Báo cáo Đề tài Pháp luật về giải quyết tranh chấp khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động – Thực trạng và giải pháp

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI  
BỘ MÔN LUẬT CĂN BẢN  
----------  
BÁO CÁO NGHIÊN CỨU KHOA HỌC  
Đề tài:  
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP KHI ĐƠN PHƯƠNG CHẤM  
DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG – THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP”  
Chủ nhiệm đề tài: Trần Thị Nguyệt  
Đơn vị :  
Bộ môn Luật Căn bản  
Khoa Kinh tế - Luật  
Hà Nội – 2017  
MỤC LỤC  
Trang  
Mục lục  
Danh mục từ viết tắt  
1
1
3
6
6
7
7
7
8
MỞ ĐẦU  
1. Tính cấp thiết nghiên cứu của đề tài  
2 Tổng quan tình hình nghiên cứu  
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  
4 Phương pháp nghiên cứu  
5. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài  
6. Ý nghĩa của nghiên cứu  
7. Kết cấu báo cáo nghiên cứu  
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ  
ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG  
1.1  
Khái quát chung về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động  
8
8
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động  
1.1.2 Phân loại đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động  
10  
12  
1.2  
Khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động  
1.2.1 Khái niệm, đặc điểm của giải quyết tranh chấp lao động  
1.2.2 Phân loại tranh chấp lao động  
12  
14  
16  
1.3. Khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt hợp  
đồng lao động  
1.4. Pháp luật điều chỉnh về giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt hợp  
đồng lao động  
18  
1.4.1. Nguyên tắc giải quyết tranh chấp lao động  
18  
20  
1.4.2. Hệ thống cơ quan, tổ chức giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương chấm  
dứt hợp đồng lao động  
1.4.3. Thời hiệu yêu cầu giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ  
ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM  
2.1 Thực trạng quy định của pháp luật Việt Nam về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao  
27  
29  
29  
ii  
động  
2.2.1. Điều kiện đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động  
2.1.2 Hậu quả pháp lý của việc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động  
2.2 Thực trạng giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động  
2.2.1. Giải quyết các tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo thủ tục  
khiếu nại lao động  
29  
34  
37  
37  
2.2.2. Giải quyết các tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động theo thủ tục  
tố tụng lao động  
42  
42  
2.2.2.1. Giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ thông qua Hòa giải viên  
lao động  
2.2.2.2 Giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt HĐLĐ tại Tòa án  
2.3 Thực tiễn hoạt động giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam  
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN  
PHÁP LUẬT VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LAO ĐỘNG KHI ĐƠN PHƯƠNG  
CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG  
43  
49  
56  
3.1 Quan điểm hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương  
chấm dưt hợp đồng lao động  
56  
57  
60  
3.2 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về đơn phương chấm dứt  
hợp đồng lao động  
3.3 Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định về giải quyết tranh chấp khi đơn  
phương chấm dứt hợp đồng lao động ở Việt Nam  
65  
66  
Kết luận  
Danh mục tài liệu tham khảo  
iii  
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT  
Từ viết tắt  
HĐLĐ  
NLĐ  
Giải nghĩa  
Hợp đồng lao động  
Người lao động  
NSDLĐ  
BLLĐ  
QHLĐ  
ILO  
Người sử dụng lao động  
Bộ luật lao động  
Quan hệ lao động  
Tổ chức lao động quốc tế  
iv  
MỞ ĐẦU  
1. Tính cấp thiết của đề tài  
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ lao động được thiết lập chủ yếu dựa trên cơ sở hợp  
đồng lao động (HĐLĐ) giữa người lao động (NLĐ) và người sử dụng lao động (NSDLĐ). Việc  
chấm dứt quan hệ lao động nói chung và đơn phương chấm dứt HĐLĐ nói riêng có sự ảnh  
hưởng lớn đến quyền và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động. Hành vi đơn phương chấm  
dứt HĐLĐ sẽ giải phóng các bên chủ thể khỏi những quyền và nghĩa vụ đã từng ràng buộc họ  
trước đó. Đơn phương chấm dứt hợp đồng được coi là biện pháp hữu hiệu bảo vệ quyền lợi của  
một bên trong quan hệ lao động khi phía bên kia có sự vi phạm cam kết trong hợp đồng, vi phạm  
pháp luật lao động hay các trường hợp khác mà pháp luật quy định. Bảo vệ NLĐ chống lại tình  
trạng bị chấm dứt HĐLĐ một cách tùy tiện và đảm bảo lợi ích hợp pháp của NSDLĐ trong các  
chuẩn mực, hành lang pháp lý do nhà nước ban hành là mối quan tâm hàng đầu của pháp luật lao  
động các nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Đảm bảo quyền đơn phương chấm dứt  
HĐLĐ còn là yếu tố quan trọng góp phần cân bằng mức độ linh hoạt, năng động của thị trường  
lao động  
Tuy nhiên do mặt trái của nền kinh tế thị trường kết hợp với nhiều nguyên nhân khác nhau  
mà tình trạng vi phạm pháp luật lao động ngày càng trở nên phổ biến, trong đó việc đơn phương  
chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật là một vấn đề đang gây nhiều bức xúc. Điều đó ảnh hưởng không  
nhỏ đến tính bền vững của quan hệ lao động, lợi ích của các bên chủ thể, cũng như sự ổn định và  
phát triển của đời sống kinh tế xã hội. Chính vì vậy, việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ cần phải  
có sự quan tâm đặc biệt từ phía nhà nước cũng như toàn xã hội. Về phía NLĐ, việc chấm dứt  
HĐLĐ sẽ làm cho họ phải đứng trước nguy cơ thất nghiệp, dẫn đến sự giảm sút về thu nhập, làm  
ảnh hưởng đến không chỉ cuộc sống của NLĐ mà còn có ảnh hưởng lớn tới cuộc sống của gia  
đình họ. Còn về phía NSDLĐ, việc chấm dứt HĐLĐ với NLĐ sẽ làm họ đứng trước nguy cơ  
thiếu hụt về nguồn lao động, sẽ phải tốn kém thời gian và chi phí để tuyển dụng và đào tạo NLĐ  
mới, ảnh hưởng đến sự ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh.  
