Báo cáo Đề tài Nghiên cứu thực trạng kinh tế hộ và đề xuất giải pháp sinh kế bền vững tại xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI  
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG  
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI CẤP SƠ SỞ NĂM 2013  
DO TRUNG TÂM QUẢN LÝ  
Tên đề tài  
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG KINH TẾ HỘ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP  
SINH KẾ BỀN VỮNG TẠI XÃ CAO SƠN, HUYỆN ĐÀ BẮC,  
TỈNH HÒA BÌNH  
số: QMT:12.01  
Chủ trì đề tài: CN. Lê Trọng Toán  
Trung tâm Nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường  
Đại học Quốc gia Hà Nội  
Nội, 2013  
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI  
TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU TÀI NGUYÊN VÀ MÔI TRƯỜNG  
BÁO CÁO TỔNG HỢP ĐỀ TÀI CẤP SƠ SỞ NĂM 2013  
Tên đề tài  
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG KINH TẾ HỘ VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP SINH KẾ BỀN  
VỮNG TẠI XÃ CAO SƠN, HUYỆN ĐÀ BẮC, TỈNH HÒA BÌNH  
Mã số: QMT:12.01  
Những người tham gia: 1. CN. Lê Trọng Toán (CRES)  
2. ThS. Hàn Tuyết Mai (CRES)  
3. CN. Nguyễn Duy Hòa (Khu Bảo tồn  
Thiên nhiên Ngọc Sơn, Ngổ Luông  
Hòa Bình)  
Hà Nội, 2013  
MỤC LỤC  
1
DANH MỤC HÌNH  
DANH MỤC BẢNG  
2
   
3
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Trong những năm đổi mới vừa qua, với sự hỗ trợ, ưu tiên của chính sách phát triển nhà nước,  
đặc biệt quan tâm, chú ý đối với kinh tế hộ của đồng bào các dân tộc miền núi và vùng cao,  
như một số chủ trương lớn đã được ban hành, đó là Nghị quyết 22/NQ-Tw của Bộ Chính trị,  
Quyết định số 72/HĐBT của Hội đồng bộ trưởng (nay là Chính phủ) rồi Nghị định số  
20/1998/NĐ-CP của Chính phủ, được triển khai thông qua các chương trình lớn như định  
canh định cư, xoá đói giảm nghèo, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, trợ cước, trợ giá...  
(Nguyến Văn Nam, 2002) nhờ đó mà sản xuất nông nghiệp miền núi đã có nhiều cố gắng và  
đạt được những tiến bộ bước đầu, hình thức kinh tế hộ gia đình nông dân miền núi đã có  
những đóng góp to lớn và quan trọng cho nền kinh tế quốc dân, chủ yếu trong lĩnh vực nông  
nghiệp. Sản xuất lúa gạo đạt tỷ suất hàng hóa khoảng trên 50%, cà phê 45%, cao su 85%, chè  
trên 60%, điều trên 90% (Đoàn Quang Thiệu, 2009)  
Tuy nhiên, so với những kết quả và thành tựu đạt được thì những tồn tại yếu kém của kinh tế  
hộ gia đình nông dân ở vùng núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn bị tác động nhiều yếu tố  
làm ngăn cản sự phát triển như trình độ dân trí còn thấp, sản xuất manh mún và nhỏ lẻ, mang  
tính tự cung tự cấp là chủ yếu, sinh kế phụ thuộc nhiều vào khai thác tài nguyên thiên nhiên,  
tiếp cận với thông tin thị trường yếu do địa hình vùng miền núi hiểm trở và chia cắt, hệ thống  
giao thông kém phát triển. Trung bình các tỉnh miền núi phía bắc có 82,6% giao thông là ô tô  
không vào được. ( Nguyễn Sinh Cúc, 1995)  
Do vậy, kinh tế thị trường chưa được phát triển và luôn chịu phụ thuộc nhiều vào nền kinh tế  
được cho là tốt hơn ở miền xuôi hay đồng bằng (Rambo, 1995; Li, 1999), khiến cho một bộ  
phận không nhỏ hộ gia đình đang vấp phải rất nhiều khó khăn và thách thức, nghèo đói ngày  
càng tăng. Thêm vào đó, biến đổi khí hậu làm gia tăng tần suất của những cơn mưa ác liệt gây  
nên lũ lụt; nhiều trận lũ quét đã tàn phá tài nguyên thiên nhiên, các công trình xây dựng,  
đường sá, thuỷ lợi, gây thiệt hại người và của cho các vùng núi cao lại càng cho sản xuất kinh  
tế hộ đã khó khăn lại càng khó khăn hơn (Võ Quý, 2005)  
Dân số tăng nhanh cũng là một mỗi thảm họa ở miền Núi, do tỷ lệ sinh thô lớn, tốc độ tăng  
lên hơn 300%. Mật độ dân số trung bình của một số vùng núi thường được cho là thưa thớt  
nay đã lên đến 75người/km2 (Lê Trọng Cúc, 1999). Cùng với sự gia tăng dân số, lao động dư  
thừa, chất lượng lao động thấp tạo ra các sản phẩm còn kém chất lượng, không theo kịp với  
thì trường bên ngoài, do phần lớn tình trạng lao động di cư đi làm thuê đến các đô thị lớn, nên  
việc quản lý và định hướng kế hoạch lâu dài cho phát triển kinh tế một số vùng địa phương  
miền núi đang gặp phải nhiều khó khăn.  
Về Môi trường: phần lớn kế sinh nhai của hầu hết người dân Miền núi là phụ thuộc vào kinh  
tế nông nghiệp, canh tác nương rẫy, khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là rừng, nhưng do  
một số mặt hạn chế nêu trên mà kinh tế nông nghiệp gặp khó khăn trong việc nâng cao cuộc  
sống do vậy mà họ đã khai thác tài nguyên một cách không bền vững dẫn đến tài nguyên rừng  
bị suy thoái và các dịch vụ hệ sinh thái bị xuống cấp, làm cho chức năng cung cấp của hệ sinh  
thái bị thiếu hụt nghiêm trọng, tài nguyên nước bị ảnh hưởng đời sống kinh tế của người dân  
miền núi gặp khó khăn.  
Xã Cao Sơn là một xã miền núi thuộc chương trình 135 của huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình.  
Cuộc sống của người dân trong xã đang gặp nhiều khó khăn do hệ thống đường xuống cấp,  
hàng hóa sản xuất ra giá bán chênh lệch nhiều so với thị trường thị trấn, thành phố. Thu nhập  
4
 
