Bài giảng Kỹ năng làm việc nhóm (Bản đẹp)

KỸ NĂNG LÀM VIỆC NHÓM  
1
KỸ NĂNG LÀM VIỆC NHÓM  
Commented [Q1]: Theo chị mục này nên đưa Khái niệm nhóm  
lên đầu tiên  
1. Vai trò của nhóm trong tổ chức  
1.1. Các lý do của sựSự cần thiết phải phát triển tinh thần  
làm việc nhóm  
Như trên đã nói, giao tiếp là cách thức con người ứng xử với  
người khác, với thời cuộc, với nhiệm vụ. …Quan hệ trong nhóm  
một hình thức giao tiếp cộng đồng quan trọng của chúng ta, vì  
nhóm là một hình thức phỏng của tổ chức, của hội, trong  
khuôn khổ một phạm vi, quy mô nhỏ hơn.  
Trong hội hiện đại, nhất là khi sự phụ thuộc giữa con  
người được hỗ trợ rất nhiều bởi các tiến bộ công nghệ thông tin và  
truyền thông, năng lực cá nhân cấn được đánh giá một cách hợp lý  
thông qua nhìn nhận cá nhân với những người xung quanh có liên  
quan chứ không chỉ đơn thuần là cá nhân người đó một cách biệt  
lập.  
Hơn nữa, kết hợp hiệu quả làm việc của các cá nhân thông  
qua nhóm có rất nhiều giá trị gia tăng so với giá trị của hiệu quả cá  
nhân độc lập.  
Chính vì vậy, nhóm (team) và làm việc (trong) nhóm (từ đây  
viết gọn là làm việc nhóm ) (teamwork) đang ngày càng thu hút  
được nhiều sự quan tâm của mọi tầng lớp hội, đặc biệt từ là  
giới quản lý, lãnh đạo.  
3
     
Trong đời sống làm việc hiện đại, với hỗ trợ mạnh mẽ của  
công nghệ thông tin và truyền thông, thế giới trở nên ‘phẳng’ (1)  
hơn, nhiều ranh giới trở nên mờ nhạt, sự kết nối trở nên quan  
trọng hơn, nhiều tổ chức tìm kiếm cách thức xây dựng tăng  
cường năng lực của mình thông qua cơ cấu lấy nhóm làm nền  
tảng.  
Nhóm và làm việc nhóm là hình thức căn bản của quản lý có  
sự tham gia (participative management). Đây được xem như là  
một bước tiến trong quản lý nói chung và quản lý chính phủ nói  
riêng.  
Commented [Q2]: Khi VN chưa phổ biến thì mình có nên  
thêm vào cuối câu cụm từ “… đã được thực hiện ở nhiều quốc gia có  
nền kinh tế phát triển////Khu vực tư nhân mình cũng đa áp dụng rồi  
chị ạ  
Commented [Q3]: Theo chị nên dùng từ quản lý trong khu vực  
công////để thống nhất với cách diễn đạt của các tác giả khác chị ạ  
Trong mô hình cơ cấu thứ bậc cũ, con người là các mắt xích  
trong một chuỗi chung rất lớn, với rất nhiều sự phục thuộc, ràng  
buộc về thẩm quyền và trách nhiệm, kết quả là, đôi khi các cá  
nhân được nhìn nhận như là vô danh, hành động một cách cứng  
nhắc theo mệnh lệnh, không cần hoặc không thể mang tính cá  
nhân trong đời sống làm việc. Do đó, việc đánh giá công trạng,  
đóng góp của cá nhân vào tổ chức rất khó khăn. Chính vì vậy,  
con người được đánh giá chủ yếu trên cơ sở cách thức họ giao  
tiếp, ứng xử liên cá nhân trong tổ chức (như: tính thân thiện, sự  
hết lòng, nhiệt tình, …) chứ không phải kết quả làm việc. Trong  
tinh thần làm việc nhóm, con người được khuyến khích tham gia,  
được có cái ‘tôi’, được thể hiện bản sắc, được khích lệ để ‘sở  
hữu’ cá nhân trong kiến thức, tinh thần, trách nhiệm kết quả  
làm việc của nhóm.  