Mặc dù tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt HĐLĐ là loại tranh chấp lao động  
mang tính chất đơn giản hơn, quy mô nhỏ hơn so với các loại tranh chấp khác, nhưng trên thực tế  
đây là loại tranh chấp phổ biến, dễ xảy ra và chiếm đa số trong các tranh chấp lao động. Trong  
bối cảnh của nền kinh tế thị trường hiện nay, khi các tranh chấp lao động phát triển cả về số  
lượng, quy mô và hình thức thì các tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt HĐLĐ, theo đó  
cũng tăng nhanh ở hầu hết các thành phần kinh tế. Nếu có một cơ chế giải quyết tranh chấp lao  
động về đơn phương chấm dứt HĐLĐ thích hợp, thấu đáo thì không chỉ bảo vệ được quyền và  
lợi ích hợp pháp của cá nhân người lao động và người sử dụng lao động mà còn góp phần củng  
cố, bảo vệ các quan hệ sản xuất, thúc đẩy xã hội phát triển.  
Theo báo cáo công tác ngành Toà án, từ năm 2003 đến 2008 số vụ tranh chấp lao động  
được giải quyết tại tòa án như sau:  
Năm 2006: Toà án các cấp thụ lý giải quyết 1043 vụ; trong đó cấp sơ thẩm thụ lý 820 vụ,  
cấp phúc thẩm 205 vụ, giám đốc thẩm 109.  
Năm 2007: Toà án các cấp thụ lý giải quyết 1.423 vụ việc ; trong đó cấp sơ thẩm thụ lý giải  
quyết 1.022 vụ, phúc thẩm 244 vụ, giám đốc thẩm 157 vụ.  
Năm 2008: Toà án các cấp thụ lý giải quyết 1.734 vụ việc ; trong đó cấp sơ thẩm thụ lý giải  
quyết 1.430 vụ, phúc thẩm 155 vụ, giám đốc thẩm 149 vụ.  
So với các loại vụ việc tranh chấp về dân sự, kinh doanh – thương mại, thì các tranh chấp  
lao động đưa đến Toà án chưa nhiều, nhưng có chiều hướng tăng dần. Tuyệt đại đa số các tranh  
chấp lao động đưa đến Toà án là tranh chấp lao động cá nhân. Trong tranh chấp lao động cá nhân  
thì chủ yếu là tranh chấp về sa thải, về chấm dứt HĐLĐ.  
Tranh chấp lao động xảy ra tại khu các doanh nghiệp thuộc khu vực ngoài quốc doanh,  
nhất là doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là chủ yếu và luôn có chiều hướng tăng. Kết quả  
khảo sát tình hình tranh chấp lao động của Toà án nhân dân tối cao và của các ngành liên quan  
cho thấy tranh chấp lao động xảy ra trong thực tế là nhiều, nhưng số vụ việc đưa đến Toà án thì  
còn rất hạn chế. Tình trạng này không phải vì việc hoà giải tại cơ sở tốt, mà ngược lại, chính thủ  
tục hoà giải đã hạn chế quyền khởi kiện vụ án của các bên tranh chấp. Bên cạnh đó, nguyên nhân  
từ sự hiểu biết pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp lao động của NLĐ còn hạn chế; các tổ  
chức tư vấn cho NLĐ chưa phát huy được ảnh hưởng. Chính vì vậy mà nhiều vụ việc đưa đến  
Toà án, Toà án phải trả lại đơn khởi kiện vì đã hết thời hiệu khởi kiện, hoặc vì chưa qua hoà giải  
tại cơ sở. Bên cạnh đó, một số quy định của pháp luật hiện hành chưa đáp ứng được yêu cầu điều  
chỉnh pháp luật đối với quan hệ lao động. Các quy định pháp luật về thủ tục giải quyết tranh chấp  
lao động khi áp dụng vào thực tế còn nhiều vướng mắc.  
Vì các lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài “pháp luật giải quyết tranh chấp về đơn phương  
chấm dứt HĐLĐ” để nghiên cứu nhằm hệ thống hóa các vấn đề lý luận, các quy định của pháp  
luật, nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt HĐLĐ, từ  
2
đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật  
trong việc giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt HĐLĐ.  
Tổng quan tình hình nghiên cứu  
2.  
Tranh chấp lao động và đơn phương chấm dứt HĐLĐ là vấn đề luôn được sự quan tâm của  
các nhà nghiên cứu. Đã có những công trình, bài viết khoa học đã được công bố như: Giáo trình  
Luật Lao động Việt Nam của Khoa luật, Đại học Xã hội và Nhân văn quốc gia, 2010; Giáo trình  
Luật lao động Việt Nam của Trường Đại học Luật Hà Nội, 2013; Thủ tục giải quyết các vụ án  
lao động theo Bộ luật Tố tụng dân sự của Phạm Công Bảy, Nxb Chính trị quốc gia, 2006;  
Ở cấp độ nghiên cứu sâu hơn về đơn phương chấm dứt HĐLĐ và giải quyết tranh chấp lao  
động có các tác phẩm như:  
Trần Thị Thúy Lâm “Những vấn đề cần sửa đổi về HĐLĐ trong BLLĐ” Tạp chí Luật học  
(9/2009); Bài viết đã đưa ra một số nội dung bất cập trong quy định của pháp luật về HĐLĐ và  
đưa ra kiến nghị sửa đổi những bất cập đó.  
Đào Thị Hằng “Một số nội dung cơ bản của pháp luật lao động CHLB Đức”, Tạp chí Luật  
học, số 9/2011; Bài viết chủ yếu tập trung phân tích pháp luật lao động của Đức, trong đó có đề  
cập đến quy trình giải quyết tranh chấp lao động của Đức làm cơ sở để so sánh với quy trình giải  
quyết tranh chấp lao động của Việt Nam  
Trần Hoàng Hải, Đỗ Hải Hà “Hoàn thiện quy định về trách nhiệm của NSDLĐ đơn phương  
chấm dứt HĐLĐ trái luật” đăng trong tạp chí Nghiên cứu luật pháp, số 8 (193) 2011. Bài viết  
tập trung phân tích về trường hợp NSDLĐ đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật và xác  
định trách nhiệm của NSDLĐ trong trường hợp này.  
