Áp dụng các quy tắc phiên chuyển và danh pháp IUPAC vào danh pháp hóa học Việt Nam

NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
ÁP DỤNG CÁC QUY TẮC PHIÊN CHUYỂN VÀ DANH PHÁP IUPAC  
VÀO DANH PHÁP HÓA HỌC VIỆT NAM  
APPLYING TRANSLATION RULES AND IUPAC NOMENCLATURE  
TO VIETNAMESE CHEMICAL NOMENCLATURE  
Phan Thị Thanh Hiền1  
Tóm tắt:  
Bài viết này giới thiệu các quy tắc phiên chuyển Thuật ngữ hóa học – Danh pháp hóa học sang  
tiếng Việt (Tiêu chuẩn Việt Nam TCVN 5529:2010 Thuật ngữ hóa học – Nguyên tắc cơ bản). Bên cạnh  
đó, bài viết cũng nêu lên sự cần thiết và khuyến nghị việc áp dụng Tiêu chuẩn Việt Nam 5529:2010 trong  
quá trình học tập, làm việc và nghiên cứu thời kỳ hội nhập. Tác giả hi vọng những thông tin hữu ích này  
sẽ giúp người đọc biết nhiều hơn về các quy tắc phiên chuyển và danh pháp IUPAC, ứng dụng trong học  
tập và làm việc.  
Từ khóa: quy tắc phiên chuyển, danh pháp hóa học, thuật ngữ hóa học  
Abstract:  
The paper attempts to introduce the rules of translating Chemical terms - Nomenclature of chemical  
elements and compounds into Vietnamese (Vietnamese Standard 5529:2010 Chemical terms - Basic  
principles). In addition, the article also emphasizes the importance and recommends the application  
of Vietnamese Standard 5529:2010 in the process of learning, working and scientific research in the  
integration period. It is hoped that useful information will help you to know more about translation rules  
and IUPAC nomenclature, apply in your learning and working.  
Keywords: translation rules, chemical nomenclature, chemical terms  
1. Đặt vấn đề  
Thuật ngữ và Danh pháp khoa học có vai trò rất quan trọng trong giáo dục, giao lưu giữa các lĩnh  
vực nghiên cứu, trao đổi thông tin, truyền bá kiến thức khoa học cũng như trong giao tiếp xã hội. Các  
hóa chất có mặt trong mọi hoạt động của đời sống con người. Số lượng các hợp chất hóa học thì ngày  
càng tăng, đến nay đã có hàng chục triệu hóa chất với các tên gọi khác nhau. Có thể nói, ngành hóa học  
là ngành sử dụng thuật ngữ khoa học chiếm tỷ lệ cao.  
Trước thế kỷ 19, tên các hợp chất hóa học là những tên thông thường hoặc tên có tính hệ thống  
rất thấp. Cùng với sự phát triển của hóa học, nhu cầu đặt tên cho các hóa chất ngày càng bức thiết. Năm  
1892, Hội nghị Hóa học thế giới (tại Geneve) đã đưa ra những đề xuất đầu tiên về một hệ thống danh  
pháp có tính quốc tế. Từ đó, danh pháp Geneve (Geneve Nomenclature) được dần dần phổ biến rộng rãi  
trên thế giới. Qua nhiều giai đoạn, năm 1921, hệ thống danh pháp hóa học tiếp tục được hoàn chỉnh và  
bổ sung bởi Hiệp hội quốc tế Hóa học thuần túy và ứng dụng (International Union of Pure and Applied  
Chemistry – IUPAC). Hệ thống danh pháp IUPAC qua nhiều lần chỉnh lý, ngày càng có tính khoa học và  
nhất quán cao, đáp ứng được sự phát triển nhanh chóng của các lĩnh vực hóa học [6].  
