương pháp Kjeldahl theo TCVN 9937 : 2013  
(tương đương với ISO 5378 : 1978). Lấy khoảng  
0,5 gam galactan và 0,75 gam xúc tác (gồm (K2SO4  
và CuSO4 với tỉ lệ 97:3 theo khối lượng), trộn đều rồi  
cho vào bình hình quả lê. Cho 20 ml dung dịch  
H2SO4 98% vào bình, đun trong 2 giờ để đảm bảo vô  
cơ hoá hoàn toàn mẫu, nitơ trong mẫu chuyển thành  
dạng (NH4)2SO4. Thêm dung dịch NaOH 40% vào  
hỗn hợp sau phản ứng và chưng cất, NH3 sinh ra được  
thu vào bình hứng chứa 25 ml dung dịch axit sunfuric  
0,1N. Lấy V ml dung dịch thu được, thêm nước cất  
và 1,0 ml thuốc thử Nessler để thể tích dung dịch là  
50 ml. Đo mật độ quang của dung dịch này trên máy  
quang phổ V-7200 UV-VIS-NIR tại bước sóng 430  
2.2. Quy trình tách galactan từ rau câu  
Chúng tôi thử nghiệm tách galactan trong rau  
câu G. verrucosa theo hai quy trình: tách ở 40oC và ở  
100oC. Trước hết, rau câu được xay nhỏ mịn, ngâm  
trong nước cất 8 giờ, sau đó đun nóng (ở 40oC hoặc ở  
100oC) trong 30 phút. Lọc bỏ xác rau câu, thu được  
dung dịch 1. Thêm than hoạt tính vào dung dịch 1, lắc  
74  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077  
nm. Nồng độ nitơ trong mẫu được xác định dựa vào  
Bảng 1. Hàm lượng nitơ có trong các mẫu.  
Tên mẫu Hàm lượng nitơ (% khối lượng)  
G40  
đường chuẩn nồng độ amoni sunfat mật độ quang  
được xây dựng từ trước. Tiến hành thí nghiệm tương  
tự với mẫu trắng là đường saccarozơ. Hàm lượng nitơ  
tổng (% khối lượng) trong mẫu được tính theo công  
thức:  
0,88  
0,21  
G100  
m m  
1
1
2
3.2. Cấu trúc galactan  
N % =  
×
(1)  
(
)
V
50mo  
Để xác định rõ hơn thành phần và cấu trúc của  
các mẫu G40 và G100, chúng tôi phân tích phổ FT-IR  
của chúng. Phổ FT-IR của mẫu G40 và G100 được  
trình bày trong hình 3. Có thể nhận thấy phổ của G40  
và G100 tương đối giống nhau. Trên các phổ này đều  
xuất hiện một dải tín hiệu rộng trong khoảng từ 3600  
đến 2800 cm-1. Dải tín hiệu này có thể quy kết cho  
dao động kéo dãn của liên kết O-H. Đây là tín hiệu  
quen thuộc xuất hiện trong phổ của các galactan. Bên  
cạnh đó, trong các phổ đều xuất hiện vân hấp thụ tại  
1083 cm-1, 1056 cm-1 và 987 cm-1. Theo các tài liệu  
tham khảo [6,11], các tín hiệu này lần lượt được quy  
kết cho dao động kéo dãn của liên kết C-O, liên kết  
C-C và nhóm C-O-C trong vòng 3,6-anhydro-α-L-  
galactopyranose. Thêm vào đó, trên phổ FT-IR của  
G40 và G100 xuất hiện tín hiệu tại 868 cm-1 và  
779 cm-1. Đây là tín hiệu đặc trưng của cấu trúc agar  
[7]. Như vậy, có thể kết luận rằng galactan đã được  
chiết tách thành công từ G. verrucosa và cấu trúc của  
chúng chủ yếu là agar.  
Trong đó: V là thể tích của phần dung dịch  
chưng cất được (ml), mo là khối lượng galactan đã  
dùng (g); m1 là khối lượng nitơ trong V ml dung dịch  
chưng cất từ mẫu thử đã phân hủy; m2 là khối lượng  
nitơ trong V ml dung dịch chưng cất từ mẫu trắng.  