Luật Hà Nội. Khóa luận đã đưa ra cái nhìn có hệ thống về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân  
và phân tích được thực trạng giải quyết tranh chấp ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài  
từ đó đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của về tranh chấp lao động cá nhân nói chung.  
Nam”: khoá luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội . Khóa luận phân tích quy trình hòa giải tranh  
chấp lao động nói chung, bao gồm cả tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể  
chứ chưa tập trung vào tranh chấp lao động cá nhân và đặc biệt là những tranh chấp liên quan  
đến HĐLĐ.  
3
Malaysia”, khoá luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội. Khóa luận đã tập trung phân tích những  
vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp lao động nói chung, phân tích quy định pháp luật  
Malaysia về giải quyết tranh chấp lao động và so sánh đối chiếu với pháp luật Việt Nam, từ đó  
đưa ra kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam.  
Phạm Công Bảy, Giải quyết tranh chấp lao động tại Tòa án nhân dân - từ pháp luật đến  
thực tiễn và một số kiến nghị, Tạp chí Luật học số 9/2009 Bài viết đi sâu phân tích thực trạng  
giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng con đường tòa án và đưa ra một số kiến nghị hoàn  
thiện quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án.  
động”, khoá luận tốt nghiệp, Đại học Luật Hà Nội. Khóa luận tập trung nghiên cứu về thẩm  
quyền giải quyết tranh chấp của tòa án đối với các tranh chấp phát sinh từ quan hệ lao động.  
thống hóa những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, đi sâu phân tích thực  
trạng giải quyết tranh chấp lao động cá nhân và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của  
pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam.  
Lê Thị Hường (2012), Giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án theo pháp luật Việt Nam,  
Luận văn thạc sĩ luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội Luận văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý  
luận về giải quyết tranh chấp lao động bằng tòa án, đi sâu phân tích thực trạng giải quyết tranh  
chấp lao động cá nhân bằng con đường tòa án và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định  
của pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án.  
Nguyễn Thị Kim Anh (2014), “Giải quyết tranh chấp lao động cá nhân theo pháp luật  
Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã hệ thống hóa những  
vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, đi sâu phân tích thực trạng giải quyết  
tranh chấp lao động cá nhân và đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về giải  
quyết tranh chấp lao động cá nhân ở Việt Nam.  
văn đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp lao động bằng tòa án, đi sâu  
4
phân tích thực trạng giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bằng con đường tòa án và đưa ra một  
số kiến nghị hoàn thiện quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động tại tòa án  
Các tác phẩm trên đều có giá trị tham khảo đối với đề tài, các tác phẩm đã nghiên cứu tập  
trung nghiên cứu sâu hoặc về đơn phương chấm dứt HĐLĐ, hoặc về giải quyết tranh chấp lao  
động. Các đề tài đã nghiên cứu lồng ghép phần giải quyết tranh chấp do đơn phương chấm dứt  
HĐLĐ như một phần nhỏ trong công trình nghiên cứu của mình.  
Trên thế giới cũng đã có những công trình nghiên cứu về giải quyết tranh chấp về đơn  
phương chấm dứt HĐLĐ, nhưng hầu hết mới chỉ coi tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
là một phần của tranh chấp lao động nói chung để nghiên cứu, mà chưa có công trình nào tập  
trung nghiên cứu riêng về giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Các công trình  
có thể kể đến như:  
Stephen J. Deery & Richard Mitchell (1993), Labour law and Industrial Relations in Asia,  
Centre for Employment and Labour law, Uni of Melbourne, Australia. Các tác giả đã phân tích  
những vấn đề lý luận về quan hệ lao động ở các nước châu á, phân tích đặc thù nguồn lao động  
và những quy định của pháp luật các nước châu á so với các công ước quốc tế về quan hệ lao  
động trong đó có những quy định về tranh chấp lao động.  
Reinhold Falbeck (1997), Labour law and Employment law in Sweden, juristforlaget,  
Lund. Ấn phẩm đã phân tích pháp luật điều chỉnh quan hệ lao động bằng hợp đồng lao đông,  
những tồn tại trong quy định của pháp luật và định hướng hoàn thiện pháp luật  
Philip S James (1989), Introduction to English law, Butterworths, London. Tác giả đã tập  
trung phân tích các quy định của pháp luật Anh về quan hệ lao động.  
Ronald C. Brown, East Asian Labor and Employment Law: International and Comparative  
Context (Cambridge University Press, 2012),  
Joseph W.S Davis, Dispute Resolution in Japan (Kluver Law International, 1996), .  
Outline of Civil Litigation in Japan,” The Supreme Court of Japan, 2006,  
Ikuo Sugawara and Eri Osaka, The Costs and Funding of Civil Litigation A Comparative  
Perspective (Hart Publishing, 2010),  
Viêc nghiên cứu về giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt hợp đồng tuy không  
phải là một vấn đề mới mẻ, nhưng cho đến nay vẫn cần phải nghiên cứu, bởi việc giải quyết  
tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ mang những đặc trưng riêng, khác biệt với các tranh  
chấp thông thường, nên khi có được cái nhìn có hệ thống về vấn đề này sẽ giúp cho việc giải  
5
quyết tranh chấp và việc bảo vệ quyền lợi của các bên trong quan hệ lao động được thực hiện  
một cách thuận lợi hơn. Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa và phát triển các kết quả mà các công  
trình nghiên cứu trước đó đã đạt được, đề tài sẽ đưa ra cái nhìn tổng quát, có hệ thống về đơn  
phương chấm dứt HĐLĐ, hướng tới việc kiến nghị hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết  
tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu  
- Đối tượng nghiên cứu  
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này là tất cả các vấn đề lý luận và các quy định pháp luật  
liên quan đến đơn phương chấm dứt hợp đồng, giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương  
chấm dứt HĐLĐ và thực trạng giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
- Phạm vi nghiên cứu  
Đề tài tập trung nghiên cứu về giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ dựa  
trên cơ sở những quy định của Bộ luật lao động năm 2012 cho đến nay và thực tiễn giải quyết  
tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ ở Việt Nam hiện nay để tìm ra những tồn tại, bất cập  
trong quy định của pháp luật và những sai phạm trên thực tế để từ đó đưa ra giải pháp để hoàn  
thiện pháp luật về đơn phương chấm dứt HĐLĐ, giải quyết tranh chấp lao động.  