Commented [Q4]: Do đó không rõ trách nhiệm kết quả làm  
việc  
4
Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể, làm việc nhóm và phát  
triển nhóm đang một khâu rất yếu trong quản lý hành chính nhà  
nước nói chung và trong giao tiếp công vụ nói một cách cụ thể.  
Commented [h5]: riêng  
1.2. Khái niệm nhóm  
Nhận diện nhóm  
Một trong những lý do quan trọng của việc phát triển nhóm  
chưa trở thành một xu hướng trong các quan hành chính nhà  
nước, hay trong Chính phủ- nói một cách ngắn gọn, chính là sự  
mơ hồ sự mơ hồ về khái niệm nhóm và , tinh thần làm việc nhóm  
cũng như ; vai trò của mô hình làm việc này.  
Trong rất nhiều tài liệu, cả bằng tiếng Việt lẫn tài liệu dịch  
hay nguyên bản tiếng nước ngoài, thuật ngữ nhóm được đưa ra  
nhưng không được so sánh để phân biệt với các khái niệm có liên  
quan. Chừng nào những câu hỏi then chốt như liệu nhóm có phải  
Tổ chức, Đội, Tổ, Ủy ban, hay Đơn vị…không được giải quyết,  
khó có thể bắt đầu nói về vai trò của nhóm và làm việc nhóm.  
Để nhận diện được nhóm, trước nhất, cần làm rõ khái niệm  
tổ chức. Theo Từ điển Pháp - Việt Pháp luật - Hành chính, Tổ  
chức ‘một hệ thống gồm nhiều phân hệ, những mối quan hệ  
hữu cơ hợp lý, rõ ràng, hợp tác và phối hợp chặt chẽ, tác động lẫn  
nhau trong một tổng thể, phát sinh một lực tổng hợp tác động cùng  
chiều lên một đối tượng nhằm đạt đwocj những mục tiêu chung đã  
định’ (1992: 208) (2).  
5
 
Trong cuộc đời, mỗi chúng ta có xu hướng là thành viên của  
ít nhất một tổ chức. Đó thể tổ chức chính thức hoặc không  
chính thức (xét từ độ cách thức thừa nhận sự tồn tại của tổ chức  
đó. Lấy dụ, những người cùng tốt nghiệp từ một trường đại học  
nào đó tập hợp lại và hình thành một tổ chức có Ban liên lạc đứng  
ra làm đầu mối, họ hoạt động có tôn chỉ, mục đích, có quy chế họp  
lớp, họp trường,..có quỹ .. Nếu tổ chức này đăng kí chính thức với  
nhà trường hoặc địa phương, thì nó được xếp vào tổ chức chính  
thức đối với nhà trường địa phương đó. Nếu không, trong cách  
nhìn nhận của nhà trường và xã hội, nó là tổ chức không chính  
thức. Tất nhiên, trong cả hai trường hợp, vẫn là chính thức đối  
với các thành viên của tổ chức... ); tổ chức chuyên môn, nghề  
nghiệp (Hội nhà báo, Hội cựu giáo chức,..) hoặc đơn thuần chỉ gắn  
với một niếm say mê hay ý thích nào đó (Hội Vespa, ‘sợ vợ’, hội  
thích thời trang Hàn Quốc,..); tổ chức cơ quy mô rất lớn (tới hàng  
triệu người như một Bộ nào đó), hoặc nhỏ (như một Viện nghiên  
cứu thuộc một Bộ khác)… Nói tóm lại, rất nhiều loại tổ chức  
trong xã hội, và chúng có thể được phân loại trên cơ sở sử dụng  
các tiêu chí khác nhau.  
Commented [Q6]: Không có Hội này đâu, thể thay bằng Hội  
Vespa/ cả hội không chíh thức chị a  
Trong khi đó, nhóm là một tập hợp các thành viên có số  
lượng ổn định từ hai người trở lên, tối ưu là 5-7, tối đa là 15, có  
giao tiếp trực diện thường xuyên tập trung xung quanh một mối  
quan tâm hay vấn đề chung nào đó.  
6
Như vậy, nhóm là hình thức phỏng của tổ chức. Sự khác  
biệt căn bản giữa Tổ chức và Nhóm là ở chỗ quy mô của nhóm  
thường nhỏ, trong khi đối với tổ chức, con số này có thể lên tới  
hàng chục triệu người. Chính vì vậy, người ta thường nói về các  
nhóm trong tổ chức chứ không nói tổ chức trong nhóm.  