Ở Việt Nam, danh pháp IUPAC đã và đang được sử dụng (đặc biệt trong hóa học hữu cơ). Tuy  
nhiên, do chưa có sự thống nhất về cách phiên chuyển thuật ngữ (phần lớn là tên các chất hóa học) sang  
tiếng Việt nên việc sử dụng danh pháp IUPAC càng thiếu nhất quán, gây khó khăn, lúng túng cho người  
sử dụng. Trước và sau năm 1975, giới hóa học hai miền Nam - Bắc chưa có một hệ thống chung về danh  
pháp và thuật ngữ, chưa có những quy tắc chung để mọi người tuân theo khi viết tên các hóa chất. Tình  
trạng này dẫn đến việc phiên chuyển tùy tiện, tên một hóa chất có thể được viết dưới nhiều dạng khác  
nhau, tình trạng các tác giả khác nhau sử dụng các cách phiên chuyển không giống nhau là rất phổ biến.  
Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 103  
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
Các cách phiên chuyển khác nhau dẫn đến việc phiên chuyển tùy tiện, ít ai tuân thủ chặt chẽ  
một quy tắc nào khi trình bày một công trình khoa học. Hầu như rất ít luận văn, luận án nào không có  
nhận xét về việc sử dụng thuật ngữ một cách tùy tiện. Ví dụ có thể gặp các cách viết sau: axit/acid,  
metan/methane/mê-tan, metil/metyl/methyl, alkan/alcan/ankan, oxy/oxi/oxygen, phosphor/phosphorus/  
phosphore/phốt-pho, hidro/hydro/hydrogen, chloride/clorid/clorua; tên riêng cũng được phiên chuyển:  
Het (Hess), Bôi (Boyle), Liuyt (Lewis), Van Hop (van’t Hoff),…  
Bất cập ở đây là tính thiếu nhất quán (đặc biệt có thể gây nhầm lẫn như trường hợp sulfua/sulfur/  
sulfide/sulfit/sulfite/sun-fit), tính không khoa học (một hóa chất quen thuộc như NaCl được viết là natri  
clorua/natri clorid/natri chloride/sodium chloride). Có cần thiết biến đổi từ gốc, sau đó người đọc phải  
biến đổi ngược lại để có lại từ gốc? Việc biến đổi và lược bỏ một vài ký tự, ví dụ từ sodium chloride/  
natrium chloride chuyển thành natri clorid, vậy gốc clorid được phát âm tiếng Việt như thế nào (và có  
gây nhầm lẫn với gốc clorit)? Việc biến đổi này cũng làm cho đại bộ phận người cần sử dụng các thuật  
ngữ hóa học không biết hoặc viết sai từ gốc. Ví dụ: “Anđehit” (viết theo phiên âm) có nguồn gốc dễ nhận  
là Aldéhyde (tiếng Pháp) và thông dụng với Aldehyde (tiếng Anh), từ này biến đổi quá nhiều so với từ  
gốc và khi tái tạo từ gốc, nó có thể được viết thành Andehide/Andehite/Andehyde.  
Tính quốc tế và hội nhập là yêu cầu bức thiết của thời đại ngày nay. IUPAC cũng có đề nghị là tên  
hóa chất nên giống nhau trong các thứ tiếng. Do vậy, rất cần thiết phải du nhập một số thuật ngữ cũng  
như xây dựng các quy tắc phiên chuyển thuật ngữ hóa học sang tiếng Việt hoặc Việt hóa một cách hợp  
lý. Tiếng Việt cũng dùng mẫu tự Latin như tiếng Anh, tiếng Pháp nên vấn đề danh pháp hóa học ở nước  
ta không khó phiên chuyển. Vấn đề là nên áp dụng quy tắc phiên chuyển sao cho nhất quán để thuận tiện  
trong việc tra cứu, trao đổi thông tin trong quá trình học tập, nghiên cứu giữa ngành hóa học và các ngành  
khoa học tiếp cận hóa học, giữa các bậc học, trong nước và quốc tế được thuận lợi nhất.  
