Tổng hợp và đặc trưng hóa polyme sinh học dẫn xuất của 2,5-furandicarboxylic acid và 1,4-butanediol

JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 052-056  
Tổng hợp và đặc trưng hóa polyme sinh học dẫn xuất  
của 2,5-furandicarboxylic acid và 1,4-butanediol  
Synthesis and Characterization of Bio-Based Polymer Derived from 2,5-Furandicarboxylic Acid  
and 1,4- Butanediol  
Vũ Trung Nam, Nguyễn Duy Hiếu, Nguyễn Tường Huy, Phạm Thị Ni, Trần Quang Tùng,  
Nguyễn Huy Tùng, Nguyễn Thu Hà, Trần Thị Thúy*  
Vin Kthut hóa hc, Trường Đại hc Bách khoa Hà Ni, Hà Ni, Vit Nam  
*Email: thuy.tranthi3@hust.edu.vn  
Tóm tắt  
Hiện nay, polyme dựa trên nguyên liệu dầu mỏ đang chiếm ưu thế lớn trong lĩnh vực công nghiệp vật liệu  
với những ứng dụng đa dạng. Tuy nhiên, do nguồn cung cấp nhiên liệu hoá thạch giới hạn, cũng như những  
tác động xấu tới môi trường khi sử dụng chúng mà xu hướng nghiên cứu các vật liệu sinh học thay thế đang  
phát triển mạnh mẽ. Gần đây, các polyme sinh học dẫn xuất của 2,5-furandicarboxylic acid (FDCA) thu hút  
được nhiều quan tâm; tuy nhiên, nhiều tính chất cơ và nhiệt của chúng chưa được nghiên cứu chi tiết. Trong  
nghiên cứu này, poly(butylene 2,5-furandicarboxylic acid) (PBF) đã được tổng hợp từ FDCA và butane-1,4-  
diol bằng phản ứng trùng ngưng nóng chảy. Phổ 1H NMR và IR đã xác nhận cấu trúc thẳng của polyester  
này; phân tích TGA và DSC cho thấy nhiệt độ nóng chảy của polyme là 159ºC và nhiệt độ phân huỷ là  
357ºC.  
Từ khóa: poly(butylene 2,5-furandicarboxylate), FDCA, phân tích cấu trúc PBF, các tính chất nhiệt  
Abstract  
Nowadays, petroleum-based polymers are currently dominant in material industries, with wide scope  
applications. However, due to the finite supply of fossil fuels as well as the negative effects on the  
environment while utilizing them, the need of developing bio-based alternatives is dramatically increase.  
Recently, the biopolymers derived from 2,5-furandicarboxylic acid (FDCA) have been gradually investigated;  
however, some of their thermal and mechanical properties are not fully understood. Herein, we are  
conducting research about a FDCA-derived biopolymer poly(butylene 2,5-furandicarboxylate) (PBF), which  
was synthesized from FDCA and butane-1,4-diol by the melting polycondensation.1H NMR and IR spectrum  
confirmed the linear structure of this polyester, then TGA and DSC results were analyzed to indicate the  
melting point at 159ºC and the thermal degradation at 357ºC.  
Keywords: poly(butylene 2,5-furandicarboxylate), FDCA, chemical structure of PBF, thermal properties  
1. Mở đầu  
Tổng*hợp polyme là một trong những ngành  
2,5-dicarboxylic acid (FDCA). FDCA là một dẫn  
xuất của 5-hydroxylmethylfurfural (HMF), một sản  
phẩm có thể tổng hợp trực tiếp từ sinh khối như  
đường, tinh bột, cellulose [7]. FDCA được đặc biệt  
quan tâm bởi tiềm năng thay thế hoàn hảo cho  
terphthalic acid (TPA) trong công nghiệp tổng hợp .  
Bên cạnh đó, polyme dẫn xuất của FDCA có những  
tính chất tương tự đặc biệt với polyme tương ứng của  
TPA.  
quan trọng hàng đầu của công nghiệp hóa chất.  