Nói tóm lại, các dấu hiệu để nhận biết nhóm là:  
- Một tập hợp người có giao tiếp trực diện, thường xuyên.  
- Số lượng thường từ 2- 15.  
- Chia sẻ mối quan tâm hoặc mục đích chung.  
- Các cá nhân xuất phát điểm, phong cách,.. khác nhau,  
nhưng ý thức được về nhau và có ảnh hưởng qua lại, phụ thuộc  
nhau trong việc tạo ra kết quả thực thi.  
- Cùng nhau hoạt động để đạt được mục tiêu chung.  
Rõ ràang, nhóm không đơn thuần một tập hợp các cá  
nhân.  
Ngày nay, có một thuật ngữ được sử dụng rộng rãi trong  
nhiều doanh nghiệp quốc tế là ‘nhóm thực thi cao (high  
performance team) hoặc siêu nhóm (superteam). Siêu nhóm là  
nhóm của từ 3 đến 30 nhân viên từ nhiều đơn vị, lĩnh vực khác  
nhau của tổ chức tập hợp lại với nhau để giải quyết các vấn đề  
hàangf ngày của đời sống làm việc.  
Trên đây là khái niệm chung về Nhóm, theo chị cũng cần phải xác  
định Nhóm trong quan hành chính?  
Các hình thức nhóm  
7
nhiều hình thức nhóm. Theo tiêu chí về mục đích, thể  
có nhóm tự quản (nhằm đạt được quyền tự quyết của nhóm, chứ  
không phải một đối tượng khác ngoài nhóm quyết định) và nhóm  
năng suất cao (định hướng nâng cao năng suất, hoạt động trong  
khuôn khổ quyền quyết định thuộc về các nhà quản lý có thâm  
quyền từ bên ngoài nhóm).  
Theo tiêu chí về hình thức tồn tại trong cơ cấu của tổ chức,  
có nhóm chính thức và có nhóm không chính thức.  
Nhóm chính thức nói chung, cũng như trong quan hành  
chính nhà nước nói riêng, , được hình thành xuất phát từ sáng kiến  
của quản lý, lãnh đạo – mang tính pháp định (khi đó, dù các thành  
viên không hợp, không thích nhau vẫn phải làm việc với nhau) để  
thực hiện các nhiệmvụ được giao nhằm giúp tổ chức đạt được mục  
tiêu. Kiểu điển hình của nhóm chính thức chính là các Tổ, Đội,  
Phòng, Đơn vị, Ban hoặc Ủủy ban trong tổ chức,.. bao gồm một  
(hoặc một vài) nhà quản lý và các nhân viên- những người chịu  
trách nhiệm báo cáo lên nhà quản lý. Một số nhóm chính thức có  
thể mang tính tạm thời. Nhóm này thường được gọi là các Lực  
lượng đặc nhiệm (task force) hoặc nhóm dự án - những nhóm  
được thành lập để giải quyết các nhiệm vụ cụ thể, nhất thời, rồi  
đựơc giải thể khi nhiệm vụ hoàn thành.  
Commented [Q7]: ???  
Trong quan hành chính thì nhóm có thể hình thành trên  
cơ sở sự phân công thực hiện một nhiệm vụ nào đó:.Ví dụ: Ba  
hoặc năm người (ở một bộ phận hoặc từ các bộ phận khác nhau)  
được phân công xây dựng Đề án đổi mới đào tạo (hoặc phối hợp  
8
với Dự án Tổ chức các khoá đào tạo tại địa phương) bắt buộc phải  
làm việc theo nhóm để hoàn thành công việc được giao  
Nhóm không chính thức trong tổ chức, cơ quan, được hình  
thành bất cứ đu khi con người có liên quan đến nhau và tương  
tác thường xuyên với nhau. Tuy được hình thành trên cơ sở tự  
nguyện, tập hợp những cá nhân cùng ‘kiểu’ với nhau, nhưng các  
nhóm này phát triển trong bối cảnh cơ cấu tổ chức chính thức nên  
ảnh hưởng nhất định đến kết quả thực thi. Lấy dụ, cùng làm  
việc trong một Phòng thuộc một Sở, một số thành viên có kiểu tác  
phong, nhịp điệu và cách nhìn nhận vấn đề rất tương hợp với  
nhau, họ kết thành một nhóm. Nhóm này không có tên trong  
Phòng, không có cơ cấu tổ chức được quy định thành văn,…  
nhưng việc là thành viên của nhóm và cách thứuc làm việc chung  
với nhau trong nhóm những ảnh hưởng nhất định đến họ với  
cách cá nhân và đến Phòng với tư cách là một ‘ê-kíp’.  