Như vậy, bên cạnh danh pháp IUPAC, cần triển khai áp dụng các quy tắc phiên chuyển các thuật  
ngữ hóa học sang tiếng Việt triệt để theo một quy định cụ thể.  
2. Các quy tắc phiên chuyển  
Sau khi nghiên cứu quyển “Danh pháp và Thuật ngữ hóa học Việt Nam” [6] (kết quả của đề tài “Xây  
dựng hệ thống Danh pháp và Thuật ngữ hóa học Việt Nam” do Hội Hóa học Việt Nam chủ trì) và bộ 02  
tiêu chuẩn quốc gia: TCVN 5529:2010 Thuật ngữ hóa học - Nguyên tắc cơ bản [2]và TCVN 5530:2010  
Thuật ngữ hóa học - Danh pháp các nguyên tố và hợp chất hóa học [3], tác giả trích giới thiệu một số quy  
tắc phiên chuyển thuật ngữ hóa học (chỉ trình bày phần Danh pháp hóa học) từ tiếng nước ngoài (tiếng  
Anh, tiếng Pháp, tiếng Latin) sang tiếng Việt và áp dụng các quy tắc phiên chuyển để gọi tên một chất hóa  
học. Các quy tắc này được xây dựng trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc chung về việc đảm bảo tính khoa  
học, tính hệ thống và nhất quán, tính dân tộc và phổ cập, tính quốc tế và hội nhập, tính kế thừa.  
2.1. Nguyên tắc về sử dụng phụ âm  
2.1.1. Bổ sung các phụ âm không có trong tiếng Việt: f (ferrum); j (jasmin); z (benzen); w  
(wolfram); mở rộng phạm vi sử dụng hai phụ âm k và p để phù hợp với ký hiệu (kali, krypton, paladi)  
cũng như tên hóa chất (pentan) hoặc danh pháp IUPAC (alkan).  
2.1.2. Chấp nhận các tổ hợp phụ âm: br (brom), cr (cromi), dr (hydro), (fluor), fr (freon,  
wolfram), gl (glucose), gr (graphit), kr (krypton), pl (platin), pr (proton), sp (spin), st (sterol), str (stronti)  
tr (natri).  
2.1.3. Phụ âm g đứng trước nguyên âm e đọc như phụ âm bổ sung j mà không chuyển thành  
gi hoặc gh. Ví dụ germani, geraniol sẽ được đọc như jermani và jeraniol.  
2.1.4. Phụ âm d không chuyển thành đ nhưng vẫn đọc như đ trong tiếng Việt. Ví dụ ở các từ  
hydro, indi,…  
104 Soá 39 - Quyù I naêm 2020  
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
2.1.5. Phụ âm c đứng trước các nguyên âm i, e, y trong những trường hợp cụ thể có thể để  
nguyên mà không chuyển thành x. Ví dụ: vẫn giữ nguyên cách ghi là Ceri (nguyên tố Ce), acid (axit),  
aceton (axeton), cyclo (xyclo), glycerin (glyxerin), acetic (axetic), cyanide (xyanide),…  
2.1.6. Không thay phụ âm s bằng x hoặc z ở âm vận cuối (ase, ose). Ví dụ ở các từ glucose,  
base,…  
2.1.7. Giữ nguyên các phụ âm kép tạo vần trong tiếng Việt như th, ch, ph. Những vần bắt đầu  
bằng các phụ âm này trong hóa học rất nhiều (methan, ethylen, lithi, thali, thiophen, naphthalen, phenol,  
chlor, cholesterol, chitin, chiral,... Trong một số trường hợp cụ thể, h trong các phụ âm là h “câm” có thể  
bỏ đi như chromium (cromi), bismithum (bismut),…  
2.2. Nguyên tắc về sử dụng nguyên âm  
2.2.1. Đối với các tổ hợp nguyên âm  
Giữ nguyên cách viết một số tổ hợp nguyên âm ae, au, ea, ei, eo, eu, io, ou, uo, yo và đọc nhanh  
từng âm theo tiếng Việt. Ví dụ: ae (caesi), au (tautomer), ea (seaborgi), ei (einsteini), eo (neodym), eu  
(eugenol, eutecti), io (iod, niobi), ou (coumarin), uo (fluor), yo (yohimbin). Chú ý không đọc eu thành ơ  
như trong tiếng Pháp, không đọc eugenol thành ơgenol.  