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là một loại tranh chấp lao động cá nhân, nên trong quá trình  
nghiên cứu tác giả sẽ đặt vấn đề nghiên cứu trong mối tương quan với tranh chấp lao động cá  
nhân để làm rõ vấn đề nghiên cứu.  
4. Phương pháp nghiên cứu: Đề tài nghiên cứu chủ yếu sử dụng các phương pháp sau:  
Phương pháp so sánh: phương pháp này được sử dụng để thấy rõ được những điểm mới từ  
Bộ luật Lao động sửa đổi bổ sung năm 2012 so với Bộ Luật Lao động 1994 và các luật sửa đổi  
bổ sung bộ luật lao động 1994. Từ đó thấy được những sự thay đổi về mặt quan điểm khi xây  
dựng pháp luật về giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ.  
Phương pháp thống kê, khảo sát: Phương pháp này được sử dụng chú yếu khi thu thập,  
đánh giá số liệu để làm sáng tỏ thực trạng giải quyết tranh chấp lao động ở Việt Nam. Qua đó  
nhận thấy những tồn tại, bất cập trong việc áp dụng quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp  
lao động về đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
Phương pháp phân tích, tổng hợp: các phương pháp này được sử dụng xuyên suốt đề tài để  
làm nổi bật các vấn đề lý luận và thực tiễn về giải quyết tranh chấp lao động nói chung và giải  
quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ nói riêng. Thông qua việc phân tích, đánh giá  
6
đề tài sẽ đưa ra những kết luận chung về thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp lao động.  
Trên cơ sở đó, đề tài sẽ mạnh dạn đưa ra những kiến nghị về việc hoàn thiện quy định của pháp  
luật giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ.  
5. Xác lập và tuyên bố vấn đề trong đề tài  
Đề cập đến vấn đề giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm dứt HĐLĐ, đề tài tập trung  
làm sáng tỏ các vấn đề  
- Những vấn đề lý luận cơ bản về đơn phương chấm dứt HĐLĐ và giải quyết tranh chấp về  
đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
- Thực trạng đơn phương chấm dứt HĐLĐ và giải quyết tranh chấp về đơn phương chấm  
dứt HĐLĐ ở Việt Nam hiện nay  
- Đề xuất giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật về giải quyết tranh chấp khi đơn phương  
chấm dứt hơp đồng lao đống  
6. Ý nghĩa của nghiên cứu  
Đề tài là công trình nghiên cứu khoa học có hệ thống về vấn đề giải quyết tranh chấp về  
đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Từ đó, đề tài chỉ ra các bất cập trong quy định của pháp luật về  
giải quyết tranh chấp khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ và đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện  
quy định của pháp luật về giải quyết tranh chấp khi đơn phương chấm dứt HĐLĐ.  
7. Kết cấu báo cáo nghiên cứu  
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài gồm 3 chương  
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về giải quyết tranh chấp khi đơn phương chấm dứt  
HĐLĐ  
Chương 2: Thực trạng pháp luật về giải quyết tranh chấp khi đơn phương chấm dứt  
HĐLĐ  
Chương 3: Hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp khi đơn phương chấm dứt  
HĐLĐ.  
7
CHƯƠNG 1  
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP VỀ  
ĐƠN PHƯƠNG CHẤM DỨT HỢP ĐỒNG LAO ĐỘNG  
1.3 Khái quát chung về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động  
1.3.1 Khái niệm, đặc điểm đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động  
HĐLĐ là chế định trung tâm và quan trọng nhất của Bộ luật lao động bởi HĐLĐ là cơ sở  
trực tiếp làm phát sinh quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ. HĐLĐ cũng là cơ sở để làm phát  
sinh các quan hệ khác liên quan đến quan hệ lao động. Có HĐLĐ, có quan hệ lao động mới phát  
sinh các quan hệ về tiền lương, bảo hiểm xã hội, an toàn vệ sinh lao động, thời gian làm việc và  
nghỉ ngơi…  
Theo quy định tại Điều 26 BLLĐ năm 2012 thì: “HĐLĐ là sự thỏa thuận giữa NLĐ và  
NSDLĐ về việc làm có trả công, điều kiện lao động, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong quan  
hệ lao động”.  
HĐLĐ chính là hình thức biểu hiện ra bên ngoài của quan hệ lao động. Mọi sự kiện làm  
phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một HĐLĐ đều kéo theo việc làm phát sinh, thay đổi hoặc  
chấm dứt một quan hệ pháp luật lao động theo hợp đồng.  
Quan hệ lao động thông thường là loại quan hệ mang tính lâu dài nhưng không phải là  
quan hệ “vĩnh cửu” nên có thể được chấm dứt bởi những căn cứ khác nhau. Đơn phương chấm  
dứt HĐLĐ là một trong những căn cứ đó. So với các căn cứ khác làm chấm dứt quan hệ lao động  
(ví dụ: thỏa thuận chấm dứt hợp đồng, hết hạn hợp đồng…) thì đơn phương chấm dứt HĐLĐ là  
vấn đề phức tạp bởi đó là hành vi có chủ ý chỉ của một bên không phụ thuộc vào ý chí của chủ  
thể bên kia. Trong các vụ tranh chấp lao động đã xảy ra thì các tranh chấp về đơn phương chấm  
dứt HĐLĐ vẫn chiếm số lượng lớn hơn cả.  
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hành vi pháp lí trong đó thể hiện ý chí của một bên chủ  
thể nhằm chấm dứt quan hệ lao động với bên kia. Ý chí này phải được biểu thị ra bên ngoài dưới  
hình thức nhất định và phải được truyền đạt tới chủ thể đối tác mà không cần thiết phải được chủ  
thể đó chấp nhận. Về nguyên tắc, hình thức để biểu thị ý chí có thể bằng văn bản hay bằng lời  
nói (miệng). Nếu bằng hình thức văn bản, văn bản đó phải được gửi cho chủ thể bên kia và ý chí  
chấm dứt quan hệ lao động trong đó phải được biểu đạt rõ ràng, cụ thể để người nhận nó là chủ  
thể đối tác có thể hiểu được. Nếu bằng hình thức miệng (lời nói), bên bị đơn phương chấm dứt  
8
hợp đồng phải được truyền đạt, thông báo cụ thể từ phía bên có quyền và có thể hiểu được chính  
xác nội dung của thông báo đó.  