Trách nhiệm của các nhà quản lý là hướng các nhóm này  
thành một cơ chế hỗ trợ tích cực cho quá trình và kết quả thực thi  
của tổ chức.  
Nhóm không chính thức bốn vai trò quan trọng trong tổ  
chức:  
(i)  
giúp duy trì và tăng cường các chuẩn mực và giá trị  
chung mà các thành viên tin;  
(ii)  
tạo cảm giác thoả mãn về mặt hội, địa vị, và an  
toàn trong các thành viên. Trong những tổ chức rất  
9
lớn, nhiều nhân viên có thể thấy (hoặc nghĩ rằng)  
các nhà quản chẳng biết đến họ, chẳng quan tâm  
đến họ, việc tham gia các nhóm không chính thức  
tạo nên ở học cảm giác thỏa mãn nhu cầu nhân sinh  
về tình bạn sự hỗ trợ.  
(iii)  
(iv)  
giúp các thành viên giao tiếp với nhau. Thông qua  
các nhóm không chính thức này, nhân viên trong các  
tổ chức biết được các thông tin liên quan đến các  
vấn đề chính thức.  
giúp giải quyết các vấn đề. Thông thường, các nhóm  
không chính thức này nhỏ hơn và linh hoạt hơn nên  
các di chuyển của cũng nhanh hơn và tác động  
cũng lan tỏa nhanh hơn so với nhóm chính thức. Lấy  
dụ, nếu một thành viên của nhóm có chuyện vui  
hoặc buồn, nhóm không chính thức thường biết  
trước và có phản ứng thiết thực hơn.  
Thực tế cho thấy, trong các tổ chức hiện nay, rất nhiều nhóm  
đặc điểm của cả hai kiểu chính thức và không chính thức.  
Trong rất nhiều trường hợp, các nhóm thể được hình thành  
hoặc gọi tên một cách ‘chính thức’ chỉ ở cấp độ nói miệng chứ  
không có văn bản cụ thể ghi nhận nào cả, rằng nhóm có thể tồn  
tại rất lâu.  
Commented [Q8]: ẩTong cơ quan hành chính nhà nước không  
Đội, nhưng có phòng,, ban và có thể Tổ.  
dụ : Trong các Sở cso các Phòng,, Ban. Trong các Vụ có các  
Phòng , các Vụ lớn thể chia thành các Tổ để quản lý các công  
việc cụ thể.  
Vụ CHính quyền địa phương Bộ Nội vụ không chia phòng; Vụ  
trưởng phân chia Vụ thành ba nhóm do 3 Phó Vụ trưởng phtrách  
ba mảng là Nhóm Địa giới hành chính, Nhóm Pháp luật , Bầu cử và  
tổ chức, hoạt động của HĐND; và Nhóm theo dõi tổ chức, hoạt động  
của UBND và thẩm định, phê chuẩn thành viên UBND …  
Nhóm hay Đội Tổ?  
10  
một số khác biệt căn bản giữa nhóm và Tổ, Đội, Phòng  
Đơn vị ( vì tần suất sử dụng Đơn vị trong việc đặt tên tổ chức  
không cao như Tổ Đội, từ đây, chỉ nói tới Tổ, Đội cho ngắn  
gọn, tuy rằng có hàm ý cả Đơn vị):  
- Khi nhóm được ghi nhận chính thức trong cơ cấu tổ chức  
của cơ quan, tổ chức, nó có thể được gọi Tổ, Đội. Tuy nhiên, có  
một cảnh báo quan trọng liên quan đến khía cạnh này là một số  
không nhỏ quan niệm rằng nhóm là sự hình thành và tồn tại một  
cách tự phát, không chính thức, nên tốt nhất, các nhà quản lý  
không liên đới gì và nên để mặc diễn ra tự nhiên. Thực ra,  
trọng trách của nhà quản lý trong tổ chức tạo dựng môi trường  
thuận lợi cho các nhóm hình thành và phát triển. Do vậy, họ không  
nên đóng vai là người lập kế hoạch, chỉ đạo kiểm soát, mà với  
nhóm, họ nên là những người hướng đạo, gợi dẫn, kèm cặp và  
kích thích và khích lệ.  