bình quân 200 nghìn/người/tháng còn chiếm hơn 50% tổng số dân và theo ông chủ tịch  
UBND xã cho biết hiện nay cả xã có hơn 300 hộ nghèo trên tổng số hộ. Diện tích đất nông  
nghiệp rất hạn chế do độ dốc quá lớn dẫn đến có ít hộ có khả năng tự túc được lương thực. Tỷ  
lệ hộ vay lương thực để ăn còn chiếm hơn 50%. Có 68,9% số hộ chưa được sử dụng nước  
sạch từ các bể nước công cộng. Nhiều bể nước sạch xa khu dân cư, hiệu quả sử dụng thấp  
hoặc không có giá trị sử dụng. Còn 29,5% số hộ chưa có ti vi, đài để nghe nên việc nắm bắt  
thông tin, để phát triển sản xuất, nâng cao đời sống rất hạn chế. Dân trí khu vực này còn thấp,  
đa số các em chỉ học hết tiểu học và trung học cơ sở, đặc biệt còn có 4,6% không biết chữ.  
(Nghiêm Huệ, 2010)  
Đáng chú ý là nhiều hộ ở xã Cao Sơn là những hộ dân tái định cư lòng hồ thuỷ điện trong  
diện đặc biệt khó khăn vẫn còn tâm lý dao động do chưa thích nghi với cuộc sống mới. Bà  
con rất lo sau này sẽ làm gì để ổn định cuộc sống (Nghiêm Huệ, 2010).  
Do vậy, nghiên cứu thực trạng kinh tế hộ nông dân ở xã Cao Sơn là vô cùng cấp thiết nhằm  
tìm ra những yếu tố thuận lợi, khó khăn và chưa bền vững trong phát triển kinh tế hộ và đề  
xuất giải pháp sinh kế bền vững phù hợp, giúp hộ nông dân phát triển sản xuất, nâng cao đời  
sống, xóa đói giảm nghèo, ổn định cuộc sống, giảm sức ép lên tài nguyên rừng, bảo tồn đa  
dạng sinh học trên thượng nguồn đập nước hồ Hòa Bình hướng tới nền sản xuất bền vững.  
Đề tài: “Nghiên cứu thực trạng phát triển kinh tế hộ và đề xuất giải pháp sinh kế bền  
vững tại xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình” được xây dựng và triển khai thực hiện  
nhằm đáp ứng nhu cầu thực tiễn cấp thiết này.  
II. MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU  
Nghiên cứu thực trạng kinh tế hộ gia đình và các nhân tố ảnh hướng đến việc phát triển kinh  
tế hộ từ đó đề xuất giải pháp thực tế từ địa phương cho việc phát triển kinh tế hộ theo hướng  
Sinh kế bền vững tại xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc tỉnh Hòa Bình.  
Cụ Thể:  
-
-
-
Tìm hiểu thực trạng phát triển kinh tế hộ tại xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình  
Tìm hiểu các nhân tố ảnh hướng đến việc phát triển kinh tế hộ tại địa phương.  
Đề xuất các giải pháp phát triển kinh tế hộ theo hướng sinh kế bền vững tại vùng nghiên  
cứu  
III. PHẠM VI VÀ ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU  
Tuy đề tài nghiên cứu trên phạm vi rộng về kinh tế hộ trong điều kiện địa hình rộng lớn và  
nhiều yếu tố ảnh hưởng phức tạp đến loại hình kinh tế này. Do điều kiện kinh phí cho phép,  
đề tài chỉ tập trung phân tích thực trạng kinh tế hộ của nhóm hộ điển hình theo phương pháp  
chọn mẫu để làm cơ sở cho việc phân tích và đánh giá thực trạng các nguồn lực chủ yếu trong  
phát triển sinh kế bền vững của nông hộ trong phạm vi của xóm Sèo ở xã Cao Sơn, huyện Đà  
Bắc, tỉnh Hòa Bình để làm đối tượng chính.  
IV. CÂU HỎI NGHIÊN CỨU  
-
Các nguồn lực kinh tế hộ của địa phương biến động như thế nào? Có làm thay đổi cơ  
cấu kinh tế , xã hội và môi trường tại cộng đồng địa phương không?  
5
     
