Carcinôm tuyến giáp dạng nhú thể ẩn với hạch cổ di căn: Báo cáo ca lâm sàng
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
CARCINÔM TUYẾN GIÁP DẠNG NHÚ THỂ ẨN VỚI HẠCH CỔ DICĂN:
BÁO CÁO CA LÂM SÀNG
1
2
HÀ HIẾU TRUNG , TRẦN MINH TUẤN
TÓM TẮT
Chúng tôi báo cáo một trường hợp carcinôm tuyến giáp thể ẩn với biểu hiện của khối vùng cổ bên,
không được phát hiện được bướu nguyên phát trên siêu âm trước phẫu thuật và giải phẫu bệnh sau phẫu
thuật. Kết quả giải phẫu bệnh và hóa mô miễn dịch sau khi sinh thiết trọn khối cổ bên là carcinôm tuyến
giáp dạng nhú di căn hạch. Bệnh nhân phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp, nạo hạch cổ bên bên phải.
Đây là trường hợp nguy cơ cao và tiên lượng xấu nên được tiếp tục điều trị với I131.
GIỚI THIỆU
Carcinôm tuyến giáp dạng nhú (PTC) là loại
Ung thư tuyến giáp thể ẩn được chia làm 5
nhóm. Nhóm 1 được phát hiện qua tử thiết hoặc sau
phẫu thuật một tổn thương lành tính, đôi khi được
gọi là ung thư tiềm ẩn. Nhóm 2 là carcinôm tuyến
giáp dạng nhú kích thước nhỏ (PTMC) được phát
hiện tình cờ, chủ yếu qua siêu âm. Nhóm 3 được
chẩn đoán đầu tiên bằng các di căn rõ ràng về mặt
lâm sàng, tuy nhiên bướu nguyên phát chỉ được
phát hiện thông qua giải phẫu bệnh sau mổ. Nhóm 4
đặc trưng bởi sự xuất hiện của ung thư tuyến giáp
trên nền mô tuyến giáp lạc chỗ. Nhóm 5 chỉ hiện
diện sang thương di căn mà không xác định được
được vị trí bướu nguyên phát, còn được gọi là ung
giải phẫu bệnh thường gặp nhất trong ung thư
tuyến giáp, thường có xu hướng di căn hạch cổ.
Tuy nhiên, một số trường hợp phát hiện di căn hạch
cổ ngay cả khi không có bướu nguyên phát tại tuyến
giáp. Đây chính là ung thư tuyến giáp thể ẩn (Occult
thyroid cancer - OTC). Theo McGraw-Hill Concise
Dictionary of Modern Medicine, OTC là tình huống
sang thương di căn xuất hiện đầu tiên mà không tìm
thấy được tổn thương nguyên phát[1]. Mặc dù
tần suất OTC giảm dần do hiệu quả chẩn đoán của
siêu âm và các xét nghiệm mô học được cải thiện,
nhưng các trường hợp tương tự thỉnh thoảng vẫn
được báo cáo[2].
thư không rõ nguyên phát[1][7]
.
Bảng 1. Phân nhóm ung thư tuyến giáp thể ẩn
Chẩn đoán xác định với bướu
nguyên phát ở tuyến giáp
Nhóm
Phân nhóm
Phát hiện ban đầu hoặc chẩn đoán
Type 1
Type 2
Sau cắt tuyến giáp toàn phần ở 1 tổn thương tuyến giáp lành tính
Có - Bằng giải phẫu bệnh
Có - Bằng giải phẫu bệnh
Có - Bằng FNA
Nhóm 1
Tử thiết
Nhóm 2
Nhóm 3
Chẩn đoán hình ảnh
Một tổn thương di căn rõ ràng
Có - Bằng FNA hoặc giải phẫu bệnh
Mô tuyến giáp lạc chỗ với triệu chứng lâm sàng hoặc tổn thương
di căn
Nhóm 4
Nhóm 5
Có - Bằng FNA hoặc giải phẫu bệnh
Type 1
Type 2
Một tổn thương lành tính hoặc hạch di căn
Di căn xa
Không phát hiện
Không phát hiện
Trong bài viết này, chúng tôi trình bày một tình huống lâm sàng ung thư tuyến giáp thể ẩn thuộc nhóm 5.