2.2.2. Không dùng nguyên âm i và y trong mọi trường hợp mà phải viết đúng theo danh pháp  
IUPAC của từng từ. Ví dụ: methyl, hydro, aldehyde, …chứ không được dùng i thay cho y.  
2.3. Các nguyên tắc rút gọn khi phiên chuyển  
2.3.1. Viết liền các âm tiết khi Việt hóa các thuật ngữ ngôn ngữ khác, như: natri, carbon,…  
2.3.2. Bỏ bớt một trong hai phụ âm của phụ âm đôi. Ví dụ: cc (sacarose), ff (cafein), ll (alyl,  
paladi), mm (amoni), nn (cinamic), rr (pyrole), tt (ytri…). Trong một số trường hợp cụ thể, vẫn giữ phụ  
âm kép, ví dụ như: mm trong ammin, là phối tử của phức chất để không lẫn với amin.  
2.3.3. Bỏ bớt nguyên âm e ở cuối từ nếu không gây nhầm lẫn. Ví dụ viết benzen thay vì benzene;  
propan thay vì propane. Trong trường hợp nếu bỏ nguyên âm này đi có thể gây hiểu lầm thì vẫn giữ, mặc  
dù có thể phát âm hoặc không phát âm (indole, pyrole, thiazole,…).  
2.3.4. Bỏ dấu thanh và dấu mũ  
Dấu thanh ở đây chủ yếu là dấu sắc. Bỏ dấu sắc trên các vần, đặc biệt là các vần ngược at, ac, ap,  
et, ep, it, ip. Bỏ các dấu mũ ô, ê, ơ khi viết (trừ trường hợp nitơ).  
2.4. Các nguyên tắc về thu nhập các vần ngược và về một số hậu tố  
2.4.1 Thu nhập các vần ngược chưa có trong tiếng Việt  
Trường hợp phụ âm đứng ở cuối âm vận mà vốn dĩ không có trong các vần của tiếng Việt cần được  
chấp nhận viết như nguyên tiếng nước ngoài. Thuộc nhóm này gồm các trường hợp: vần ad (cadmi), af  
(hafni), ag (magnesi), ar (argon, arsen, carbon), as (astati), er (erbi, germani, terbi, yterbi), id (amid),  
ir (zirconi), is (bismuth), od (iod), or (bor, chlor, fluor), os (osmi, phosphor), yb (molybden), al (calci,  
cobal, tantal), ol (holmi), el (nickel).  
Đối với các nguyên tố B, Cl, F, I cần giữ các phụ âm r và d ở cuối để dễ dàng chuyển sang các  
dẫn chất của chúng như chloric, chloride, fluoric, boric, boran, iodic, iodat, v.v..  
2.4.2. Bỏ hầu hết các hậu tố -um trừ hai nguyên tố Cm (curium) và Tm (thulium) là những  
trường hợp đặc biệt vì để bảo đảm sự tương hợp giữa ký hiệu và tên nguyên tố hoặc để không gây  
nhầm lẫn. Đối với tên các nguyên tố hóa học khác có hậu tố -um thì bỏ hậu tố này, các nguyên tố và  
một số ion có hậu tố -ium thì chỉ bỏ phần -um. Ví dụ: K (kali), Na (natri), Pd (paladi), Sm (samari), Pr  
Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 105  
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
(praseodymi), U (urani), Ti (titani), Pt (platin), La (lanthan), Mn (mangan, ion carboni, ion oxoni, ion  
amoni,…  
2.4.3. Dùng hậu tố -ide thay cho các hậu tố -ua hoặc -ur (có nguồn gốc phiên chuyển từ tiếng  
Pháp), và đọc như từ “ai” trong tiếng Việt. Ví dụ: chloride, carbide, sulfide thay vì clorua, carbua,  
sulfua…Trường hợp oxide, vẫn giữ nguyên như cách phát âm như trước đây là oxit.  