- Tổ, Đội cơ cấu cơ chế làm việc mang tính chính thức  
thứ bậc; quản lý trong Tổ, đội quyền lực trước nhất quyền  
lực pháp định (do tổ chức trao cho, được ghi nhận trong các văn  
bản chính thức, hợp pháp, gắn với chức năng, nhiệm vụ, quyền  
hạn của tổ chức). Trong khi đó, cơ cấu của nhóm thường không  
mang tính thứ bậc, khoảng cách giữa Trưởng nhóm và các thành  
viên không nhiều, mặc họ rất có uy tín, do bản chất làm việc  
nhóm là tham gia. Cơ chế điều hành của nhóm là tự điều hành, các  
quyết định được đưa ra trên cơ sở thảo luận, tham gia, không cần  
11  
đến sự can thiệp của các cơ chế tổ chức khác. Như vậy, thể  
thấy là các thành viên trong nhóm không bỏ phiếu để ra quyết  
định. Khi đa số các thành viên không hài lòng với một ý tưởng  
nào đó, quyết định sẽ không được đưa ra.  
- Tổ, Đội làm việc có xu hướng cạnh tranh với nhau trong  
nội bộ để gây ảnh hưởng, để thắng thế hoặc để đạt được vị trí cao  
hơn. Trong khi đó, các thành viên làm việc theo nhóm để tăng  
cường năng lực cạnh tranh với bên ngoài- với tư cách là một tập  
thể.  
- Trong phần lớn các trường hợp, nhóm được hình thành tư  
nguyện, đáp ứng nhu cầu từ dưới lên chứ không phải xuất phát từ  
nhu cầu của cấp quản của tổ chức, cơ quan đề thực hiện một  
chức năng nào đó. Chính vì lẽ này, trong phần lớn các nhóm,  
thành viên là tập hợp những người ‘tương đầu, ý hợp’ với nhau.  
- Tinh nhần nhóm: Tinh thần làm việc theo nhóm là tinh thần  
đồng đội, một kiểu tinh thần đôi khi được tả như ‘Một người  
mọi người; mọi người một người’. Không khí làm việc trong  
Tổ, Đội thể căng thẳng, để giải quyết vấn đề, để dung hòa  
những khác biệt, biện pháp độ lượng, thỏa thuận hướng về phòng  
tránh các hệ lụy của xung đột. Tuy nhiên, tinh thần làm việc trong  
nhóm là thích thú và tâm đầu ý hợp với nhau. Do vậy, cách thức  
thỏa thuận ở nhóm là hướng tới tương lai, tập trung vào việc đạt  
được những tốt nhất mà nhóm có thể.  
12  
- Các thành viên trong Tổ, Đội thể tồn tại, thực thi và phát  
triển trên cơ sở sự tồn tại với tư cách cá nhân, trong khi nhóm,  
tinh thần nhóm mang tính thống trị.  
- Do tất cả các đặc tính trên, tính mềm dẻo, linh hoạt và thích  
nghi Nhóm cao hơn Tổ, Đội rất nhiều. Điều này giải thích vì sao  
phát triển nhóm và tinh thần làm việc nhóm được coi là chìa khóa  
thành công trong tổ chức lao động.  
Nói tóm lại, so với Tổ, Đội, là các cơ cấu chính thức trong tổ  
chức, nhóm hình thành mang tính tự nguyện, không chính thức,  
đương nhiên tồn tại trong các tổ, đội, của các tổ chức, cơ quan.  
Khi một Tổ, Đội, hoạt động một cách hài hòa, ăn ý, không khí  
mang tính tích cực, tạo ra kết quả thực thi tốt, thì Tổ, Đội đã có  
tinh thần nhóm.  