Những năm gần đây, theo cùng với xu thế phát triển  
nền kinh tế và công nghệ bền vững, nhiều hướng  
nghiên cứu polyme mới được khai thác và triển khai.  
Một trong số đó là tổng hợp polyme đi từ những  
nguồn tài nguyên tái tạo, thay thế cho những polyme  
dựa trên nguyên liệu dầu mỏ đang chiếm ưu thế trong  
công nghiệp polyme. Sự thay thế này góp phần hạn  
chế sự lệ thuộc vào nguồn tài nguyên hoá thạch có  
giới hạn, đồng thời giảm thiểu phát thải khí nhà kính  
từ những giai đoạn trong vòng đời của vật liệu  
polyme. Những monome sinh học tiềm năng được  
quan tâm gần đây bao gồm: levulinic acid [1], lactic  
acid [2], isosorbide [3], succinic acid [4],  
dodecanedioic acid [5], ethylene glycol [6], và furan-  
Polyme dẫn xuất của FDCA và ethylene glycol,  
PEF, lần đầu được tổng hợp và khảo sát tính chất bởi  
Gandini và đồng nghiệp thông qua phản ứng  
polytransesterification với xúc tác Sb2O3 [8]. Dựa  
trên kết quả này, PEF cùng với một loạt polyme dẫn  
xuất của FDCA và diol tiếp tục được tổng hợp và  
khảo sát tiềm năng ứng dụng [9]. Những kết quả phân  
tích cho thấy polyme chứa vòng furan PEF có cấu  
trúc, tính chất nhiệt, cơ tính,… tương đồng với  
polyme dẫn xuất xủa TPA tương ứng [10], nhưng  
đồng thời tính chất thẩm thấu oxygen, nước, carbon  
dioxide tỏ ra ưu việt hơn trong ứng dụng đóng gói  
ISSN: 2734-9381  
https://doi.org/10.51316/jst.148.etsd.2021.1.1.11  
Received: May 13, 2020; accepted: June 02, 2020  
52  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 052-056  
[11,12]. Cùng với việc khảo sát tính chất, phản ứng  
polyme hóa cũng được cải tiến và phản ứng trùng  
ngưng nóng chảy được sử dụng phổ biến hơn với xúc  
tác titanate, thay thế cho antimony bởi hoạt tính cao,  
cũng như an toàn hơn với môi trường [13].  
Cùng với mục tiêu thay thế PET, poly(butylene  
terphathalate) (PBT) cũng là một trong những polyme  
quan trọng cần có giải pháp thay thế bằng những  
polyme có tính bền vững hơn. Tương tự PET và PEF,  
polyme tiềm năng thay thế cho PBT là PBF –  
poly(butylene furan-2,5-dicarboxlyate) bởi sự tương  
đồng về cấu tạo phân tử. Sự tạo thành PBF từ các  
monome là FDCA và butylene glycol cũng đi qua  
phản ứng trùng ngưng nóng chảy hai giai đoạn.  
Trong nghiên cứu này, PBF đã được tổng hợp  
1
và đặc trưng hóa bằng các phép phân tích: H NMR,  
IR, DSC, TGA. Qua đó đánh giá những tính chất  
nhiệt của polyme giàu tiềm năng này để đưa ra một  
kết luận sơ lược về khả năng thay thế PBT của nó.  
2. Thực nghiệm  
2.1 Hoá chất  
Hình 1. Phản ứng trùng ngưng 2 bước tổng hợp PBF  
2.3 Đặc trưng hóa  
FDCA (CAS: 3238-40-2) 1,4-butanediol  
(CAS: 110-63-4) được cung cấp bởi công ty Sigma –  
Aldrich. Titanium tetraisopropoxide (CAS: 546-68-9)  
được mua từ Energy Chemical.  