3. Áp dụng quy tắc phiên chuyển gọi tên nguyên tố và hóa chất  
Để gọi tên tiếng Việt cho các nguyên tố và hợp chất hóa học, cần tuân thủ các nguyên tắc nêu trong  
TCVN 5529:2010 và TCVN 5530:2010.  
3.1. Nguyên tố hóa học trong bảng hệ thống tuần hoàn  
3.1.1. Đối với các nguyên tố đã có tên Việt hoặc Hán-Việt  
Giữ nguyên cách gọi đối với các nguyên tố đã có tên Việt hoặc Hán-Việt đang được sử dụng rộng  
rãi. Như các nguyên tố bạc (Ag), vàng (Au), nhôm (Al), đồng (Cu), sắt (Fe), thủy ngân (Hg), chì (Pb),  
thiếc (Sn), lưu huỳnh (S), kẽm (Zn). Tuy nhiên, để có sự liên hệ với nguồn gốc của ký hiệu nguyên  
tố và danh pháp các dẫn chất liên quan, cần viết kèm theo tên Latin trong dấu ngoặc đơn. Ví dụ: bạc  
(Argentum), chì (Plumbum),…  
3.1.2. Tên các nguyên tố không phiên chuyển mà chỉ rút gọn phần đuôi  
Tên nguyên tố liên quan đến tên người và tên địa đanh sẽ không phiên chuyển mà chỉ bỏ đuôi-um.  
Ví dụ như viết Franci (Francium), Dubni (Dubnium), Chì (Plumbum), Đồng (Cuprum), Chlor, Fluor,  
Chromi, Cobalt, Arsenic, Phosphor, Magnesi….. Như vậy, tên các nguyên tố hóa học (theo thứ tự ABC)  
và ký hiệu nguyên tử được nêu trong Bảng 1. Tên Latin của một số nguyên tố được viết trong ngoặc đơn.  
Bảng 1: Tên một số nguyên tố hóa học thường gặp, trích lược [3]  
Tên nguyên tố  
Actini  
Ký hiệu  
Ac  
Sb  
Tên nguyên tố  
Lưu huỳnh (Sulfur)  
Magnesi  
Ký hiệu  
S
Antimon  
Argon  
Mg  
Mn  
Md  
Mo  
Na  
Ne  
AI  
Ar  
Mangan  
Arsenic  
Bạc (Argentum)  
Bismuth  
Bohri  
As  
Ag  
Bi  
Mendelevi  
Molypden  
Natri  
Bh  
B
Neon  
Bor  
Nhôm (Aluminium)  
Nickel  
Brom  
Br  
Ni  
Cadmi  
Cd  
Cf  
Niobi  
Nb  
N
Californi  
Calci  
Nitơ (Nitrogen)  
Nobeli  
Ca  
C
No  
O
Carbon  
Oxy (Oxygen)  
Paladi  
Ceri  
Ce  
Pb  
Pd  
Chì (Plumbum)  
Chlor  
Phosphor  
P
Cl  
Platin  
Pt  
106 Soá 39 - Quyù I naêm 2020  
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
Cobalt  
Co  
Cr  
Cu  
Es  
F
Radon  
Rn  
Fe  
Se  
Si  
Chromi  
Sắt (Ferrum)  
Seleni  
Đồng (Cuprum)  
Einsteni  
Fluor  
Silic  
Stronti  
Sr  
Sn  
Hg  
Ti  
Heli  
He  
H
Thiếc (Stanum)  
Thủy ngân (Hydrargyrum)  
Titani  
Hydro (Hydrogen)  
Iod  
I
Kali  
K
Urani  
U
Kẽm (Zincum)  
Krypton  
Lithi  
Zn  
Kr  
Li  
Vanadi  
V
Vàng (Aurum)  
Wolfram (Tungsten)  
Au  
W
3.2. Hợp chất hóa học thông dụng  
3.2.1. Quy tắc gọi tên  
Có ba kiểu gọi tên các hợp chất hóa học: kiểu lưỡng nguyên, kiểu phối trí, kiểu thay thế. Kiểu phối  