Giá trị m1 m2 đều xác định được từ đường chuẩn,  
tính bằng microgram (µg). Mỗi phép đo được lặp lại  
3 lần với một mẫu và lấy kết quả trung bình.  
Độ nhớt của mẫu được đo bằng nhớt kế  
Ubbelohde ở 25oC. Galactan được pha trong nước cất  
với các nồng độ khác nhau. Các dung dịch được lần  
lượt cho vào nhớt kế, đo thời gian chảy của chất lỏng  
giữa hai vạch cố định trên nhớt kế. Độ nhớt riêng của  
mẫu galactan được tính theo công thức:  
t to  
to  
η =  
(2)  
Trong đó: t là thời gian chảy của dung dịch  
galactan (s), to là thời gian chảy của nước cất (s). Mỗi  
phép đo được lặp lại 3 lần với một mẫu và lấy kết quả  
η
trung bình. Vẽ đồ thị  
= f C , ngoại suy đến giá  
( )  
C
trị C = 0 sẽ thu được giá trị độ nhớt đặc trưng của  
mẫu.  
Nhiệt quét vi sai (DSC) được đo trên máy DSC  
7020 (SII NanoTechnology Inc.). Mẫu được nén  
trong chén nhôm tiêu chuẩn và hàn kín. Phép đo được  
tiến hành từ nhiệt độ phòng tới 250oC, tốc độ gia  
nhiệt là 10oC/phút.  
3. Kết quả và thảo luận  
3.1. Hàm lượng nitơ trong mẫu  
Bảng 1 trình bày kết quả xác định hàm lượng  
nitơ tổng có trong các mẫu. Kết quả khảo sát cho thấy  
mẫu galactan chiết ở nhiệt độ thấp (mẫu G40) có hàm  
lượng nitơ cao gấp hơn 4 lần mẫu chiết ở nhiệt độ cao  
(mẫu G100). Hàm lượng nitơ tỉ lệ thuận với hàm  
lượng protein, từ đó có thể suy ra mẫu G40 có hàm  
lượng protein cao hơn G100. Điều này có thể giải  
thích là do ở nhiệt độ cao, protein trong rau câu đã  
phân huỷ một phần, nên galactan tách từ rau câu sẽ có  
hàm lượng protein thấp. Protein trong rau câu thường  
đóng vai trò quan trọng, thí dụ là chất chống oxy hoá  
[10]. Như vậy, từ kết quả thí nghiệm có thể suy ra  
rằng việc đun sôi rau câu trong nước làm giảm đáng  
kể giá trị của galactan.  
Hình 3. Phổ FT-IR của mẫu (a) G100, (b) G40.  
75  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077  
Điểm khác biệt quan trọng trong phổ FT-IR của  
vậy, độ nhớt rút gọn của G40 cao gấp hơn 2 lần so  
với G100.  
G40 và G100 là: trên phổ của G40 xuất hiện hai đỉnh  
peak ở 1643 và 1420 cm-1, trong khi đó trên phổ của  
G100 hầu như không thấy tín hiệu này. Theo tài liệu  
đã công bố, những tín hiệu này có thể quy kết cho dao  
động của các nhóm amin bậc I và bậc II trong protein  
[11]. Điều này chứng tỏ sự tồn tại của protein trong  
G40, phù hợp với kết quả thu được trong phần xác  
định hàm lượng nitơ.  
Theo các nghiên cứu đã công bố, trong dung  
dịch nước, các mạch galactan cuộn lại, thể tích các  
cuộn này càng lớn thì độ nhớt của dung dịch càng cao  
[5]. Như vậy, từ kết quả về độ nhớt ta suy ra rằng các  
cuộn polysacarit trong dung dịch G40 có thể tích lớn  
hơn so với dung dịch G100. Đặc tính này có thể liên  
quan đến thành phần protein có trong G40. Khi có  
protein, các cuộn galactan có thể mang điện tích  
(thường là điện tích âm). Do các điện tích đẩy nhau  
dẫn đến thể tích cuộn galactan tăng lên so với cuộn  
không mang điện tích. Đặc tính nhớt của dung dịch  
cũng liên quan đến khả năng tạo gel của các sản  
phẩm này. Có thể suy ra rằng, G40 dễ dàng tạo gel  
hơn G100.  