-
Cần có giải pháp gì? giúp cho người dân ở đây phát triển kinh tế hộ theo hướng bền  
vững.  
Để trả lời các câu hỏi trên chúng tôi đã vận dụng các phương pháp tiếp cận và phương pháp  
thực hiện chính sau:  
V. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
1. Phương pháp luận  
Khái niệm về kinh tế hộ gia đình (KTHGD) là hình thức tổ chức kinh tế cơ sở của nền sản  
xuất xã hội trong đó các nguồn lực như đất đai, lao động, tiền vốn và tư liệu sản xuất được coi  
là của chung để tiến hành sản xuất. Có chung ngân quỹ, ngủ chung một nhà, ăn chung, mọi  
quyết định trong sản xuất kinh doanh và đời sống là tùy thuộc vào chủ hộ, được Nhà nước  
thừa nhận, hỗ trợ và tạo điều kiện để phát triển ( Phạm Thị Hương Dịu, 2009) Do vậy để  
nghiên cứu về kinh tế hộ ta cần nghiên cứu các nguồn lực tạo nên một hộ gia đình và các công  
cụ sản xuất ra nhằm duy trì cuộc sống của hộ gia đình. Vì thế phương pháp để nghiên cứu chủ  
yếu của đề tài này là sử dụng phương pháp phân tích hệ thống sử dụng nguyên lý cách tiếp  
cận hệ sinh thái nhân văn đổi với các nguồn lực chính đó là nguồn lực về lao động là nguồn  
lực về con người tạo ra các sản phẩm, nguồn lực thứ 2 đó là nguồn lực tự nhiên như đất đai để  
sản xuất nông nghiệp tạo ra của cải vật chất phục vụ cho đời sống hàng ngày của hộ, thứ 3 là  
chúng tôi nghiên cứu đến các tài sản của hộ, các loại tài sản này có thể tạo ra các nguồn thông  
tin để tiếp cận với thông tin thị trường, cũng như nguồn năng lượng về tinh thần và văn hóa  
cho hộ, thứ 4 là nguồn lực về tài chính là các loại vồn về tiền mặt, tiền vay hay nói cách khác  
là năng lực tài chính phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh của hộ và thứ 5 là nguồn lực vật lý  
đó là các tài sản để tạo ra môi trường sống của con người trong hộ như các dung cụ sản xuất,  
các công cụ tạo sự thỏa mãn cho con người trong hộ như các vật dụng phục vụ cho đời sống  
hàng ngày của hộ. Để phân tích đầy đủ các nguồn lực này chúng tôi đã đi sâu phân tích các  
đối tượng mà chúng tôi nhân thấy là ảnh hưởng lớn đến các các nguồn lực này đó là các đối  
tượng hay yếu tố sau:  
(1) điều kiện tự nhiên phức tạp; (2) dân cư, dân số đa dạng và tăng nhanh; (3) môi trường  
suy thoái; (4) cơ sở hạ tầng nghèo nàn; (5) thông tin, thị trường yếu kém; (6) học vấn  
thấp; (7) nghèo đói; (8) chính sách chưa phù hợp. đồng thời tìm ra những điểm mạnh  
điểm yếu nhằm đề xuất sinh kế bền vững theo phương pháp tiếp cận khung sinh kế  
bền vững do DFID xây dựng năm 2009.  
Để phân tích các nguồn lực kinh tế nông hộ tại xã Cao Sơn chúng tôi đã tiếp cận dựa trên  
khung sinh kế bền vững để phân tích các nuồn lực kinh tế của người dân.  
Thuật ngữ “sinh kế bền vững” được sử dụng đầu tiên như là một khái niệm phát triển vào  
những năm đầu 1990. Tác giả Chambers và Conway (1992) định nghĩa về sinh kế bền vững  
như sau: Sinh kế bền vững bao gồm con người, năng lực và kế sinh nhai, gồm có lương thực,  
thu nhập và tài sản của họ. Ba khía cạnh tài sản là tài nguyên, dự trữ, và tài sản vô hình như  
dư nợ và cơ hội. Sinh kế bền vững khi nó bao gồm hoặc mở rộng tài sản địa phương và toàn  
cầu mà chúng phụ thuộc vào và lợi ích ròng tác động đến sinh kế khác. Sinh kế bền vững về  
mặt xã hội khi nó có thể chống chịu hoặc hồi sinh từ những thay đổi lớn và có thể cung cấp  
cho thế hệ tương lai. Việc vận dụng khung sinh kế bền vững này nhằm tìm ra giải pháp để  
phát triển sinh kế bề vững nhằm xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống cho người dân.  
6
   
2. Phương pháp nghiên cứu  
2.1. Thu thập số liệu:  
Nhóm nghiên cứu đã tổ chức điều tra thực địa và tiến hành thu thấp số liệu tại điểm nghiên  
cứu 3 lần  
Đợt 1 được điều tra vào thời gian từ ngày 2-5/6/2013 nhóm đã khảo sát điểm nghiên cứu là xã  
Cao Sơn để thu thập tất cả các báo các về kinh tế xã hội, các thông tin về hộ và tình hình phát  
triển kinh tế tại xã, thu thấp các tài liệu thống kê, các báo cáo ngghiên cứu đã thực hiện trên  
địa bàn,và phóng vấn một số cán bộ ở xã, chọn địa điểm một thôn để lấy mẫu phóng vấn hộ,  
qua sự hiểu hiết sơ qua tình hình của xã nhóm đã quyết định chọn xóm Sèo là xóm để lấy  
thông tin và phóng vấn hộ, đồng thời chuẩn bị kế hoạch cho đợt thực địa tiếp theo vào tháng  
9.  
Sở dĩ chúng tôi chọn xóm Sèo là vì xớm sèo là một xóm có đầy đủ các tiêu chỉ mà chúng tôi  
lựa chọn vừa có tính dân tộc vừ à rừng có nông nghiệp lúa nước vừa có làm rẫy và có dân số  
lớn thứ 2 trong toàn xã do vậy xóm này có thể đại diện cho toàn xã.  
Đợt thực địa thứ 2 là vào ngày 4-15/9/2012 đợt thực địa này mục đích là làm những việc như  
phóng phấn 42 hộ tại xóm Sèo xã Cao Sơn để phân tích về thực trạng kinh tế hộ của người  
dân ở đây.  
Trong đợt thực địa này nhóm tập trung thực hiện 3 phấn đề chính đó là:  
1. Phỏng vấn cấu trúc: Về phóng vấn hộ theo hệ thông bảng hỏi có cấu trúc đã được thiết  
kế sẵn (xem phụ lục 2) và được phỏng vấn thử vào đợt thực địa thức nhất, sau khi  
được sửa lại, thêm vào những chỗ còn thiếu và bỏ đi những vất đề bất hợp lý và đưa  
vào thực hàng cho thực địa đợt 2. Trong đợt 2 nhóm đã chọn ra 42 hộ ở xóm Sèo theo  
phương thức chọn mẫu ngẫu nhiên theo số thứ tự trong danh sách của trưởng thôn.  
Trong đó có đủ các thành phần về chủ hộ có nam, nữ, giàu và nghèo.  
2. Phương pháp RRA: Nghiên cứu sử dụng các công cụ RRA, để thu thập thông tin trong  
quá trình phong vấn nhóm để tìm hiểu các thông tin chung về tình hình kinh tế của  
xóm. Như các nguồn thu chính, tình hình đói nghèo, các tiêu chí đánh giá giàu nghèo.  
v.v..  
3. Phỏng vấn sâu cán bộ và người dân: Từ những hiểu biết sơ qua về thôn xóm, nhóm đã  
chia ra các thành viên và phóng vấn một số cán bộ phục trách về các bộ phận như  
phòng quản lý đất đai, phòng tài nguyên và môi trường để hiểu về tình hình sử dụng  
đất của thôn. Tình hình đói nghèo, thực trạng sử dụng các nguồn vốn sinh kế trong  
những năm qua, khả năng tiếp cận các nguồn vốn sinh kế của người dân. Yếu tố thúc  
đẩy và cản trở người dân tiếp cận nguồn lực. Đây là những thông tin định tính quan  
trọng phục vụ cho nghiên cứu.  
Đợt thực địa lần 3 được tổ chức vào ngày 10-15/10/2013 nhằm thu thập thêm các thông tin bổ  
sung để viết báo cáo tổng hợp, nhóm đị thực tế 5 ngày thu những tài liệu cần thiết còn thiếu  
và các số liệu cập nhật cho việc đánh giá tình hình phát triển kinh tế năm 2013 bao gồm  
những số liệu về tình hình dân số, sử dụng đất và các thông tin về thị trường các mặt hàng  
nông sản tại xã cao Sơn.  
7
   