trí chủ yếu áp dụng gọi tên phức chất, kiểu thay thế áp dụng chủ yếu cho chất hữu cơ. Danh pháp hóa  
học phức chất và chất hữu cơ đòi hỏi sự hiểu biết kiến thức chuyên môn tương đối phức tạp về phối tử,  
nguyên tử trung tâm, công thức cấu tạo,… và phục vụ chuyên sâu cho một số ít chuyên ngành (chủ yếu  
ngành y dược), sẽ được trình bày trong một bài viết khác. Bài viết này chỉ trình bày giới hạn các quy tắc  
gọi tên chất vô cơ đơn giản thường gặp.  
3.2.2. Danh pháp các hợp chất vô cơ đơn giản  
Nguyên tắc: chủ yếu sử dụng danh pháp kiểu lưỡng nguyên. Thành phần của hợp chất gồm hai hợp  
phần: hợp phần âm điện và hợp phần dương điện.  
Hợp chất được hợp thành bởi các hợp phần âm và dương cùng với các tiền tố chỉ độ bội  
(multiplicative prefix) (gọi tắt là tiền tố). Hợp phần dương viết trước, hợp phần âm viết sau và được  
phân cách nhau bằng khoảng trống.  
Cách gọi tên:Trong hợp chất vô cơ đơn giản, tên của hợp phần dương là tên của nguyên tố, tên của  
hợp phần âm đơn tố thì kết thúc bằng hậu tố ide, còn tên của hợp phần âm dị tố nói chung có hậu tố at.  
Các hợp phần dương và âm đều có thể là những nhóm và số lượng hợp phần cũng có thể lớn hơn một.  
Nếu có nhiều hợp phần thì tên các hợp phần được viết theo trật tự ABC của ký tự đầu của tên các hợp  
phần hoặc của ký tự thứ hai của tên các hợp phần nếu ký tự đầu giống nhau.  
Cần chú ý trong danh pháp hóa học Việt Nam, do chúng ta dùng tên Latin và tên Việt (và Hán-Việt)  
đối với một số nguyên tố mà IUPAC dùng tên tiếng Anh, cho nên thứ tự các từ trong một số trường hợp  
không giống như trong danh pháp IUPAC.  
Vị trí của hydro luôn luôn nằm sau cùng trong số các hợp phần dương, có thể có khoảng trống phân  
cách với hợp phần âm nếu không chắc chắn nó có liên kết với anion hay không. Tên các hợp chất kép  
(addition compound) được viết sau tên hợp chất chính phân cách bởi gạch ngang dài và tiếp đó là tỷ lệ của  
chúng trong ngoặc đơn. Cách viết tên các phân tử nước kết tinh cũng như vậy. Ví dụ: KCl (kali chloride),  
KMgCl3 (kali magnesi chloride, tên IUPAC là magnesium potassium chloride), NaNH4HPO4 (amoni  
Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 107  
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
natri hydrophosphat), AlK(SO4)2.12H2O (kali nhôm bis(sulfat)-nước(1/12), tên IUPAC là aluminium  
potassium bis(sulfat)-water( 1/12)), Na2F(HCO3) (dinatri fluoride hydrocarbonat).  