Thực hiện HĐLĐ là nghĩa vụ của NSDLĐ và NLĐ. Quyền từ bỏ nghĩa vụ đã cam kết của  
NSDLĐ và NLĐ chỉ có thể được thực hiện trong giới hạn mà pháp luật quy định. Nhìn chung,  
pháp luật của bất kỳ quốc gia nào cũng cho phép NSDLĐ và NLĐ được quyền đơn phương  
chấm dứt HĐLĐ với những điều kiện là phải có căn cứ chấm dứt hợp pháp và phải thực hiện  
những nghĩa vụ nhất định.  
Theo TS. Nguyễn Thị Hoa Tâm thì: “đơn phương chấm dứt HĐLĐ là hành vi pháp lý của  
một chủ thể trong quan hệ HĐLĐ có thể dẫn đến việc chấm dứt hiệu lực pháp lý của HĐLĐ  
trước thời hạn theo quy định của pháp luật mà không phụ thuộc vào ý chí của bên kia”. 1  
Vậy có thể hiểu: “Đơn phương chấm dứt hợp HĐLĐ là việc một bên tự ý chấm dứt các  
quyền và nghĩa vụ đã thỏa thuận trong HĐLĐ mà không phụ thuộc vào ý chí của bên còn lại”.  
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ là một trường hợp chấm dứt HĐLĐ đặc biệt. Do đó, đơn  
phương chấm dứt HĐLĐ có đầy đủ các đặc trưng của chấm dứt HĐLĐ nói chung. Ngoài ra, đơn  
phương chấm dứt HĐLĐ có các đặc trưng riêng, khác biệt với các trường hợp chấm dứt HĐLĐ  
khác. Về cơ bản, việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ có các đặc điểm sau đây:  
Thứ nhất,đơn phương chấm dứt HĐLĐ là quyền của một chủ thể trong quan hệ HĐLĐ  
QHLĐ là toàn bộ những quan hệ có liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia  
trong quá trình lao động.  
Đối với quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ thì chủ thể quyền NSDLĐ.  
NSDLĐ là doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức, hợp tác xã, hộ gia đình, cá nhân có thuê mướn, sử  
dụng lao động theo HĐLĐ; nếu là cá nhân thì phải năng lực hành vi dân sự đầy đủ”.  
Còn về quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NLĐ thì chủ thể quyền là  
NLĐ.“NLĐ người từ đủ 15 tuổi trở lên, có khả năng lao động, làm việc theo HĐLĐ, được trả  
lương chịu sự quản lý, điều hành của NSDLĐ”.  
Đơn phương chấm HĐLĐ là quyền của cả NLĐ và NSDLĐ. Đây là hành vi của chỉ một  
bên hoặc NLĐ hoặc NSDLĐ trong QHLĐ và không có sự phụ thuộc vào ý chí của phía bên kia.  
Thứ hai, đơn phương chấm dứt HĐLĐ sẽ làm cho các bên không còn ràng buộc nhau  
trong quan hệ lao động  
1 Nguyễn Thị Hoa Tâm (2012), “Pháp luật về đơn phương chấm dứt hợp đꢀng lao động - những vấn đề lý luận và  
thực tiễn”,Trường đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, tr21  
9
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ từ phía NLĐ góp phần đảm bảo quyền tự do việc làm cho  
chính họ. Đơn phương chấm dứt HĐLĐ của NSDLĐ đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tự do  
tuyển dụng lao động của NSDLĐ. Giúp NSDLĐ linh hoạt hơn trong việc sử dụng lao động sẵn  
có. Một khi quan hệ lao động giữa NLĐ và NSDLĐ chấm dứt thì đồng nghĩa hai bên sẽ không  
còn ràng buộc gì nữa. Nếu xảy ra trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái luật thì bên vi  
phạm sẽ phải thực hiện nghĩa vụ ghi trong hợp đồng hoặc xử lý theo quy định của luật, sau đó họ  
cũng sẽ được tự do không liên quan đến bên kia nữa.  
Thứ ba, đơn phương chấm dứt HĐLĐ có tác động tới các bên trong QHLĐ  
Đảm bảo quyền tự do kinh doanh và tuyển dụng lao động của NSDLĐ, giúp NSDLĐ linh  
hoạt hơn trong việc sử dụng lao động sẵn có. Còn về phía NLĐ sẽ không còn ràng buộc gì với  
NSDLĐ, họ có thể tự tìm được những công việc yêu thích đảm bảo cho cuộc sống cá nhân.  
Tuy nhiên cũng phải kể đến trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái luật sẽ có tác  
động không nhỏ cho cả hai bên. NLĐ sẽ đột ngột bị mất việc làm, đồng nghĩa với mất thu nhập,  
các khoản thưởng, chế độ bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội và ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống  
của bản thân và gia đình họ. Không những thế phải gánh chịu hậu quả mất các khoản trợ cấp và  
có thể còn phải bồi thường thiệt hại cho NSDLĐ. Ngược lại NSDLĐ cũng sẽ đột ngột không thể  
tìm được lao động khác thay thế, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh.  
1.3.2 Phân loại đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động  
Sự phân loại các trường hợp đơn phương chấm dứt HĐLĐ là cơ sở cần thiết để những cơ  
quan có thẩm quyền đưa ra những bản án, quyết định chính xác, đúng đắn khi giải quyết những  
tranh chấp về chấm dứt HĐLĐ, qua đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của NLĐ, NSDLĐ.  
Đồng thời tìm ra những nguyên nhân, thực trạng vi phạm và những giải pháp nhằm giảm thiểu  
hiện tượng đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật trên thực tế. Trên cơ sở quy định của  
pháp luật, chúng ta có thể phân loại như sau:  
1.1.2.1. Căn cứ vào ý chí của chủ thể đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
Trong QHLĐ thì NLĐ và NSDLĐ là hai chủ thể chính, việc đơn phương chấm dứt hợp  
đồng phụ thuộc vào ý chí của hai bên. Do đó, căn cứ vào ý chí của chủ thể có thể chia thành hai  
loại: đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo ý chí của NLĐ và đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo ý  
chí của NSDLĐ.  