2.2. Phân tích số liệu  
1. Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp này được vận dụng để mô tả bức tranh tổng  
quát về tình hình cơ bản các địa bàn nghiên cứu, thực trạng nghèo đói, thực trạng các  
nguồn lực sinh kế cho giảm nghèo bền vững tại các địa phương. Bằng phương pháp này  
chúng ta có thể mô tả được những nhân tố thuận lợi và cản trở trong việc phát triển  
nguồn vốn sinh kế đối với hộ.  
a. Phương pháp phân tích so sánh: Từ việc phân nhóm thống kê các nhóm hộ theo các tiêu  
chígiàu nghèo, chúng tôi đã so sánh các nhóm hộ với nhau về điều kiện và khả năng tiếp  
cận nguồn vốn sinh kế. Trên cơ sở đó phân tích được mức độ ảnh hưởng, nguyên nhân  
của hạn chế giữa các nhóm hộ. So sánh giữa các nhóm giàu nghèo, dễ dàng hay khó khăn  
đối với từng nguồn lực và khả năng của người dân trong việc phát triển kinh tế h.  
b. Phương pháp phân tích định tính: Dựa vào nguồn số liệu PRA, phóng vấn sâu, để phân  
tích định tính các vấn đề liên quan đến nghèo đói, những khó khăn trở ngại, các nhân tố  
hỗ trợ người dân phát triển các nguồn vốn sinh kế để giảm nghèo bền vững.  
VI. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
1. Một số đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội tại điểm nghiên cứu  
1.1. Điều kiện tự nhiên.  
1.1.1. Vị trí địa lý  
Cao Sơn là một trong những xã vùng cao của huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình. Ranh giới của xã  
như sau:  
- Phía Đông Nam giáp xã Tu lý, Thị trấn Đà Bắc;  
- Phía Nam giáp Vầy Nưa, Hiền Lương, Tiền phong;  
- Phía Tây giáp xã Trung thành;  
- Phía Bắc giáp xã Tân Minh, Thanh Sơn - Phú Thọ;  
Trên địa bàn xã có 9 xóm: Sèo, Sơn Phú, Nà Chiếu, Rằng, Tằm, Lanh, Sơn Lập, Bại, Sưng.  
Là xã có vị trí tương đối thuận lợi hơn các xã khác, nằm cách trung tâm huyện lỵ Đà Bắc 10  
km về phía Tây Bắc. Trên địa bàn xã có tuyến đường nhựa nối trung tâm xã với Thị trấn Đà  
Bắc và Thành phố Hòa Bình. Với vị trí địa lý như trên, xã Cao Sơn có điều kiện đầu tư xây  
dựng cơ sở hạ tầng và giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với các xã trong và ngoài  
huyện. ( xem hình 1)  
8
       
Hình 1. Vị trí đị lý của xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình  
1.1.2. Địa hình.  
Do kiến tạo địa chất xã Cao Sơn có trên 90% diện tích là đồi núi, có địa hình chia cắt, phức  
tạp, độ dốc cao, có thể phân theo 4 khu vực chia theo độ dốc: khu vực có độ dốc từ 25 – 300;  
khu vực đất bằng với độ dốc 8 – 100; khu vực đồi có độ dốc 25 – 500; khu vực núi đá có độ  
dốc rất cao và hiểm trở.  
Địa hình xã Cao Sơn như vậy ảnh hưởng tới việc bố trí sản xuất, phát triển cơ sở hạ tầng mà  
đặc biệt là hệ thống giao thông trên địa bàn.  
1.1.3. Khí hậu, thời tiết.  
Cao Sơn nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, được chia làm 2 mùa rõ rệt; mùa mưa  
hàng năm từ tháng 5 đến tháng 10, đây cũng là mùa có nhiệt độ cao trong năm, nhiệt độ cao  
nhất vào tháng 6 và tháng 7. Mùa khô hàng năm thường từ tháng 11 đến tháng 4 năm sau, đây  
cũng là mùa có nhiệt độ thấp, thời gian lạnh nhất vào tháng 12 và tháng 1 năm sau.  
a) Nhiệt độ  
Nhiệt độ trung bình năm khoảng 24,40C, nhiệt độ thấp nhất là 15,30C vào tháng 1; nhiệt độ  
cao nhất là 29,50C vào tháng 6. Tổng lượng nhiệt trong năm từ 8.300-8.5000C.  
b) Lượng mưa  
Mùa mưa ở đây kéo dài từ tháng 5 đến tháng 10 và mùa khô bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4  
năm sau. Lượng mưa ở đây tương đối ít có tháng chỉ 0,7 mm. Tổng lượng mưa hàng năm toàn  
xã đạt 1200-1300 mm. Ngoài ra còn có hiện tượng mưa phùn (32 ngày/năm) và có ít bão.  
c) Độ ẩm không khí  
Trung bình cả năm là 82%.  
9
 