1
BSCKI. Khoa Điều trị tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
2 ThS.BSCKII. Phó Trưởng Khoa Điều trị tổng hợp - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
149
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
CA LÂM SÀNG
Bệnh nhân nữ, 32 tuổi, ở Kiên Giang, không
tiền căn bệnh lý đặc biệt, đến khám tại bệnh viện
Ung Bướu TP. HCM vào tháng 7/2020 vì xuất hiện
khối vùng cổ bên bên phải. Bệnh nhân đã phát hiện
khối này cách đây 10 năm nhưng không đau. Vì khối
này ngày càng lớn dần nên bệnh nhân đã đi khám
tại phòng khám. Tại đây, siêu âm cổ phát hiện trong
mô dưới da vùng cổ bên bên phải hiện diện cấu trúc
dạng nang, giới hạn rõ, không thấy tín hiệu doppler,
kích thước 20 x10mm. Tuyến giáp trong giới hạn
bình thường. CT scan đầu cổ cho thấy tuyến giáp
giảm đậm độ rải rác 2 thùy. Hình ảnh thâm nhiễm
mô mềm vùng cổ phải dưới da cạnh cơ ức đòn
chũm xâm lấn ra da tương ứng hạch nhóm II. Hạch
cổ nhóm II và hạch góc hàm trái kích thước < 8mm
dạng viêm.
Hình 3. Hình ảnh CT – scan trước phẫu thuật
Bệnh nhân đươc chẩn đoán ung thư tuyến giáp
di căn hạch cổ (P) T0N1M0, siêu âm vùng cổ lần
nữa không phát hiện tổn thương nghi ngờ trong
tuyến giáp. Bệnh nhân được tiến hành cắt toàn bộ
tuyến giáp và nạo hạch cổ bên bên phải. Toàn bộ
mô tuyến giáp được thử giải phẫu bệnh vẫn không
phát hiện mô giáp bất thường. Hạch cổ nhóm II, III,
IV dạng viêm.
BÀN LUẬN
Trong 20 năm qua, tầm soát bằng siêu âm
tuyến giáp đã làm cho việc chẩn đoán và điều trị ung
thư tuyến giáp giai đoạn sớm ngày càng tăng[6].
Trước đây, những trường hợp ung thư tuyến giáp
thể ẩn (OTC) - chỉ phát hiện di căn hạch cổ, phổi và
xương mà không tìm thấy bướu nguyên phát - chiếm
khoảng 2,2%[11]. Những cải tiến trong kỹ thuật siêu
âm cổ và phương pháp sinh thiết giúp chẩn đoán
chính xác các các nhân giáp có kích thước chỉ
2mm[6], kéo theo sự giảm dần tỷ lệ OTC dưới
0,2%[9].
Bệnh nhân được tiến hành sinh thiết trọn khối
vùng cổ bên bên phải. Chẩn đoán giải phẫu bệnh là
carcinôm tuyến giáp dạng nhú di căn hạch hóa bọc.
Hình ảnh vi thể với bướu cấu tạo bởi các tế bào có
hình lập phương, tế bào chất đồng nhất, nhân bầu
dục, phân bào rất hiếm, xếp thành 1 lớp trên những
nhú có trục liên kết, nhiều vùng nhân tế bào có rãnh
khía hoặc có thể vùi giả trong bào tương. Nhuộm
hóa mô miễn dịch với TTF1 (+) và Thyro (+) khẳng
định chẩn đoán giải phẫu bệnh phù hợp.
Nếu nghi ngờ OTC ở những trường hợp khối
vùng cổ được phát hiện ngẫu nhiên mà không phát
hiện sang thương tuyến giáp, chọc hút bằng kim nhỏ
(FNA) dưới hướng dẫn siêu âm cho thấy có độ
chính xác cao[10]. Khi kết quả tế bào học dương tính,
chụp CT scan vùng đầu cổ để đánh giá chi tiết hơn
về các tuyến giáp và khả năng di căn đến các cơ
quan khác. PET có thể được chỉ định trong một số
tình huống.
Nếu kết quả mô học khẳng định chẩn đoán
OTC, phẫu thuật là điều trị đầu tay. Tuy nhiên, một
số trường hợp được báo cáo chỉ thực hiện cắt thùy
hoặc cắt tuyến giáp gần trọn. Điều này có thể bỏ sót
các nhân giáp nhỏ hơn 2mm, vốn khó xác định bằng
siêu âm, dẫn đến nguy cơ tái phát cao. Do đó, phẫu
thuật cắt toàn bộ tuyến giáp và nạo hạch cổ bên
được khuyến nghị[5].