Commented [Q9]: trong quan hành chính thì nhóm có thể  
hình thành trên cơ sở sự phân công thực hiện một nhiệm vụ nào  
đó:.Ví dụ:  
Ba hoặc năm người (ở một bộ phận hoặc từ các bộ phận khác nhau)  
được phân công xây dựng Đề án đổi mới đào tạo (hoặc phối hợp với  
Dự án Tỏ chức các khoá đào tạo tại địa phương) bắt buộc phải làm  
việc theo nhóm để hoàn thành công việc được giao  
Quan trọng hơn, trong khi ý thức được rằng Tổ hay Đội đều  
là các hình thức khác nhau của nhóm, bản thân Tổ, Đội không  
đương nhiên là các nhóm và có tinh thần làm việc nhóm. Chúng  
tôi lập luận rằng, để kết qủa thực thi cao và để nâng cao chất  
lượng đời sống làm việc của nhân viên, mỗi tổ chức đều cần phát  
triển kiểu phối hợp lấy nhóm làm nền tảng trong mỗi đơn vị tổ  
chức của mình (phòng, ban, đội, tổ…). Hình thức phối hợp này có  
thể là chính thức, thể không, có thể tự phát hoặc chủ động từ  
phía các nhà quản lý. Tuy nhiên, trong mọi trường hợp, các nhà  
quản lý có vai ttạo dựng môi trường thuận lợi cho hình thành và  
phát triển nhóm.  
13  
Commented [Q10]: Các lợi ích của việc  
1.3. Các lợi ích của Ví sao cần phát triển nhóm?  
Các lợi ích của làm việc nhóm đối với cá nhân:  
- thỏa mãn nhu cầu thuộc về cộng đồng, thuộc về hội nói  
chung  
- thỏa mãn nhu cầu được nhận diện, được ghi nhận: Do  
nhóm thường có uy mô nhỏ hơn nên các tương tác và nhìn nhận từ  
phía quản đối với các thành viên có xu hướng cụ thể hơn, kịp  
thời hơn và có ‘cảm giác’ hơn so với ở cấp độ tổ chức.  
- cơ hội rèn luyện tư duy và giao tiếp: So với làm việc độc  
lập, cơ hội để thể hiện khả năng kết nối, cùng tồn tại và hành  
động với người khác  
- Cơ hội phát triển cá nhân nói chung. Theo Holpp (2007),  
sự phát triển của nhóm gắn liền với vấn đề phát triển cá nhân.  
Đóng góp của nhóm trong tổ chức:  
- sự hình thành và hỗ trợ phát triển nhóm trong tổ chức chính  
một hình thức phân quyền, ủy quyền trong quản lý, lãnh đạo.  
Thông qua đó, các nhà quản lý trong tổ chức, cơ quan quản lý  
theo đầu mối các nhóm hơn là theo cá nhân đối với mọi cá nhân  
trong tổ chức.  
- một cơ chế thu nhận thông tin, sáng kiến phản hồi một  
cách có hệ thống tiết kiệm  
- Giúp tiếp cận vấn đề một cách tổng thể, toàn diện hơn: Đay  
chính là cơ chế cho phép tránh được những hạn chế do cách tiép  
cận phiến diện kiểu ‘thày bói xem voi’.  
- phát huy trí tuệ tập thể:  
14  
 
Làm việc theo nhóm cho phép mỗi cá nhân tránh được tình  
trạng ‘khôn lẻ không bằng dại bầy’ để tận dụng sức mạnh của:  
‘Một cây làm chẳng lên non  
Ba cây chụm lại nên hòn núi cao’  
- Làm cho công việc trở nên bớt nhàm chán hơn.  
- Bước đệm cho một hệ thống lớn: Cung cấp một cơ chế  
sàng lọc các tiểu tiết; thử thách, phản biện các sáng kiến;  
- giúp định hình các phong cách riêng trong khuôn khổ tổ  
chức.  
- Các phong cách của nhiều nhóm khác nhau tạo nên tính đa  
dạng trong tổ chức, cho phép tổ chức trở nên có kiến thức, năng  
động và thích ứng nhanh hơn với các phong cách hoặc yêu cầu  
mới.  
- giảm bớt xung đột trong tổ chức thông qua việc các vấn đề  
cần thảo luận được thực hiện bài bản, chuẩn bị trong nhóm  
trước khi ra toàn tổ chức.  