- Độ ẩm trung bình cao nhất 87% (tháng 7 hàng năm).  
- Độ ẩm trung bình thấp nhất 76% (tháng 11hàng năm).  
d) Hướng gió  
Hướng gió cũng thay đổi theo mùa rõ rệt và phù hợp với sự thay đổi của hoàn lưu gió mùa,  
nhưng do vướng núi nên tốc độ gió nhỏ hơn so với vùng đồng bằng bắc bộ. Tốc độ gió trung  
bình 1,8m/s, hướng gió chính: Đông, Đông Nam và Tây Nam.  
Nhìn chung khí hậu của Cao Sơn với các đặc điểm khí hậu nóng ẩm, lượng bức xạ cao khá  
thuận lợi trong sản xuất nông lâm nghiệp với thế mạnh là cây hàng năm, tre lấy măng, chăn  
nuôi đại gia súc,....Tuy nhiên do lượng mưa phân bố không đều, tập trung vào một số tháng  
mùa mưa gây ra úng lụt với những chân ruộng trũng, tạo dòng chảy lớn gây xói mòn đất vùng  
đồi. Nhiệt độ xuống thấp vào mùa đông, thiếu ánh sáng, lại ít mưa gây hạn hán cho cây trồng  
vụ Đông, Xuân và đời sống của nhân dân.  
1.1.4. Tài nguyên thiên nhiên.  
a) Tài nguyên đất.  
*) Đặc điểm thổ nhưỡng  
Đất đai của xã có 3 loại chính là đất nâu đỏ trên đá vôi, đất feranit và đất vàng nhạt trên đá sa  
thạch.  
-
-
-
Đất nâu đỏ trên đá vôi chiếm 3% diện tích đất toàn xã, tập trung ở khu vực giáp suối  
Trầm. Thành phần cơ giới nặng, cấu tượng tốt, tơi xốp. Đất có độ PH thấp (chua), hàm  
lượng Al+++ di động cao, các cation kiềm và kiềm thổ bị rửa trôi mạnh, độ no bazơ  
thấp.  
Đất feralit chiếm 31% diện tích đất toàn xã. Thành phần cơ giới trung bình đến nặng,  
pHKCl trung bình tầng mặt 3,81. Hàm lượng P2O5 tổng số ở mức thấp, trung bình tầng  
mặt 0,07%. Hàm lượng K2O tổng số tầng mặt trung bình 1,01%. Hàm lượng đạm ở  
mức thấp, trung bình tầng mặt 0,16%.  
Đất vàng nhạt trên đá sa thạch chiếm 64% diện tích đất của xã. Thành phần cơ giới  
tương đối nhẹ hơn so với đất phiến thạch sét nên đất vàng nhạt trên sa thạch thường bị  
xói mòn mạnh, tầng đất tương đối mỏng và nhiều nơi trơ sỏi đá. Chỉ có một số nơi địa  
hình núi cao, thảm thực vật che phủ khá mới có độ dày tầng đất từ 50 ÷ 70 cm. Đất  
vàng nhạt trên sa thạch thường nghèo dinh dưỡng, ở các vùng núi cao lượng mùn từ  
1,5 ÷ 2,5%; ở vùng thấp lượng mùn thường không quá 1,5%. Các chỉ tiêu như đạm,  
lân, kali điều nghèo, độ chua cao pHKCL < 4, độ bazơ thấp, thành phần cơ giới từ thịt  
nhẹ đến cát pha, hạt rời rạc, khả năng giữ nước và kết dính kém, thành phần keo sét  
thấp, khả năng giữ màu kém.  
-
Đất phù sa chiếm diện tích nhỏ. Là loại đất được hình thành do bồi tụ sản phẩm phù sa  
của suối là nhóm đất quan trọng trong sản xuất lương thực và các cây công nghiệp  
ngắn ngày khác. Thành phần cơ giới trung bình, hàm lượng pHKCl tầng mặt trung bình  
4,33, các tầng kế tiếp trung bình ở ngưỡng 5,73. Đạm tầng mặt trung bình 0,1%, các  
tầng kế tiếp trung bình 0,06%. Hàm lượng lân tổng số P2O5 ở mức trung bình, tầng  
mặt trung bình 0,08%, tầng sâu trung bình 0,06%. Hàm lượng ka li K2O trong đất ở  
10  
các tầng ở mức trung bình đến cao, tầng mặt trung bình 0,9%, tầng sâu trung bình  
1,19%.  
*) Hiện trạng sử dụng đất.  
- Tổng diện tích tự nhiên toàn xã: 5030,53 ha trong đó:  
+ Đất nông nghiệp: 3.894,05 ha chiếm 77,41%.  
+ Đất phi nông nghiệp: 268,13 ha chiếm 5,33%.  
+ Đất chưa sử dụng: 868,35 ha chiếm 17,26%.  
Bảng 1. Hiện trạng sử dụng đất năm 2011 xã Cao Sơn  
STT  
Chỉ tiêu  
Diện tích (ha) Cơ cấu (%)  
TỔNG DIỆN TÍCH TỰ NHIÊN  
5030,53  
3894,05  
101,1  
209,10  
60  
100  
1 Đất nông nghiệp  
Đất lúa nước  
77,41  
1.1  
1.2  
1.3  
1.4  
1.5  
1.6  
Đất trồng cây hàng năm còn lại  
Đất trồng cây lâu năm  
Đất rừng phòng hộ  
1906,7  
1578,95  
38,2  
Đất rừng sản xuất  
Đất nuôi trồng thủy sản  
2 Đất phi nông nghiệp  
Đất xây dựng trụ sở cơ quan, công trình sự nghiệp  
Đất cho hoạt động khoáng sản  
Đất di tích danh thắng  
268,13  
0,5  
5,33  
2.1  
2.2  
2.3  
2.4  
2.5  
2.6  
12,00  
0,3  
Đất nghĩa trang, nghĩa địa  
Đất sông, suối  
13,5  
75,1  
Đất phát triển hạ tầng  
34,03  
868,35  
153,93  
3 Đất chưa sử dụng  
17,26  
3,06  
4 Đất khu dân cư nông thôn  
(Nguồn: Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Đà Bắc)  
11  
 