Phổ 1H NMR được đo trong dung môi  
Trifluoroacetic acid-d sử dụng Bruker Avance 300  
spectrometer với đầu dò QNP 300 MHz. Tính chất  
nhiệt của sản phẩm được nghiên cứu dựa vào kết quả  
phân tích trọng lượng nhiệt (TGA) và phân tích nhiệt  
quét vi sai (DSC). Mẫu phân tích được đo bằng máy  
phân tích Shimadzu DTG-60H trong khoảng nhiệt độ  
từ 25 ºC tới 600 ºC với tốc độ gia nhiệt 10 ºC/phút.  
Phổ hồng ngoại được thực hiện trên máy ATR/FTIR,  
Bruker TENSOR 27 FTIR.  
2.2 Tổng hợp PBF  
Phản ứng trùng ngưng trực tiếp được thực hiện  
theo quy trình đã được Zhu và đồng nghiệp phát triển  
[14].  
1.56 g FDCA và một lượng dư butane-1,4-diol  
(tỉ lệ 1:3) được đưa vào một bình Schlenk 100ml,  
theo đó là thêm một thể tích thích hợp xúc tác  
Ti(OiPr)4 (10 mg/ml Ti(OiPr)4 trong 1,4-butanediol)  
[14]. Sau đó bình Schlenk được kết nối với một sinh  
hàn Dimroth. Hệ phản ứng được nạp đầy với argon,  
sau đó thay thế bằng chân không; quá trình này lặp lại  
3 lần để chắc chắn oxygen đã được loại bỏ hoàn toàn.  
3. Các kết quả và thảo luận  
3.1 Cấu trúc polyme  
Kết quả phân tích 1H NMR và ATR-IR cho thấy  
cấu trúc của PBF là thẳng tương tự các polyeste phổ  
biến.  
Giai đoạn đầu của phản ứng được thực hiện với  
môi trường argon. Nhiệt độ được nâng đến 150 ºC và  
giữ trong 2 h, sau đó nâng lên đến 175 ºC trong 12 h,  
và cuối cùng 200 ºC trong 4 h. Tiếp theo trong giai  
đoạn 2, nhiệt độ được giữ ổn định tại 200 ºC cùng với  
điều kiện chân không trong 8 h.  
Dao động các liên kết của polyme cho những tín  
hiệu đặc trưng trên phổ IR trong hình 3: vòng furan  
tại 1574 cm1 (C=C) và 3113 cm1 (=CH), nhóm este  
tại 1715 cm1 (C=O) và 1266 cm1 (CO), CH no  
tại 2967 cm1.  
Trong cả hai giai đoạn, hệ phản ứng được khuấy  
trộn bằng khuấy từ với tốc độ 300 rpm.  
1
Phổ H NMR thể hiện trên hình 2 cho thấy tín  
hiệu của hydrogen vòng furan tại gần 7,5 ppm, nhóm  
CH2−O gần 4.5 ppm, cùng với nhóm tín hiệu  
hydrogen của mạch no trong khoảng 1-2 ppm. Sự  
vắng mặt của tín hiệu hydro của FDCA tại 7,29 ppm,  
đồng thời tỉ lệ các tín hiệu đều rất gần với hệ số tỉ  
lượng chứng tỏ FDCA đã phản ứng hết, cũng như  
rượu đã được loại bỏ hoàn toàn bằng chân không.  
Sản phẩm được lấy ra khỏi bình phản ứng bằng  
thìa khi còn nóng chảy, sau đó được làm nguội từ từ  
dưới nhiệt độ phòng. PBF có màu vàng nâu hơi trong  
suốt, cứng và giòn. Theo thời gian, PBF chuyển dần  
sang màu nâu đục. PBF không tan trong hầu hết các  
dung môi khảo sát, chỉ tan tốt trong TFA và tan ít  
được trong DMSO nóng.  