Hình 1. Hình ảnh giải phẫu bệnh sinh thiết
khối vùng cổ bên bên (P)
Ở ca lâm sàng này, bằng chứng giải phẫu bệnh
của sinh thiết khối cổ bên đã khẳng định đây là
carcinôm tuyến giáp dạng nhú di căn hạch. Đánh giá
không di căn cơ quan nào khác, bệnh nhân được
tiến hành phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp và nạo
hạch cổ bên bên phải. Kết quả mô học cuối cùng xác
nhận không có PTC trong tuyến giáp. Vẫn còn khó
khăn để chẩn đoán bướu giáp có kích thước < 2mm
Hình 2. Hình ảnh Siêu âm trước phẫu thuật
150
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
bằng siêu âm. Khối bướu quá nhỏ dẫn đến việc có
thể bỏ sót tổng thương trong quá trình cắt bệnh
phẩm để làm giải phẫu bệnh lý.
KẾT LUẬN
Tỉ lệ carcinôm tuyến giáp dạng nhú thể ẩn ngày
càng giảm dần do những tiến bộ trong siêu âm và
xét nghiệm mô học. Biểu hiện thường gặp là một
khối ở vùng cổ bên, chọc hút tế bào bằng kim nhỏ là
phương tiện chẩn đoán tốt nhất. Nếu kết quả giải
phẫu bệnh xác định carcinôm tuyến giáp di căn thì
nên phẫu thuật cắt toàn bộ tuyến giáp và nạo hạch
cổ. Tái phát thường ở hạch cổ nên cần phải theo dõi
lâu dài. Điều trị iod phóng xạ bổ túc đã được chứng
minh làm giảm tái phát.
Theo một khảo sát với 5.400 bệnh nhân
carcinôm tuyến giáp dạng nhú được phẫu thuật
trong khoảng năm 1990 - 2004, chỉ có 17 bệnh nhân
(0,3%) mắc ung thư tuyến giáp thể ẩn[5]. Trong số
này, 16 bệnh nhân có di căn hạch cổ bên, chủ yếu di
căn 1 hạch (71%) và 1 bệnh nhân di căn hạch trung
thất. Hầu hết các trường hợp (71%) phát hiện bệnh
trong tình huống di căn hạch cổ đơn độc >3cm[5].
Có 14 bệnh nhân được cắt tuyến giáp toàn phần,
trong đó 5 bệnh nhân không phát hiện ra bất kỳ tổn
thương ung thư nào ở tuyến giáp trên giải phẫu
bệnh sau mổ.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Boucek J, Kastner J, Skrivan J, et al. Occult
thyroid carcinoma. Acta Otorhinolaryngol Ital.
2009;29(6): 296 - 304.
Theo Phân loại của Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) năm 1989, carcinôm tuyến giáp dạng nhú
kích thước nhỏ (PTMC) khi kích thước ≤ 1cm[3].
Cụ thể hơn, Sugitani và Fujimoto phân loại thành
PTMC không triệu chứng và PTMC có triệu chứng,
tùy thuộc vào việc có hay không triệu chứng lâm
sàng, hình ảnh học và tổn thương di căn[12]. Giả sử
sang thương PTC nguyên phát quá nhỏ, bị bỏ lỡ,
trường hợp của chúng tôi được chẩn đoán là PTMC
có triệu chứng di căn hạch cổ bên. Hiện nay, việc
theo dõi tích cực (không cần phẫu thuật) được
khuyến cáo đối với PTMC không triệu chứng do tiên
lượng rất khả quan[8]. Ngược lại, tiên lượng của
PTMC có triệu chứng di căn hoặc xâm lấn được
2. Haugen BR, Alexander EK, Bible KC, et al. 2015
American Thyroid Association Management
Guidelines for Adult Patients with Thyroid
Nodules and Differentiated Thyroid Cancer: The
American Thyroid Association Guidelines Task
Force on Thyroid Nodules and Differentiated
Thyroid Cancer. Thyroid. 2016 Jan;26(1):1 - 133.
3. Hedinger C, Williams ED, Sobin LH. The WHO
histological classification of thyroid tumors: a
commentary on the second edition. Cancer.
1989 Mar 1;63(5): 908 - 11.
4. Ito Y, Amino N, Yokozawa T, et al.
Ultrasonographic evaluation of thyroid nodules in
coi là xấu[13]
.