Đất ở hiện tại có 132,7 ha, chiếm 2,74% diện tích đất tự nhiên tập trung tại 9 xóm trong xã.  
Xóm dân cư nông thôn đã được hình thành từ lâu đời gắn liền với truyền thống văn hoá cộng  
đồng làng xã. Bình quân đất ở mỗi hộ 1.365 m2/hộ, mật độ xây dựng trung bình 15-20%.  
b) Tài nguyên rừng:  
Theo tài liệu tổng kiểm kê đất đai năm 2010, diện tích đất lâm nghiệp toàn xã là 3.485,65 ha.  
Trong đó rừng sản xuất 1.578,95 ha, rừng phòng hộ 1.906,7 ha. Độ che phủ đạt 69,29%.  
Thảm thực vật trên địa bàn xã tương đối phong phú, đa dạng, tuy nhiên diện tích rừng của xã  
chủ yếu là rừng tái sinh nên thảm thực vật phổ biến là tre nứa, cây bụi và một số loại gỗ tái  
sinh, trữ lượng gỗ thấp.  
c) Tài nguyên nước:  
- Nguồn nước mặt: Do địa hình chia cắt nên Cao Sơn có hệ thống suối đa dạng như suối  
Trầm, suối Láo, suối Sổ, suối Sưng... đây chính là nguồn cung cấp nước sinh hoạt, nước tưới  
cho phát triển nông nghiệp. Ngoài ra Cao Sơn còn có hồ Nà Chiếu, hồ Tằm và một số hồ nhỏ  
dự trữ nước và điều tiết nước phục vụ cho phát triển sản xuất.  
- Nguồn nước ngầm: hiện chưa có công trình khảo sát và đánh giá chất lượng và trữ lượng  
nước ngầm trên địa bàn, tuy nhiên qua khảo sát sơ bộ cho thấy nước ngầm phân bố không  
đều. Các vùng cao có trữ lượng nước ngầm thấp và khó khai thác. Hiện nay nước ngầm đang  
được khai thác sử dụng vào đời sống sinh hoạt của nhân dân thông qua các giếng đào ở độ sấu  
10 đến 15 m.  
1.1.5. Thực trạng môi trường xã.  
Hiện nay, môi trường sinh thái trên địa bàn xã tương đối trong lành. Tuy nhiên trong những  
năm gần đây môi trường sinh thái trên địa bàn xã chịu tác động mạnh từ một số hoạt động của  
con người như: sản xuất nông nghiệp, đầu tư xây dựng các công trình giao thông,... đã phần  
nào làm xói mòn và rửa trôi đất. Hơn nữa hiện tượng phát nương làm rẫy của đồng bào dân  
tộc đã ảnh hưởng không nhỏ tới thảm thực vật và độ che phủ của rừng gây các tác động xấu  
đến môi trường sinh thái của xã.  
1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội.  
1.2.1. Điều kiện kinh tế  
a) Giá trị sản xuất, tốc độ tăng trưởng.  
Tốc độ tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân trong giai đoạn 2006 - 2010 đạt 12,63%/năm;  
trong đó tốc độ tăng trưởng của ngành nông - lâm, thủy sản đạt 13,27%/năm; ngành tiểu thủ  
công nghiệp đạt 17,84%/năm; và thương mại dịch vụ đạt 32,54%/năm.  
Tổng giá trị sản xuất năm 2010 đạt 36.000 triệu đồng (giá hiện hành), thu nhập bình quân đầu  
người đạt 9 triệu đồng/người/năm.  
12  
 
Bảng 2. Giá trị sản xuất xã Cao Sơn giai đoạn 2006 – 2011  
Đơn vị: Triệu đồng  
Tốc độ (%/năm)  
12,63  
STT  
I
Hạng mục  
Giá trị sản xuất  
Năm 2006  
9.333,33  
7.653,33  
746.67  
933.33  
14 000  
11.480  
1.120  
Năm 2011  
16,920  
12.600,00  
1.440,00  
2,880  
1
Nông - lâm, thủy sản  
Tiểu thủ công nghiệp  
Thương mại dịch vụ  
Giá trị sản xuất (giá HH)  
Nông - lâm nghiệp  
Tiểu thủ công nghiệp  
Thương mại dịch vụ  
Cơ cấu (%)  
13,27  
2
17,84  
3
32,54  
II  
1
36 000  
25.200  
3.600  
2
3
1.400  
7.200  
III  
1
100  
100  
Nông - lâm, thủy sản  
Tiểu thủ công nghiệp  
Thương mại dịch vụ  
82,00  
70,00  
2
8,00  
10,00  
3
10,00  
20,00  
(Nguồn: UBND xã Cao Sơn)  
b) Chuyển dịch cơ cấu giá trị sản xuất  
Trong giai đoạn 2006 - 2010 đã có sự chuyển dịch theo hướng giảm cơ cấu GTSX ngành  
nông lâm thủy sản, tăng cơ cấu giá trị ngành thương mại dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp. Cụ  
thể, năm 2010 tỷ trọng ngành nông lâm thủy sản còn chiếm 70% trong tổng GTSX, giảm  
12%; thương mại và dịch vụ chiếm 20% tăng 10% và công nghiệp xây dựng chiếm 10% tăng  
2%/năm so với năm 2006.  
13  
 