Có những cách khác nhau để thể hiện tên các nhóm âm điện đa nguyên tử. Các nhóm như vậy có  
O22  
các nguyên tử cùng loại được viết với các tiền tố nhất định. Ví dụ như  
nhưng tên thông thường là peroxide vẫn dùng được.  
dioxide hoặc dioxide(2-)  
Một số tên truyền thống (thường không kết thúc bằng hậu tố -at) có thể vẫn được sử dụng, mặc dầu  
tên hệ thống vẫn chuẩn xác hơn. Tên hệ thống của một số oxoacid được viết như trong Bảng 2 dưới đây:  
Bảng 2: Tên hệ thống của một số oxoacid, trích lược từ [3]  
Kí hiệu hóa học  
H3BO3  
Tên hệ thống  
trihydro trioxoborat  
H2CO3  
dihydro trioxocarbonat  
hydro trioxonitrat  
HNO3  
HNO2  
hydro dioxonitrat  
H3PO4  
trihydro tetraoxophosphat (V)  
dihydro tetraoxodisulfat (S-S).  
H2S2O4  
Trạng thái oxy hóa của ion được biểu thị bằng số La Mã (trong ngoặc đơn), còn điện tích biểu thị  
bằng số Arập cùng với dấu điện tích (cũng nằm trong ngoặc đơn). Một số minh họa về tên hệ thống của  
các ion như ở Bảng 3 dưới đây.  
Bảng 3: Tên của một số ion/nhóm ion thường gặp, trích lược từ [3]  
Cation  
Tên gọi  
Anion  
Kí hiệu  
Kí hiệu  
Tên gọi  
AsO33-  
arsenit/ trioxoarsenat (3-)/  
trioxoarsenat (III)  
Al3+  
nhôm  
Au+  
vàng (1+)/vàng (I)  
vàng (3+)/vàng (III)  
AsO43-  
arsenat/  
tetraoxoarsenat (3-)/  
tetraoxoarsenat (V)  
Au3+  
Co2+  
cobalt (2+)/cobalt (II)  
Cl-  
chloride  
Co3+  
Cr2+  
cobalt (3+)/cobalt (III)  
chromi (2+)/chromi (II)  
ClO-  
hypochlorit/ oxochlorat (1-)/  
oxochlorat (I)  
Cr3+  
Cu+  
chromi (3+)/chromi (III)  
đồng (1+)/đồng (I)  
ClO4-  
perchlorat/ tetraoxochlorat (1-)/  
tetraoxochlorat (VII)  
Cu2+  
Fe2+  
đồng (2+)/đồng (II)  
sắt (2+)/ sắt (II)  
CrO42-  
chromat/ tetraoxochromat (2-)/  
tetraoxochromat (VI)  
Fe3+  
sắt (3+)/ sắt (III)  
108 Soá 39 - Quyù I naêm 2020  
NGHIÊN CỨU TRAO ĐỔI  
hydrocarbonat (1-)  
hydrotrioxocarbonat (1-)  
hydrotrioxocarbonat (IV)  
hydroxide  
HCO3-  
H3O+  
Na+  
oxoni  
natri  
OH-  
HPO42-  
hydrophosphat (2-)  
hydrotetraoxophosphat (2-)  
hydrotetraoxophosphat (V)  
NH4+  
Pb2+  
amoni/azani  
chì (2+)/chì (lI)  
nitrat/ trioxonitrat (1-)/ trioxonitrat  
(V)  
NO3-  
PO43-  
Pb4+  
Sn2+  
chì (4+)/chì (IV)  
thiếc (2+)/thiếc (II)  
phosphat/ orthophosphat  
tetraoxophosphat (3-)  
tetraoxophosphat (V)  
sulfat/ tetraoxosulfat (2-)/  
tetraoxosulfat (VI)  
Sn4+  
thiếc (4+)/thiếc (IV)  
UO22-  
uranyl (VI)/dioxourani (2+)  
SO42-  
Như vậy, sau khi đã thiết lập các cách gọi tên cation anion, có thể thấy rằng, tên kiểu lưỡng  
nguyên của các hợp chất thực tế không khác với tên của hợp chất nhị tố gồm tên của hợp phần âm điện  
và hợp phần dương điện. Tên của cation luôn luôn đặt trước tên của anion và phân cách nhau bởi khoảng  
trống. Nguyên tắc này luôn luôn phải được tuân thủ và không có ngoại lệ.  