53  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 052-056  
Bên cạnh những tín hiệu chính trên phổ  
là độ polyme hoá DP [15]. Ở đây, kết quả phân tích  
với mẫu PBF có được DP = 44, ứng với trọng lượng  
phân tử trung bình số (Mn) của polyme bằng:  
1H NMR, các tín hiệu gán cho các nhóm chức đầu  
mạch được tìm thấy tại 4,2 ppm và 7,4 ppm; bằng  
cách tính tỉ lệ tích phân cường độ tín hiệu giữa tín  
hiệu chính và end-group tương ứng, giá trị thu được  
Mn = DP x Mmắt xích = 44 x 210 = 9,24 × 103 (g/mol)  
NMR/NMR2  
Thuy Tran Thi, PBF.01 1H NMR (TFA)  
O
a
O
O
O
b
O
a
c
b
c
end  
group  
của  
end group  
của H  
c
H
a
7.5  
7.0  
6.5  
6.0  
5.5  
5.0  
4.5  
f1 (ppm)  
4.0  
3.5  
3.0  
2.5  
2.0  
1.5  
1.  
Hình 2. Phổ 1H NMR của PBF.  
0.00  
0.02  
0.04  
0.06  
0.08  
0.10  
0.12  
3113 cm–1  
CH furan  
2967 cm–1  
CH no  
1574 cm–1  
C=C furan  
1715 cm–1  
C=O este  
1266 cm–1  
CO este  
4000  
3800  
3600  
3400  
3200  
3000  
2800  
2600  
2400  
2200  
2000  
1800  
1600  
1400  
1200  
1000  
800  
600  
400  
Số sóng (cm−1)  
Hình 3. Phổ ATR-IR của PBF.  
54  
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 052-056  
TG /%  
DSC /(mW/mg)  
↓ exo  
2.0  
[1]  
100  
Onset: 356.7°C  
1.5  
1.0  
0.5  
80  
60  
Peak: 166.6°C  
40  
20  
Ende: 373.2°C  
Ende: 174.0°C  
[1]  
Onset: 159.4°C  
Restmasse: 8.52 % (597.9 °C)  
0.0  
300  
100  
200  
400  
500  
Temperatur /°C  
Hình 4. Đường cong DSC và TGA của PBF.  
3.2 Phân tích nhiệt  
biến thiên khối lượng trong quá trình phân huỷ nhìn  
chung tương tự với PBT, mặc dù nhiệt độ bắt đầu  
phân huỷ của mẫu đo PBF này vẫn thấp hơn khá  
nhiều (442 ºC của PBT) [14].  
Mẫu polyme không trải qua bất cứ quá trình xử  
lí nhiệt nào trước khi được gửi đi để thực hiện các  
phép đo.  
4. Kết luận  
3.2.1 Phân tích nhiệt quét vi sai DSC  
Polyme sinh học PBF mong muốn đã được tổng  
hợp thành công từ FDCA và butane-1,4-diol bằng  
phản ứng trùng ngưng hai giai đoạn sử dụng xúc tác  
Ti(OiPr)4. Các kết quả phân tích nhiệt cho thấy nhiệt  
độ nóng chảy của sản phẩm PBF là 159ºC và nhiệt độ  
phân huỷ là 357ºC. Những kết quả này đều thấp hơn  
so với giá trị tương ứng của PBT. Tuy vậy, chúng vẫn  
nằm trong yêu cầu bền nhiệt cho sản xuất và những  
mục đích sử dụng cơ bản mà PBT đang được ứng  
dụng (vật liệu cách điện và đồ dùng nội thất,...).  
Quá trình phân tích nhiệt quét vi sai được bắt  
đầu từ 25 ºC tới 600 ºC với tốc độ 10 ºC/phút. Đường  
cong DSC thu được cho thấy những quá trình nhiệt  
xảy ra với mẫu polyme khi chịu tác dụng của tác nhân  
nhiệt bên ngoài. Ở đây, có một peak thu nhiệt đáng  
chú ý tại 159 ºC (peak temp tại 167 ºC), tương ứng  
với điểm nóng chảy của PBF. Kết quả này tương  
đương với mẫu PBF được Poulopoulou và đồng  
nghiệp tổng hợp gần đây với điểm nóng chảy tại  
khoảng 160 oC [16].  