1.2.2. Điều kiện xã hội  
a) Dân số, lao động.  
Bảng 3. Dân số, lao động xã Cao Sơn năm 2011  
Lao động  
Số  
hộ  
Hộ  
nghèo  
TT  
Xóm  
Số khẩu  
Nông  
nghiệp  
Phi nông  
nghiệp  
Tổng số  
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Xóm Sèo  
192  
213  
133  
97  
62  
87  
63  
43  
48  
34  
22  
34  
34  
427  
703  
737  
529  
385  
442  
250  
232  
345  
337  
3960  
456  
524  
328  
254  
236  
142  
142  
167  
179  
2428  
395  
435  
291  
196  
203  
114  
126  
148  
165  
2073  
61  
89  
37  
58  
33  
28  
16  
19  
14  
355  
Xóm Sơn Phú  
Xóm Nà Chiếu  
Xóm Rằng  
Xóm Tằm  
88  
Xóm Lanh  
Xóm Sơn Lập  
Xóm Bai  
59  
63  
66  
Xóm Sưng  
Tổng số  
61  
972  
(Nguồn: UBND xã Cao Sơn, 2011)  
- Dân số toàn xã có 3.960 người với 972 hộ.  
- Số người trong độ tuổi lao động 2.428 người trong đó;  
+ Lao động trong lĩnh vực nông lâm nghiệp, thủy sản: 2.073 người chiếm 85,38% tổng  
số lao động.  
+ Lao động phi nông nghiệp: 355 lao động chiếm 14,62% tổng số lao động.  
Số hộ nghèo: 427 hộ chiếm 43,93%.  
-
b) Thành phần dân tộc  
Là một xã miền núi có bốn dân tộc anh em cùng sinh sống, dân tộc Tày chiếm 21,1%, Dao  
28,6%, dân tộc Mường chiếm cao nhất 38% và dân tộc Kinh có tỷ lệ ít nhất 12,2%. Cao Sơn  
có các giá trị văn hóa truyền thống phi vật thể mang tính đặc thù của địa phương: Hát ví, hát  
giang dân tộc Mường, lễ lập tĩnh dân tộc Dao... Người dân Cao Sơn có truyền thống đoàn kết,  
hiền hòa, cần cù trong lao động, huyện có số đông đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống đến  
nay vẫn giữ nguyên được những nét văn hóa đặc trưng mang đậm bản sắc văn hóa vùng miền  
dân tộc.  
14  
 
Trong những năm gần đây các cấp các ngành trên địa bàn xã đã chú trọng đến công tác giáo  
dục, đào tạo nghề nhằm từng bước nâng cao trình độ dân trí, đào tạo nguồn lao động có chất  
lượng ngày càng cao đáp ứng được nhu cầu sản xuất của các ngành.  
c) Phân bố dân cư.  
Dân cư trên địa bàn xã phân bố ở 9 xóm. Mật độ dân số thấp, năm 2010 mật độ dân số trung  
bình toàn xã đạt 80 người/km2. Xóm có dân số cao nhất là xóm Nà Chiếu (529 người). Tuy  
nhiên, phân bố dân cư trên địa bàn khá phân tán, một xóm thường có nhiều khu tập trung từ 5  
– 15 hộ/khu. Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến đầu tư cơ sở hạ tầng nông thôn của xã (nhất  
là đối với phát triển mạng lưới giao thông nông thôn, điện, nước sinh hoạt).  
2. Kinh tế hộ xóm Sèo xã Cao Sơn  
Để phân tích thực trạng kinh tế hộ tại xã Cao Sơn được chi tiết chúng tôi đã điều tra và thu  
thập số liệu tại xóm Sèo để làm điểm lấy mẫu nghiên cứu vì xóm Sèo là một trong 9 xóm của  
xã Cao Sơn, có tổng dân số và số lượng lao động lớn thứ 2 trong toàn xã. Đến năm 2010 theo  
UBND xã Cao Sơn, trong xóm có tất cả 192 hộ dân, 703 khẩu và có 62 hộ nghèo. Tổng số  
dân số trong độ tuổi lao động là 456 trong đó có 395 lao động trong sản xuất nông nghiệp còn  
lại 61 lao động làm các dịch vụ và công việc khác. Tổng diện tích đất tự nhiên: 337.7 ha trong  
đó đất ở là 29.8 ha, đất sản xuất là 72.7 ha còn lại 235.2 ha là đất khác.  
Tại xóm Sèo chúng tôi đã thực hiện một cuộc điều tra phóng vấn 42 hộ gia đình được lấy  
ngẫu nhiên theo thứ tự số trong danh sách của trưởng thôn theo phương pháp chọn mẫu đã  
nếu ở trên.  
Chú yếu trong phần này chúng tôi mô tả hiện trạng kinh tế chung của xóm Sèo mà chúng tôi  
lựa chọn làm mẫu để nghiên cứu, đồng thời còn cho biết kết quả phân tích về mức độ biến  
động của kinh tế hộ trong xóm. Dựa theo khung phân tích sinh kế bền vững, trong phạm vi  
bài viết này chúng tôi tập trung đi vào phân tích năm nguồn lực chính của kinh tế hộ đó là các  
nguồn lực sau:  
1) Nguồn lực con người bao gồm các chỉ tiêu để đánh giá như tỷ lệ phụ thuộc, số năm đi  
học và khả năng biết đọc biết viết tiếng phổ thông  
2) Nguồn lực sản xuất là những thành phần như đất đai, tình hình sử dụng đất đai và chăn  
nuôi  
3) Nguồn lực tài sản vật chất bao gồm các tài sản của hộ có giá trị như nhà cửa, đồ đạc  
cũng như các loại tài sản và vật dụng gia đình khác phục vụ cho đời sống và sản xuất  
của nông hộ.  
4) Nguồn lực về kinh tế : như thu nhập và chi tiêu, bao gồm cả nguồn thu nhập và thu  
nhập, các khoản chi tiêu và lượng tiền chi tiêu; và cân đối thu - chi của nông hộ.  
5) Nguồn lực xã hội: như tiếp cận vốn, nợ nần và hướng đầu tư phát triển, tiếp cận thông  
tin và các cơ hội trong thị trường, việc làm và cấu trúc nghề nghiệp.  
15  
 