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo ý chí của NLĐ  
10  
Khi tham gia quan hệ HĐLĐ, một trong những quyền pháp lý cơ bản của NLĐ đó là quyền  
đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Đây là trường hợp HĐLĐ đang còn hiệu lực thực hiện, nhưng  
NLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng mà không phụ thuộc vào việc NSDLĐ có đồng ý hay  
không.  
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ theo ý chí của NSDLĐ  
Cũng như trường hợp NLĐ,đơn phương chấm dứt HĐLĐ là một trong những quyền pháp  
lý cơ bản của NSDLĐ. Trong quá trình làm việc nếu NLĐ không tuân thủ đúng các quy định  
trong hợp đồng và làm những việc gây ảnh hưởng đến quá trình hoạt động kinh doanh thì  
NSDLĐcó quyền đơn phương chấm dứt việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ theo HĐLĐ mà  
không phụ thuộc vào việc NLĐ có đồng ý hay không.  
1.1.2.2. Căn cứ vào lý do chấm dứt HĐLĐ  
Các chủ thể trong QHLĐ có thể vì nhiều lý do khác nhau mà đơn phương chấm dứt  
HĐLĐ, có thể phân loại dựa vào yếu tố chủ quan hoặc khách quan  
Lý do chủ quan  
Lý do NLĐ có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ là trong những trường hợp như ốm  
đau, bệnh tật không thể tiếp tục thực hiện nghĩa vụ với NSDLĐ nữa thì họ có quyền đơn phương  
chấm dứt. Hoặc NLĐ bị cưỡng bức lao động hay bị quấy rối tình dục, bị đánh đập, nhục mạ ảnh  
hưởng đến sức khỏe của NLĐ khiến họ cảm thấy bị xâm phạm mà từ bỏ công việc. Về phía  
NSDLĐ có thể họ cảm thấy không ưng ý với NLĐ trong quá trình làm việc đó cũng là lý do chủ  
quan khiến NSDLĐ muốn đơn phương chấm dứt hợp đồng.  
Lý do khách quan  
Lý do như thay đổi cơ cấu tổ chức, NLĐ thường xuyên không hoàn thành công việc, do  
thiên tai, hỏa hoạn hoặc những lý do bất khá kháng khác khiến NSDLĐ không thể tiếp tục thực  
hiện HĐLĐ với NLĐ được nữa. Khi doanh nghiệp gặp phải những lý do bất khả kháng như địch  
họa, dịch bệnh, di dời hoặc thu hẹp địa điểm sản xuất, kinh doanh theo yêu cầu của cơ quan có  
thẩm quyền mà doanh nghiệp đã tìm mọi biện pháp khắc phục nhưng vẫn buộc phải thu hẹp sản  
xuất, giảm chỗ làm việc thì doanh nghiệp cũng có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ với NLĐ.  
Về phía NLĐ, nếu NSDLĐ không trả công đầy đủ như đã thỏa thuận trong hợp đồng thì họ  
có quyền đơn phương chấm dứt HĐLĐ. Hoặc phải nghỉ việc để chăm sóc vợ hoặc chồng, bố đẻ,  
mẹ đẻ, bố vợ, mẹ vợ hoặc bố chồng, mẹ chồng, con đẻ, con nuôi bị ốm đau, tai nạn, khi ra nước  
11  
ngoài sinh sống hoặc làm việc, gia đình gặp khó khăn do thiên tai, hỏa hoạn, địch họa, dịch bệnh  
hoặc chuyển chỗ ở mà người lao động đã tìm mọi biện pháp nhưng không thể tiếp tục thực hiện  
HĐLĐ.  
1.1.2.3. Căn cứ vào tính hợp pháp của việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ - là một trong những quyền của NLĐ và NSDLĐ mà pháp  
luật lao động quy định, cho phép họ được đơn phương chấm dứt HĐLĐ khi chưa hết hạn hợp  
đồng. Tuy nhiên không phải trong bất cứ trường hợp nào các bên cũng chấm dứt hợp đồng đúng  
pháp luật. Vậy căn cứ vào tính hợp pháp của việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ có thểphân loại  
thành hai trường hợp: Đơn phương chấm dứt HĐLĐ đúng luật và Đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
trái pháp luật.  
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ đúng luật  
Là trường hợp NLĐ và NSDLĐ tuân thủ đúng các quy định về căn cứ đơn phương chấm  
dứt HĐLĐ và thời hạn báo trước đượcquy định trong pháp luật lao động.  
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật  
Đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật là các trường hợp chấm dứt HĐLĐ không  
đúng quy định của pháp luật lao động. Như đơn phương chấm dứt HĐLĐ vi phạm căn cứ chấm  
dứt, chấm dứt HĐLĐ mà không viện dẫn được một trong các lý do quy định trong luật hoặc đơn  
phương chấm dứt HĐLĐ trái luật do vi phạm thủ tục theo quy định bao gồm việc báo trước, thủ  
tục trao đổi, nhất trí với ban chấp hành công đoàn cơ sở và những thủ tục đặc biệt khác tùy vào  
trường trường hợp chấm dứt.  
1.4  
Khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động  
1.4.1 Khái niệm, đặc điểm của giải quyết tranh chấp lao động  
Quan hệ lao động là quan hệ xã hội được xác lập dựa trên sự tự nguyện thỏa thuận giữa  
NLĐ NSDLĐ. Nhưng trong quan hệ đó, mỗi bên chủ thể đều có những lợi ích riêng không  
giống nhau, thậm chí có thể trái ngược nhau, vì vậy, khó có thể tránh khỏi những bất động giữa  
các bên, đặc biệt khi có sự vi phạm về quyền và không hài hòa về lợi ích.  
Pháp luật của hầu hết các nước trên thế giới đều đưa ra khái niệm về giải quyết tranh chấp  
lao động và định ra cơ chế để giải quyết tranh chấp lao động. Song mỗi quốc gia có những điều  
kiện kinh tế, chính trị, xã hội khác nhau, nên quan niệm về tranh chấp lao động cũng có sự khác  
nhau.  