Tính chất nhiệt là một đặc tính quan trọng, quyết  
định phạm vi ứng dụng của của loại galactan này.  
Chúng tôi nghiên cứu tính chất nhiệt của G40 và  
G100 thông qua giản đồ DSC, được thể hiện trên hình  
5.  
3.4. Tính chất nhiệt của galactan  
Hình 4. Đồ thị biểu diễn mối liên hệ giữa độ nhớt rút  
gọn và nồng độ của dung dịch. : G100, : G40.  
Có thể nhận thấy sự khác biệt tương đối rõ rệt  
giữa tính chất nhiệt của G100 và G40. Trên đường  
DSC của G100 chỉ thấy một peak gây ra bởi quá trình  
Trong phổ của cả G40 và G100, các tín hiệu đặc  
trưng của nhóm thế sunfat và nhóm thế pyruvic hoàn  
toàn không xuất hiện. Như vậy, agar tách từ rau câu  
theo phương pháp này có cấu trúc mắt xích tương đối  
đồng đều, không chứa có nhiều nhóm thế phức tạp.  
Trong công trình đã công bố, Sekkal và cộng sự đã  
dùng quy trình tương tự như trong bài báo này để tách  
galactan từ G. verrucosa thu hoạch tại Pháp. Kết quả  
từ phổ FT-IR cho thấy sản phẩm galactan đó có cấu  
trúc phức tạp, hàm lượng nhóm sunfat rất cao. Trong  
khi đó, các mẫu galactan do chúng tôi tách G.  
verrucosa của Việt Nam hầu như không chứa nhóm  
sunfat, do đó khả năng tạo gel sẽ rất cao [13].  
o
toả nhiệt tại 198,8 C. Có thể suy ra rằng quá trình  
này là phản ứng phân huỷ bởi nhiệt của G100. Trên  
đường DSC của G40, chúng tôi nhận thấy 2 tín hiệu.  
Tín hiệu thứ nhất gây ra do quá trình thu nhiệt, xảy ra  
o
tại nhiệt độ 122,5 C; tín hiệu thứ hai gây ra do quá  
o
trình toả nhiệt, có đỉnh peak tại 223,2 C. Dựa vào  
đặc điểm thành phần, cấu trúc của G40, có thể kết  
luận rằng tín hiệu thứ nhất tại 122,5 oC tương ứng với  
sự chuyển pha của protein trong G40. Tín hiệu thứ  
hai có đỉnh peak tại 223,2oC được quy kết cho quá  
trình phân huỷ của mẫu G40. Điều đáng chú ý là  
nhiệt độ phân huỷ của G40 cao hơn hẳn so với G100.  
Có thể thấy rằng do sự khác biệt trong cấu trúc của  
G40 (trong thành phần có hàm lượng protein tương  
đối cao) đã làm cho độ bền nhiệt của G40 cao hơn  
hẳn so với G100.  
3.3. Độ nhớt của dung dịch galactan  
Đồ thị biểu diễn liên hệ giữa độ nhớt rút gọn  
η
(đại lượng  
)
và nồng độ của các dung dịch galactan  
C
được biểu diễn trên hình 4. Đối với mẫu G40, mối  
liên hệ này có sự phù hợp khá tốt với phương trình:  
η
= 25847C + 79,756 (R2 = 0,9885)  
(3)  
C
Trong khi đó, mối liên hệ giữa độ nhớt rút gọn  
và nồng độ của dung dịch G100 phù hợp khá tốt với  
phương trình trình:  
η
=14422C +38,303 (R2 = 0, 0,9897)  
(4)  
C
Từ các đồ thị này, suy ra độ nhớt rút gọn của  
G40 và G100 lần lượt là 79,756 và 38,303 (L/g). Như  
Hình 5. Giản đồ DSC của (a) G100 và (b) G40.  