2.1. Nguồn lực con người  
Nguồn vốn con người ở xóm Sèo được chúng tôi miêu tả dựa trên cơ sở phân tích và đánh giá  
ba chỉ tiêu quan trọng là (1) cấu trúc tuổi của dân số, (2) tỷ lệ lao động chính với người ăn  
theo, và (3) số năm đi học của người lớn trong gia đình.  
2.1.1. Cấu trúc tuổi  
Khi phân tích cấu trúc tuổi của dân số trong xóm, chúng tôi thường quan tâm đến ba nhóm  
tuổi chính: lứa tuổi trẻ em (14 tuổi hay ít hơn), lứa tuổi lao động (15 - 59) và lứa tuổi già (từ  
60 tuổi trở lên). Ba nhóm tuổi này có quan hệ mật thiết đến chức năng kinh tế của hộ. Bảng 4  
và đồ thị 2 cho biết cấu trúc tuổi dân số của của 42 hộ tại xóm Sèo mà chúng tôi đang nghiên  
cứu.  
Bảng 4. Phân bố lứa tuổi (%) n = 42  
Tuổi  
<= 14  
15 - 59  
>= 60  
Số người  
281  
Tỷ lệ %  
40,0  
387  
55,0  
35  
5,0  
Nhìn vào bảng ta thấy, lứa tuổi từ 14 tuổi trở xuống chiếm tỷ lệ chiếm (40%), cho thấy dân số  
còn tiếp tục tăng nhanh ít nhất là trong hai thập niên tới. Con số này cũng cho biết số người ăn  
theo trên một lao động chính.  
Lứa tuổi 15-59 là lực lượng lao động chủ yếu ở xóm Sèo chiếm tỷ lệ là (55%). Lứa tuổi trên  
60 tuổi là (5%) Nhìn chung, tỷ lệ người cao tuổi ở xóm này tương đối thấp, điều này cho thấy  
người già ở đây không phải là gánh nặng kinh tế của các nông hộ.  
60  
55  
50  
40  
40  
<= 14  
15 - 59  
30  
20  
>= 60  
10  
5
0
xóm Sèo  
Hình 2. Phân bố khẩu theo tuổi  
16  
     
2.1.2. Tỷ lệ phụ thuộc  
Tỷ lệ phụ thuộc cho biết số trẻ em dưới 15 tuổi và số người già trên 60 tuổi mà một lao động  
chính1 có trách nhiệm nuôi dưỡng. Trên thực tế, ở các cộng đồng dân cư miền núi thì cả trẻ  
con và người già cũng phải làm rất nhiều việc, nhất là những công việc gia đình như lấy củi,  
gùi nước hay cắt cỏ, nên sự đóng góp của trẻ con và người già vào kinh tế nông hộ không phải  
là nhỏ, mặc dù những người này bị coi là 'người ăn theo' theo những quy định hiện hành.  
Ngoài giờ đi học, trẻ con cũng đã tham gia làm nhiều công việc giúp bố mẹ ngay từ khi chúng  
còn rất nhỏ, do vậy tỷ lệ phụ thuộc thực tế thấp hơn khá nhiều so với những số liệu trong bảng  
5
Bảng 5. Tỷ lệ phụ thuộc (Số lượng hộ và tỷ lệ %)  
Số tuổi  
<0,5  
Số hộ  
Tỷ lệ %  
17  
6
40  
0,5-0,9  
1-1,4  
14  
21  
19  
5
9
1,5-1,9  
8
2-2,4  
2,5  
2
0
0
Trung bình  
0,82  
Tỷ lệ hộ có tỷ lệ phụ thuộc nhỏ hơn 1 tuổi tại xóm Sèo 40 %. Mối quan hệ giữa tỷ lệ phụ  
thuộc của hộ thường liên hệ rất chặt chẽ với thực trạng phát triển kinh tế của cộng đồng,  
nhưng nhiều nghiên cứu cho rằng. Những cộng đồng có tỷ lệ phụ thuộc thấp chưa chắc đã là  
các cộng đồng có trình độ phát triển kinh tế cao và ngược lại. tỷ lệ này ở xóm Sèo thấp so với  
một số nơi vùng núi phía Bắc như ở Khe Nóng ở Nghệ An có tỷ lệ phụ thuộc cao nhất là  
60%), Làng Thao, Phú Thọ, Vĩnh Phú (53%) Thài Phìn Tủng, Hà Giang.(Rambo, A Terry,  
Lê Trọng Cúc, 2001)  
2.1.3.Trình độ học vấn  
Để đánh giá trình độ học vấn của chủ hộ và người lớn tuổi, chúng tôi dùng chỉ tiêu là số năm  
đi học của người lớn tuổi (tính từ 17 tuổi trở lên). Kết quả nghiên cứu được trình bày trên  
bảng 6 và hình 3.  
1. Theo quy ước quốc tế thì những người bình thường trong độ tuổi 20-59 được coi là lao động chính. Theo quy  
định của Bộ Lao động-Thương binh và xã hội, thì tuổi lao động của người Việt nam được quy định là từ 15 đến  
59 tuổi.  
17  
 
Bảng 6. Số năm đi học của chủ hộ và người lớn tuổi (số người, %) n=42  
Số năm học  
Số người  
Tỷ lệ %  
9,7  
0
1 - 5  
31  
88  
47  
26  
60.2  
23,9  
6,2  
6 - 9  
10 - 12  
Số năm đi học cao nhất  
Số năm đi học TB  
Tổng số người lớn tuổi  
12  
4,7  
192  
100  
80  
60.2  
60  
Kh«ng ®i häc  
BËc tiÓu häc  
BËc PTCS  
% hé  
40  
23.9  
20  
BËc PTTH  
9.7  
6.2  
0
Sè n¨m ®i häc  
Hình 3. Số năm đi học của người lớn tuổi  
Số năm đi học của người lớn tại xóm Sèo từ lớp 1 đến lớp 5 đạt tỷ lệ cao nhất chiếm 60,2 %  
thuộc bậc tiểu học. Tỷ lệ cao thứ 2 đó là bậc phổ thông cơ sở chiếm 23,9 %. Trong khi đó tỷ  
lệ số người lớn không đi học chỉ chiếm khoảng 10% và số người lớn đi học hết phổ thông chỉ  
đạt 6,2 % có 26 người.  
Như vậy, có sự khác nhau rất lớn về số năm đến trường của người lớn trong xóm, và chúng ta  
còn thấy sự khác biệt này cũng rất lớn giữa các hộ. (bảng 7 và hình 4).  
18  
   
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 49 trang yennguyen 31/03/2022 4920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Đề tài Nghiên cứu thực trạng kinh tế hộ và đề xuất giải pháp sinh kế bền vững tại xã Cao Sơn, huyện Đà Bắc, tỉnh Hòa Bình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfbao_cao_de_tai_nghien_cuu_thuc_trang_kinh_te_ho_va_de_xuat_g.pdf