12  
Luật quan hệ quản lý lao động (năm 1947) của Mỹ định nghĩa tranh chấp lao động bao  
gồm bất kỳ vụ tranh cãi nào liên quan đến các điều khoản, thời hạn hoặc điều kiện tuyển dụng  
hoặc liên quan đến tổ chức hoặc đại diện của những cá nhân trong thương lượng, tổ chức, duy trì,  
thay đổi hoặc cố gắng thỏa thuận các điều khoản hoặc điều kiện tuyển dụng, bất kể là người  
tranh cãi có quan hệ gần với NSDLĐ NLĐ.  
Trong đạo luật về quan hệ công nghiệp năm 1967 của Malaysia định nghĩa về tranh  
chấp lao động như sau: Tranh chấp lao động là bất kỳ một sự tranh chấp nào giữa NSDLĐ và  
công nhân của người đó mà có liên quan đến việc sử dụng lao động hay những điều kiện làm  
việc của bất kỳ một công nhân nào kể trên. Định nghĩa này đã chỉ ra được các chủ thể tham  
gia vào quan hệ lao động và phân định các lĩnh vực tranh chấp lao động phát sinh nhưng lại  
khó phân biệt tranh chấp lao động với các loại tranh chấp khác  
Bộ luật lao động năm 2012 đưa ra định nghĩa: “Tranh chấp lao động là tranh chấp về  
quyền, nghĩa vụ và lợi ích phát sinh giữa các bên trong quan hệ lao động” (Điều 3, Khoản 7)  
Như vậy, có thể thấy tranh chấp lao động không chỉ đơn thuần là tranh chấp về việc làm  
mà còn liên quan đến quá trình xác lập, duy trì và chấm dứt mối quan hệ lao động giữa NLĐ, tập  
thể NNSDLĐ. Ngoài ra tranh chấp lao động còn bao gồm cả các xung đột liên quan đến  
việc làm, học nghề, đại diện NLĐ… Tuy nhiên, tranh chấp lao động phát sinh khi những xung  
đột, bất đồng không thể dùng hòa được, các bên từ chối thương lượng hoặc đã thương lượng  
nhưng không giải quyết được và một trong các bên yêu cầu một tổ chức có thẩm quyền bảo vệ  
quyền và lợi ích của mình.  
Từ khái niệm, có thể thấy tranh chấp lao động có những đặc điểm sau:  
- Về chủ thể của tranh chấp lao động: Chủ thể của tranh chấp lao động bao gồm NLĐ, tập  
thể NLĐ, đại diện của NLĐ, NSDLĐ, đại diện của NSDLĐ. Quy mô và mức độ tham gia các  
chủ thể có thể làm thay đổi cơ bản tính chất và mức độ của tranh chấp.  
Trong tranh chấp lao động còn có sự tham gia của một chủ thể đặc biệt đó là tổ chức Công  
đoàn. Trong quan hệ lao động, NSDLĐ có đầy đủ điều kiện về vốn, vật tư, công nghệ, kỹ thuật,  
khả năng kinh doanh, ngược lại NLĐ chỉ có duy nhất một thứ đó chính là sức lao động của mình.  
Vì vậy, NLĐ thường ở vị thế yếu hơn so với NSDLĐ. Hơn nữa, sức lao động là một loại hàng  
hóa đặc biệt, khác hẳn với các loại hàng hòa khác là khi sử dụng nó tạo ra một giá trị lớn hơn giá  
13  
trị ban đầu, chính điều này càng nảy sinh sự bóc lột của những người “mua” nó. Để hạn chế sự  
bóc lột này, tổ chức công đoàn do những NLĐ tự nguyện lập ra nhằm mục đích thay họ bảo vệ  
những quyền và lợi ích chính đáng bị xâm hại.  
- Về đối tượng của tranh chấp lao động: tranh chấp lao động thường phát sinh từ việc thực  
hiện quyền và lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ lao động. Như vậy đối tượng của tranh  
chấp lao động chính là những giá trị vật chất, tinh thần gắn liền với quan hệ lao động. Tranh  
chấp lao động có thể phát sinh ngay cả khi có hoặc không có vi phạm pháp luật lao động.  
- Về phạm vi của tranh chấp lao động: tranh chấp lao động luôn phát sinh, tồn tại gắn liền với  
quan hệ lao động và quá trình lao động xã hội. Tức là nó phát sinh từ việc thực hiện quyền, nghĩa vụ  
và lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ lao động.  
Trong quan hệ lao động các bên chủ thể không bình đẳng về địa vị và không độc lập về tổ  
chức. NLĐ luôn bị ràng buộc với NSDLĐ về lợi ích kinh tế và thường ở vị thế yếu hơn so với  
NSDLĐ. NSDLĐ luôn mong muốn có lợi nhuận cao nên thường tìm cách để bóc lột sức lao  
động của NLĐ bằng các biện pháp như: tăng cường độ lao động, tăng thời gian lao động, giảm  
chi phí lao động … Vì vậy giữa các bên dễ này sinh những xung đột, bất đồng trong quá trình lao  
động. Nhưng chỉ những tranh chấp gắn liền với việc thực hiện quyền và nghĩa vụ lao động trong  
phạm vi pháp luật quy định hoặc do hai bên cam kết thì mới là tranh chấp lao động.  
1.4.2 Phân loại tranh chấp lao động  
Phân loại tranh chấp lao động không chỉ giúp cho việc tiếp cận, nghiên cứu dễ dàng hơn về  
tranh chấp lao động mà còn có ý nghĩa quan trọng trong thực tế. Nó giúp chúng ta có thể đưa ra  
các cơ chế giải quyết tranh chấp lao động môt cách phù hợp và có hiệu quả, đảm bảo được quyền  
và lợi ích của các bên trong quan hệ lao động.  
Tranh chấp lao động có thể phân loại theo những căn cứ khác nhau tùy thuộc và mục đích  
điều chỉnh hay nghiên cứu.  
* Căn cứ vào chủ thể của tranh chấp lao động:  
Căn cứ vào chủ thể của tranh chấp lao động có thể chia tranh chấp lao động thành hai  
loại: tranh chấp lao động cá nhân và tranh chấp lao động tập thể.  