76  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 073-077  
[6] M. Lahaye, C. Rochas, Chemical structure and  
4. Kết luận  
Chúng tôi đã thu được galactan từ rau câu  
physico-chemical properties of agar, Hydrobiologia  
221 (1991) 137-148.  
G. verrucosa mọc tại bờ biển miền bắc Việt Nam  
bằng cách chiết với nước ở hai nhiệt độ khác nhau.  
Kết quả cho thấy galactan thu được có cấu trúc agar,  
không chứa các nhóm thế trong vòng  
galactopyranozơ. Mẫu tách ở nhiệt độ thấp có chứa  
nhiều protein hơn, độ nhớt cao hơn và độ bền nhiệt  
tốt hơn so với mẫu tách ở nhiệt độ cao.  
[7] A.I. Usov, Structural analysis of red seaweed  
galactans of agar and carrageenan groups, Food  
Hydrocolloids 12 (1998) 301-308.  
[8] C.A. Stortz, A.S. Cerezo, Novel findings in  
carrageenans, agaroids and “hybrid” red seaweed  
galactans, Curr. Top. Phytochem. 4 (2000) 121-134.  
[9] D.H. Dang, M.H. Hoang, N.S. Pham, Seaweeds from  
Vietnam used for functional food, medicine and  
biofertilizer. J. Appl. Phycol. 19 (2007) 817-826.  
Lời cảm ơn  
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học  
Bách khoa Hà Nội trong đề tài mã số T2018-PC-234.  
[10] B.W.S. Souza, M.A. Cerqueira, A. I. Bourbon, A.C.  
Pinheiro, J.T. Martins, J.A. Teixeira, M.A. Coimbra,  
A.A. Vicente, Chemical characterization and  
antioxidant activity of sulfated polysaccharide from  
the red seaweed Gracilaria birdiae, Food  
Hydrocolloids 27 (2012) 287-292.  
Tài liệu tham khảo  
[1] V.K. Do. Status of production and utilization of  
seaweed in Vietnam. Proceedings of the Regional  
Workshop on the Culture & Utilization of Seaweeds,  
Philippines. FAO. 1990.  
[11] E.G. Ordónez, P. Rupérez, FTIR-ATR spectroscopy  
as a tool for polysaccharide identification in edible  
brown and red seaweeds, Food Hydrocolloids 25  
(2011) 1514-1520.  
[2] T.V. Nguyen, N.H. Le, S.M. Lin, F. Steen, O. De  
Clerck, A checklist of marine seaweeds of Vietnam,  
Bot. Mar. 56 (2013) 207-227.  
[12] M. Sekkal, J-P Huvenne, P. Legrand, B. Sombret, J-C.  
Mollet, A. Mouradi-Givernaud, M-C. Verdus, Direct  
structure identification of polysaccharides from red  
algae by FTIR microspectrometry I: Localization of  
agar in Gracilaria verruscosa sections, Mikrochim.  
Acta 112 (1993) 1-10.  
[3] E. Murano, Chemical structure and quality of agars  
from Gracilaria, J. Appl. Phyco. 7 (1995) 245-254.  
[4] R. Iyer, O. De Clerck, J.J. Bolton, V.E.  
Coyne, Morphological and taxonomic studies of  
Gracilaria and Gracilariopsis species (Gracilariales,  
Rhodophyta) from South Africa, S. Afr. J. Bot. 70  
(2004) 521-539.  
[13] T.T.T. Thanh, H. Yasunaga, R. Takano, H. Urakawa,  
K. Kajiwara, Molecular characteristics and gelling  
properties of carrageenan family 2. Tri-sulfated and  
tetra-sulfated carrageenans, Polym. Bull. 47 (2001)  
305-312.  
[5] M. Lahaye, Chemistry and physico-chemistry of  
phycocolloids, Cah. Biol. Mar. 42 (2001) 137-157.  
77  
pdf 5 trang yennguyen 18/04/2022 1620
Bạn đang xem tài liệu "Chiết tách và nghiên cứu một số tính chất của galactan từ rau câu Gracilaria verrucosa Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfchiet_tach_va_nghien_cuu_mot_so_tinh_chat_cua_galactan_tu_ra.pdf