Bên cạnh đó, bởi hạn chế về mặt thiết bị (khuấy  
cơ, độ chân không,…), những điều kiện thực nghiệm  
khi tổng hợp polyme trong nghiên cứu này chưa đạt  
tới sự tối ưu để có thể nhận được được sản phẩm  
polyme tốt nhất. Do vậy, với những sự cải thiện về  
điều kiện thực nghiệm, sản phẩm polyme sinh học  
PBF được trông đợi sẽ có những tính chất nhiệt tốt  
hơn.  
Như vậy, nhiệt độ nóng chảy của PBF thấp hơn  
khá nhiều so với polyme tương tự dẫn xuất của TPA  
là PBT (224 ºC) [17]. Trong điều kiện làm nguội  
chậm khi được tổng hợp, PBF kết tinh hình thành cấu  
trúc tinh thể trật tự. Vì vậy, mẫu đo không cho sự  
thay đổi rõ ràng trên đường cong DSC ứng với nhiệt  
độ hoá thuỷ tinh Tg. Một quy trình bao gồm gia nhiệt  
nóng chảy và làm lạnh nhanh với nitrogen lỏng nhằm  
tạo mẫu vật liệu vô định hình cần được thực hiện  
trước khi có thể đo đạc được Tg từ phép phân tích  
DSC.  
Mặt khác, khả năng ứng dụng của một polyme  
cần được đánh giá qua tổng thể tính chất cơ nhiệt của  
nó. Vì vậy, các nghiên cứu sâu hơn cần được tiếp tục  
tiến hành và phân tích để có được sự đánh giá chính  
xác hơn. Trong thời gian tới, chúng tôi sẽ tối ưu  
những điều kiện để có được polyme phân tử khối cao  
với PBF, cũng như những polyme dẫn xuất khác của  
FDCA, đồng thời phân tích và đánh giá những đặc  
trưng và tính chất cơ nhiệt của chúng.  
3.2.2 Phân tích nhiệt trọng lượng TGA  
Phép đo TGA được thực hiện song song cùng  
DSC và cũng có những tham số phép đo như trên.  
Kết quả cho thấy mẫu PBF chỉ bắt đầu phân huỷ tại  
300 ºC và sự sụt giảm khối lượng trở nên rõ ràng tại  
357 ºC (onset temp của quá trình phân huỷ) với tổng  
cộng khoảng 90% khối lượng mất so với ban đầu. Sự  
55  
 
JST: Engineering and Technology for Sustainable Development  
Vol. 1, Issue 1, March 2021, 052-056  
[9]. M. Jiang, Q. Liu, Q. Zhang, C. Ye, G. Zhou, A series  
Lời cảm ơn  
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển  
khoa học và công nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong  
đề tài mã số 104.02-2019.12.  
of furan‐aromatic polyesters synthesized via direct  
esterification method based on renewable resources,  
Journal of Polymer Science Part A: Polymer  
Chemistry, 50 (2012) 1026-1036.  
[10]. S.K. Burgess, J.E. Leisen, B.E. Kraftschik, C.R.  
Mubarak, R.M. Kriegel, W.J. Koros, Chain mobility,  
thermal, and mechanical properties of poly (ethylene  
furanoate) compared to poly (ethylene terephthalate),  
Macromolecules, 47 (2014) 1383-1391.  
Tài liệu tham khảo  
[1]. F.D. Pileidis, M.M. Titirici, Levulinic acid  
biorefineries: new challenges for efficient utilization  
of biomass, ChemSusChem, 9 (2016) 562-582.  
[2]. J. Duo, Z. Zhang, G. Yao, Z. Huo, F. Jin,  
Hydrothermal conversion of glucose into lactic acid  
with sodium silicate as a base catalyst, Catalysis  
Today, 263 (2016) 112-116.  
[11]. S.K. Burgess, D.S. Mikkilineni, B.Y. Daniel, D.J.  