4. Kết luận & đề xuất  
Từ những vấn đề đã phân tích ở trên, tác giả nhận thấy:  
Việc tuân thủ các quy tắc phiên chuyển nêu trên trong công tác biên soạn, trình bày các vấn đề có  
liên quan thuật ngữ hóa học sẽ đảm bảo sự nhất quán, tính khoa học, tính hội nhập nhằm tạo điều kiện  
thuận lợi cho việc tra cứu thông tin, giao lưu giữa các ngành khoa học tiếp cận hóa học và trong truyền  
thông - giao tiếp xã hội.  
Cần triển khai áp dụng triệt để các quy tắc phiên chuyển và danh pháp IUPAC khi viết các thuật  
ngữ hóa học trong các công trình khoa học, trong các văn bản có sử dụng thuật ngữ hóa học sao cho  
đảm bảo tính khoa học và nhất quán. Nên áp dụng thống nhất các quy tắc trên khi sử dụng thuật ngữ hóa  
học, từ các tài liệu chuyên môn (bài giảng, đề thi,…), đến các công trình khoa học, các thông tin truyền  
thông,... Không nên lo ngại rằng sinh viên/người đọc bình thường không sử dụng/hiểu được vì hiện nay  
trình độ ngoại ngữ của sinh viên/người đọc trong nước mỗi ngày một tăng. Việc phiên âm triệt để (ví dụ  
như axit, bazơ,…) chủ yếu bắt nguồn từ sách giáo khoa trung học cơ sở phổ thông nhưng hệ thống thuật  
ngữ khoa học trong giáo dục phổ thông cũng đang diễn ra thay đổi.  
Hiện tại, sau khi bộ 02 tiêu chuẩn quốc gia được công bố (cuối năm 2010), Bộ Giáo dục và Đào  
tạo đã đề nghị các đơn vị chỉ đạo các cơ sở giáo dục, các cơ quan xuất bản và cơ quan chuyên môn triển  
khai áp dụng bộ 02 tiêu chuẩn trên. Việc áp dụng sẽ dễ dàng và phổ cập hơn trong tương lai gần khi bộ  
sách giáo khoa mới được triển khai [1]. Tại hội thảo Thuật ngữ Hóa học trong chương trình và sách giáo  
khoa mới (năm 2017), bàn về việc thống nhất trong hệ thống danh pháp và thuật ngữ hóa học của chương  
trình và sách giáo khoa mới (sự khác biệt theo TCVN 1991 và TCVN 2010), nhóm biên soạn các chương  
trình môn học đã tiếp thu ý kiến của các chuyên gia trong hội thảo và sẽ tiến hành rà soát thuật ngữ trong  
chương trình môn Hóa học để thống nhất với hệ thống thuật ngữ theo bộ tiêu chuẩn Việt Nam 2010 và  
sẽ bàn bạc để thống nhất với các chương trình Sinh học, Vật lý về vấn đề này.  
Việc áp dụng các quy tắc phiên chuyển thuật ngữ hóa học sẽ gặp khó khăn trong thời gian đầu.  
Thoâng tin KH - GD Tröôøng Ñaïi hoïc Xaây döïng Mieàn Taây 109  
pdf 7 trang yennguyen 16/04/2022 1020
Bạn đang xem tài liệu "Áp dụng các quy tắc phiên chuyển và danh pháp IUPAC vào danh pháp hóa học Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfap_dung_cac_quy_tac_phien_chuyen_va_danh_phap_iupac_vao_danh.pdf