Derek Torington và Jane Weightman (1994) chỉ ra các lợi  
ích của làm việc nhóm là:  
-
Nhóm là cách tiếp cận tưởng khi vấn đề cần giải  
quyết vốn không quen thuộc và khó khăn hoặc đầy  
mạo hiểm chưa tiền lệ hoặc công thức giải  
quyết;  
-
Nhóm cần thiết khi kiến thức kĩ năng của từng cá  
nhân không đủ để giải quyết vấn đề.  
15  
-
Nhóm là cần thiết trên cơ sở tâm lý là người ta sẽ hỗ  
trợ những người ta có tham gia ra quyết định. (tr.  
439).  
Theo Lawrence Holpp (2007), tầm quan trọng của nhóm  
được thể hiện thông qua việc so sánh các nhiệm vụ tổ chức cần  
thực hiện trong 2 cách tiếp cận: truyền thống hiện đại:  
Bảng: Nhóm ở vị trí làm việc truyền thống vị trí mới  
Phần việc  
Truyền thống  
Hiện đại  
Nhóm và công việc  
theo nhóm  
Thiết kế công Một người/một việc  
việc  
Cơ cấu tổ  
chức  
Cao và hẹp  
Rộng phẳng  
Mức lương  
Tăng dần  
Dựa vào hoạt  
động/động cơ  
Chia sẻ  
Quyền quyết Từ trên xuống  
định  
An toàn lao  
động  
Thời gian làm việc  
Chịu giám sát  
Không chắc chắn  
Giám sát  
Hợp tác  
Hợp tác  
Quan hệ nhân Đối thủ  
viên  
Chất lượng  
Khách hàng  
Đào tạo  
Bị kiểm soát  
Theo kế hoạch  
Chỉ là thêm vào  
Lý do để hoạt động  
Liên quan đến công  
Không có kế hoạch  
16  
việc kinh doanh chính  
Nguồn: Lawrence Holpp (2007), Quản lý Nhóm, (bản dịch tiếng  
Việt của nhóm BKD47), Hà Nội, Nxb. Lao động- hội, tr. 52-  
53.  
Một số nguy trong làm việc nhóm  
+ Tốn kém thời gian một cách không cần thiết  
+ Ttăng mức độ phụ thuộc  
+ Nguy nguy Xảy ra tình trạng ỷ lại, a dua- mượn  
số đông  
Để tránh được các nguy cơ đó, đòi hỏi bản lĩnh năng lực  
của trưởng nhóm cũng như nhận thức nỗ lực của các thành  
viên.  
2. Quá trình hình thành nhóm  
2.1. Giai đoạn hình thành  
- Trong giai đoạn này, các thành viên còn rụt rè, chưa cởi  
mở, ít trao đổi, chưa tin tưởng nhau nhiều chưa nhiệt tình vì  
một ‘cái chung’ nào đó do một ai đó đề cập.  
- Các cá nhân bước đầu thăm về các bên cùng giao tiếp,  
thăm về những được chấp nhận hoặc không được chấp nhận.  
- Đã hình thành một số quy tắc sơ khai cho việc hoàn thành  
các nhiệm vụ cụ thể.  
17  
   
- Các giải pháp cho vấn đề thường đơn giản, hướng tới  
những điểm chung mà nhiều người quan tâm và thỏa mãn được  
nhiều người.  
- Nếu có hành động cùng nhau, tập hợp các cá nhân này  
cũng không có ai chịu trách nhiệm về kết quả chung.  
- Ý tưởng kết nối với các thành viên khác đã hình thành tuy  
chưa hẳn có ý niệm về mô hình, cách thức kết nối thành nhóm.  
Các thành viên có thể tỏ ra lo ngại về việc liệu sự kết nối này có  
đem lại lợi ích cho thực thi, liệu giữa các cá nhân có sự tương  
động về trông đợi, đóng góp, trình độ,…liệu mình có hòa hợp với  
các thành viên khác hay không.  
- Giai đoạn này, nhóm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các  
yếu tố bên ngoài (như sự tồn tại năng lực của các nhóm khác)  
và cá tính, quan điểm của một số cá nhân nổi trội (ví dụ như bề  
ngoài, phong cách ấn tượng thu hút đám đông; có uy tín sâu rộng  
từ trước trong giới chuyên môn liên quan và được nhận diện trong  
nhóm này,..…).  