Kim, C.R. Mubarak, R.M. Kriegel, W.J. Koros,  
Water sorption in poly (ethylene furanoate) compared  
to poly (ethylene terephthalate). Part 2: Kinetic  
sorption, Polymer, 55 (2014) 6870-6882.  
[3]. A.F. Sousa, J.F. Coelho, A.J. Silvestre, Renewable-  
based poly ((ether) ester)  
furandicarboxylic acid, Polymer, 98 (2016) 129-135.  
s
from 2, 5-  
[12]. S.K. Burgess, O. Karvan, J.R. Johnson, R.M. Kriegel,  
W.J. Koros, Oxygen sorption and transport in  
amorphous poly(ethylene furanoate), Polymer, 55  
(2014) 4748-4756.  
[4]. C. Rizescu, I. Podolean, J. Albero, V.I. Parvulescu,  
S.M. Coman, C. Bucur, M. Puche, H. Garcia, N-  
Doped graphene as a metal-free catalyst for glucose  
oxidation to succinic acid, Green Chemistry, 19  
(2017) 1999-2005.  
[13]. W.L. Jenkins, G. Rhodes, M. Rule, Process to prepare  
high molecule weight polyester, Google Patents,  
1992.  
[5]. K.D. Green, M.K. Turner, J.M. Woodley, Candida  
cloacae oxidation of long-chain fatty acids to dioic  
acids, Enzyme microbial technology, 27 (2000) 205-  
211.  
[14]. J. Zhu, J. Cai, W. Xie, P.-H. Chen, M. Gazzano, M.  
Scandola, R.A. Gross, Poly (butylene 2, 5-furan  
dicarboxylate),  
a biobased alternative to PBT:  
synthesis, physical properties, and crystal structure,  
Macromolecules, 46 (2013) 796-804.  
[6]. N. Li, Y. Zheng, L. Wei, H. Teng, J. Zhou, Metal  
nanoparticles supported on WO 3 nanosheets for  
highly selective hydrogenolysis of cellulose to  
ethylene glycol, Green Chemistry, 19 (2017) 682-  
691.  
[15]. J. Ma, X. Yu, J. Xu, Y. Pang, Synthesis and  
crystallinity  
of  
poly  
(butylene  
2,  
5-  
furandicarboxylate), Polymer, 53 (2012) 4145-4151.  
[16]. N. Poulopoulou, G. Kantoutsis, D.N. Bikiaris, D.S.  
Achilias, M. Kapnisti, G.Z. Papageorgiou, Biobased  
engineering thermoplastics: poly (butylene 2, 5-  
furandicarboxylate) blends, Polymers, 11 (2019) 937.  
[7]. Y. Su, H.M. Brown, X. Huang, X.-d. Zhou, J.E.  
Amonette, Z.C. Zhang, Single-step conversion of  
cellulose to 5-hydroxymethylfurfural (HMF),  
a
versatile platform chemical, Applied Catalysis A:  
[17]. M. Gomez, M. Cozine, A. Tonelli, High-resolution  
solid-state carbon-13 NMR study of the. alpha. and.  
beta. crystalline forms of poly (butylene  
terephthalate), Macromolecules, 21 (1988) 388-392.  
General, 361 (2009) 117-122.  
[8]. A. Gandini, A.J. Silvestre, C.P. Neto, A.F. Sousa, M.  
Gomes, The furan counterpart of poly (ethylene  
terephthalate): An alternative material based on  
renewable resources, Journal of Polymer Science Part  
A: Polymer Chemistry, 47 (2009) 295-298.  
56  
pdf 5 trang yennguyen 18/04/2022 1860
Bạn đang xem tài liệu "Tổng hợp và đặc trưng hóa polyme sinh học dẫn xuất của 2,5-furandicarboxylic acid và 1,4-butanediol", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftong_hop_va_dac_trung_hoa_polyme_sinh_hoc_dan_xuat_cua_25_fu.pdf