- Tranh chấp lao động cá nhân là tranh chấp giữa cá nhân NLĐ NSDLĐ về quyền và lợi  
ích liên quan đến việc làm, tiền lương, thu nhập và các điều kiện lao động khác; về thực hiện hợp  
14  
đồng và trong quá trình học nghề, về xử lý kỷ luật theo hình thức sa thải hoặc trong trường hợp  
bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ, về bồi thường thiệt hại cho NSDLĐ.  
Tranh chấp lao động cá nhân thường mang tính chất đơn lẻ, không có sự liên kết tập thể  
giữa những NLĐ với nhau và thường phát sinh trong quá trình thực hiện, thay đổi, chấm dứt  
HĐLĐ hoặc trong việc thực hiện chế độ tiền lương, tiền thưởng, thời gian làm việc, điều kiện  
làm việc, bảo hiểm xã hội … mà chủ sử dụng lao động áp dụng với NLĐ. Tranh chấp lao động  
cá nhân cũng có thể diễn ra giữa một số NLĐ với NSDLĐ nhưng giữa những NLĐ này không có  
sự liên kết với nhau. Sự liên kết này được hiểu là giữa những NLĐ khi tham gia tranh chấp  
không có mục đích chung, không tham gia một cách có tổ chức, không có người lãnh đạo.  
- Tranh chấp lao động tập thể: theo định nghĩa của tổ chức lao động quốc tế ILO thì tranh  
chấp lao động tập thể là tranh chấp của số đông NLĐ có cùng nội dung tranh chấp và cùng một  
chủ sử dụng lao động.  
Chủ thể của tranh chấp lao động tập thể là tập thể NLĐ NSDLĐ. Một bên trong quan  
hệ này luôn là tập thể NLĐ. Nếu trong tranh chấp lao động cá nhân, NLĐ chỉ đơn độc đưa ra  
những yêu sách của mình thì trong tranh chấp lao động tập thể có sự cấu kết chặt chẽ giữa  
những NLĐ tạo nên sức mạnh vô hình, là yếu tố quan trọng quyết định sự thắng lợi của họ  
trong giải quyết tranh chấp lao động.  
* Căn cứ vào nội dung của tranh chấp  
Theo căn cứ này có thể chia tranh chấp lao động thành tranh chấp lao động về quyền và  
tranh chấp lao động về lợi ích.  
- Tranh chấp lao động về quyền: trong quan hệ lao động nếu có một bên vi phạm những  
quy định đã được ghi nhận ở HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể và các quy định trong luật lao  
động thì sẽ làm ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích của bên kia. Đó chính là những tranh chấp  
về quyền.  
Khi tham gia vào quan hệ lao động các bên được cùng nhau thỏa thuận các vấn đề có liên  
quan đến quá trình lao động trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng nhằm bảo đảm cho hai bên cùng có  
lợi và tạo ra các điều kiện để các bên có thể thực hiện tốt nghĩa vụ của mình đối với bên kia.  
Pháp luật lao động chỉ đưa ra các tiêu chuẩn, chuẩn mực cho hai bên thỏa thuận, các bên có thể  
cụ thể hóa các quyền và nghĩa vụ và ghi vào thỏa ước lao động tập thể và HĐLĐ.  
15  
- Tranh chấp lao động về lợi ích: bên cạnh việc đòi hỏi quyền lợi theo các cam kết đã được  
thỏa thuận tại HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể giữa hai bên hoặc theo quy định của pháp  
luật thì trong quá trình thực hiện quan hệ lao động, do ảnh hưởng của các yếu tố bên ngoài  
tác động làm thay đổi điều kiện lao động, dẫn đến việc các cam kết, thương lượng của các  
bên không còn phù hợp với thực tế hoặc không thể dự liệu hết các yêu cầu đòi hỏi khách  
quan. Điều này làm phát sinh những tranh chấp lao động về lợi ích khi có một bên đưa ra yêu  
cầu, đỏi hỏi không được xác định trước trong HĐLĐ, trong thỏa ước hay theo quy định của  
pháp luật đối với phía bên kia.  
* Căn cứ vào đối tượng tranh chấp: thì tranh chấp lao động có thể được chia thành tranh  
chấp lao động về việc làm, tranh chấp lao động về tiền lương và thu nhập, tranh chấp lao động về  
chấm dứt HĐLĐ, tranh chấp lao động về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi, về kỷ luật lao  
động và trách nhiệm vật chất, về tham gia và hoạt động công đoàn …  
1.3. Khái quát chung về giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt hợp đồng  
lao động  
Giải quyết tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là việc các cá  
nhân, cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành những thủ tục theo luật định nhằm giải quyết  
những tranh chấp khi NLĐ hoặc NSDLĐ đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động với phía bên  
kia nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bên bị xâm hại.  
Tranh chấp lao động về đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động là hiện tượng mang lại  
khá nhiều hệ lụy phiền toái cho NLĐ, NSDLĐ. Mặc dù pháp luật có những quy định tương đối  
cụ thể về căn cứ và thủ tục đơn phương chấm dứt HĐLĐ, nhưng trên thực tế ta thấy tình trạng  
đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật còn diễn ra phổ biến. Đơn phương chấm dứt HĐLĐ  
trái pháp luật không phải là vấn đề mới nhưng vẫn là vấn đề mang tính thời sự hiện nay bởi đơn  
phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật có ảnh hưởng trực tiếp và rất lớn tới nhiều đối tượng  
khác nhau như NLĐ, NSDLĐ…và ảnh hưởng rất lớn tới sự ổn định của xã hội nói chung.  
Về phía người lao động: Khi bị đơn phương chấm dứt HĐLĐ, NLĐ sẽ phải đối mặt với  
một loạt các vấn đề như: đảm bảo đời sống của cá nhân NLĐ, đời sống của gia đình, vợ chồng,  
cha mẹ, con cái của NLĐ, đặc biệt khi thu nhập của NLĐ là nguồn lực, cũng như quyết tâm để  
chiến thắng sức ép vì mất việc làm, mất thu nhập, sự không thông cảm của gia đình và xã hội,  
tâm lý chán nản sẽ dẫn họ đi vào con đường tệ nạn xã hội,  
16  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 72 trang yennguyen 28/03/2022 6520
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Đề tài Pháp luật về giải quyết tranh chấp khi đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động – Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_de_tai_phap_luat_ve_giai_quyet_tranh_chap_khi_don_ph.pdf