- Có một lưu ý hết sức quan trọng là nhóm có thể bị tan rã  
hoặc bị mất đi một số thành viên nếu ngay từ giai đoạn sơ khai  
này các thành viên chưa biết hành động theo kiểu tập thể một cách  
đúng cách. Lấy dụ, khi một cá nhân có sang kiến hoặc có quan  
điểm khác biệt so với số còn lại, nếu một số hoặc số đông a dua  
với nhau thể hiện thái độ thiếu tôn trọng, hay xúc phạm cá nhân  
đó.  
18  
- Cách thức biểu hiện của đa số với các hành vi hiện tượng  
trong giai đoạn này có vai trò quan trọng, tạo cơ sở cho việc hình  
thành các cam kết hay thỏa thuận về nguyên tắc hành vi của nhóm  
về sau.  
- Các kĩ thuật giao tiếp căn bản nên được áp dụng trong giai  
đoạn này là:  
+ cChủ động tiếp cận.  
+ Tthể hiện bản thân: cá nhân có thể chuẩn bị sẵn  
những thông tin cần thiết để thể hiện mình, nhằm thăm dò các dấu  
hiệu ‘cùng sóng’ và các dấu hiệu của sự quan tâm.  
+ Đđặt câu hỏi: trực tiếp hoặc gián tiếp về nhu cầu,  
trông đợi, cách tiếp cận vấn đề, phương pháp chủ yếu giải quyết  
vấn đề.  
+ Tthu thập thông tin về các cá nhân mà mình tính tới  
là các thành viên của nhóm.  
+ Ttìm cách thu hút những người ảnh hưởng, có uy  
tín tham gia nhóm. Vì đây là nhóm hình thành trong thực thi nên  
đối với rất nhiều người, việc các nhà quản lý ‘hai trong một’  
(vừa nhóm chính thức, vừa nhóm không chính thức) sẽ tạo nên  
cảm giác yên tâm, an toàn cho bản thân vì không sợ lệch hướng  
hoặc bị lãnh đạo phê phán.  
19  
2.2. Giai đoạn thử thách  
- Bản chất của giai đoạn này là giai đoạn các cá nhân tìm  
hiểu lẫn nhau (về tính cách, năng lực) và tìm hiểu về công việc  
phải làm trong nhóm, do đó thường gắn liền với sự xung đột các  
niềm tin, giá trị chuẩn mực xssxự.  
- Thậm chí, các bè phái và các tiểu nhóm bắt đầu hình thành.  
Các cá nhân bộc lộ theo những cách khác nhau, vận động theo  
những tốc độ khác nhau.  
Theo Blanchard và Carew (sđd), giai đoạn này có một số  
đặc thù như:  
+ Mâu thuẫn giữa thực tế kỳ vọng  
Commented [Q11]: ? ( nguyên tác trong bản dịch tiếng VIệt)  
+ Vai trò mục tiêu trở nên rối rắm đầy thất vọng  
+ Ganh đua quyền lực và gây sự chú ý  
Commented [Q12]: ?  
+ Cảm giác bất hợp tác, rối rắm và kém tự tin  
+ Chỉ một vài nhiệm vụ được hoàn tất.  
+ ….  
- Các kĩ thuật chủ yếu trong giai đoạn này:  
+ Chính vì vậy, kĩ năng phân tích và nhận ra cốt lõi của sự  
khác biệt đóng vai trò quan trọng trong việc dung hợp được nhiều  
sự khác biệt hạn chế được sự triệt tiêu chúng – nguyên nhân  
dẫn đến làm thui chột sáng kiến, thậm chí làm giảm sút hoặc mất  
đi cam kết hứng thú đối với nhóm để rồi quyết định rời bỏ  
nhóm.  
Commented [Q13]: Đoạn này ở đây vẻ khong phù hợp!!!  
20  
 
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 41 trang yennguyen 06/04/2022 5200
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài giảng Kỹ năng làm việc nhóm (Bản đẹp)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docbai_giang_ky_nang_lam_viec_nhom_ban_dep.doc