900
patients:
comparison
among
Trong nghiên cứu của Sugitani ở 56 bệnh nhân
PTMC không di căn xa được phẫu thuật cắt toàn bộ
tuyến giáp, tất cả đều có hạch di căn ≥1cm. Có 21
(38%) trường hợp tái phát và 8 (14%) trường hợp tử
vong do bệnh nguyên phát. Bướu hoặc hạch xâm
lấn vỏ bao, hạch di căn ≥20mm và các khối u không
biệt hóa là những yếu tố tiên lượng xấu. Tỷ lệ tử
vong do bệnh trong 10 năm ở những bệnh nhân có
ultrasonographic, cytological, and histological
findings. Thyroid. 2007 Dec;17(12): 1269 - 76.
5. Ito Y, Hirokawa M, Fukushima M, et al. Occult
papillary thyroid carcinoma: diagnostic and
clinical implications in the era of routine
ultrasonography.
Sep;32(9):1955 - 60.
World
J
Surg.
2008
yếu tố này là 74%[13]
.
6. Kilfoy BA, Zheng T, Holford TR, et al.
International patterns and trends in thyroid
cancer incidence, 1973-2002. Cancer Causes
Control. 2009 Jul;20(5): 525-31.
Carcinôm tuyến giáp thể ẩn có di căn hạch cổ
được xếp vào nguy cơ trung bình - cao, do đó nên
xem xét điều trị I131[5]. Nếu có di căn xa, I131 được
khuyến cáo vì được xem là nguy cơ cao theo ATA[2].
Ngoài ra, ở nhóm PTMC có triệu chứng, hạch di căn
có kích thước ≥20mm, xâm lấn vỏ bao, được xếp
vào nhóm tiên lượng xấu[10]. Ở ca lâm sàng, bệnh
nhân được xếp vào vào nhóm PTC nguy cơ cao và
nhóm có tiên lượng xấu của PTMC có triệu chứng
nên được tiếp tục điều trị iodine-131 để ngăn ngừa
tái phát và di căn.
7. Liu H, Lv L, Yang K. Occult thyroid carcinoma: a
rare case report and review of literature. Int J
Clin Exp Pathol. 2014 Jul 15;7(8) : 5210 - 4.
8. Miyauchi A. Clinical Trials of Active Surveillance
of Papillary Microcarcinoma of the Thyroid.
World J Surg. 2016 Mar;40(3): 516 - 22.
9. Pellegriti G, Frasca F, Regalbuto C, et al.
Worldwide increasing incidence of thyroid
cancer: update on epidemiology and risk factors.
J Cancer Epidemiol. 2013;2013: 965212
151
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
10. Perros P, Boelaert K, Colley S, et al ; British
Thyroid Association. Guidelines for the
management of thyroid cancer. Clin Endocrinol
(Oxf). 2014 Jul;81 Suppl 1:1 - 122.
a retrospective analysis of surgical outcome and
prognostic factors. Endocr J. 1999 Feb;46(1):
209 - 16.
13. Sugitani I, Toda K, Yamada K, et al. Three
distinctly different kinds of papillary thyroid
microcarcinoma should be recognized: our
treatment strategies and outcomes. World J
Surg. 2010 Jun;34(6):1222 - 31.
11. Saijo H, Kitamura Y, Takenaka H, et al. Occult
Thyroid Follicular Carcinoma Diagnosed as
Metastasis to the Chest Wall. Intern Med.
2017;56(15):2033-2037.
12. Sugitani I, Fujimoto Y. Symptomatic versus
asymptomatic papillary thyroid microcarcinoma:
152
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
ABSTRACT
Occult papillary thyroid carcinoma presenting as a cervical neck mass: A case report
We report a case of an occult thyroid carcinoma, initially presenting as a right lateral neck mass. Biopsy of
the mass was performed and the pathology revealed lymph-node metastatic papillary thyroid carcinoma.
The primary tumor was not detected on preoperative ultrasonography and postoperative pathological
examination. Total thyroidectomy and right lateral neck dissection were performed. The patient was classified
into the high-risk group of papillary thyroid carcinomas and the poor-prognosis group of symptomatic papillary
thyroid microcarcinomas. Therefore, ablation with iodine-131 was indicated.
153
Bạn đang xem tài liệu "Carcinôm tuyến giáp dạng nhú thể ẩn với hạch cổ di căn: Báo cáo ca lâm sàng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- carcinom_tuyen_giap_dang_nhu_the_an_voi_hach_co_di_can_bao_c.pdf