Tổng hợp và ứng dụng vật liệu SBA-15 và composite SBA-15/TiO₂ nanotube từ thủy tinh lỏng Việt Nam để loại bỏ Urani(VI) và Thori(IV) khỏi dung dịch

THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
TỔNG HỢP VÀ ỨNG DỤNG VẬT LIỆU SBA-15 VÀ  
COMPOSITE SBA-15/TiO2 NANOTUBE TỪ THỦY  
TINH LỎNG VIỆT NAM ĐỂ LOẠI BỎ URANI(VI)  
VÀ THORI(IV) KHỎI DUNG DỊCH  
Vật liệu mao quản trung bình silica SBA-15 và vật liệu biến tính composite SBA-15/TiO2 na-  
notubes được tổng hợp thành công từ thủy tinh lỏng Việt Nam và axit sunfuric. Các đặc tính của mẫu  
vật liệu đã tổng hợp được xác định bằng các kỹ thuật XRD, BET, TEM. Nghiên cứu quá trình hấp phụ  
urani(VI) và thori(IV) trên vật liệu được thực hiện theo phương pháp mẻ, một số yếu tố ảnh hưởng  
tới quá trình hấp phụ như pH, thời gian tiếp xúc, nồng độ đầu của các ion U(VI) và Th(IV) đã được  
khảo sát.  
Kết quả cho thấy khả năng hấp phụ của vật liệu SBA-15/TiO2 nanotubes đối với cả hai kim  
loại đã tăng đáng kể (666 mg/g đối với urani và 222 mg/g đối với thori) so với SBA-15 (476 mg/g đối  
với urani và 116 mg/g đối với thori). Các kết quả nghiên cứu phù hợp với mô hình đẳng nhiệt hấp phụ  
Langmuir và mô hình động học biểu kiến bậc hai.  
1. MỞ ĐẦU  
đối với các nguyên tố phóng xạ U, , Cs trong  
nước thải nhiễm phóng xạ [1]. Vật liệu SBA-15  
có bề mặt riêng lớn (500-1000 m2/g) đường kính  
mao quản trung bình lớn (3- 10 nm), có độ bền  
cơ học và hóa học cao, có thể biến tính hóa làm  
tăng cường ái lực hấp phụ với các ion phóng xạ  
trong môi trường nước nên có dung lượng hấp  
phụ lớn, tốc độ hấp phụ cao, đáp ứng tốt yêu cầu  
giảm thiểu về thể tích lưu trữ, chôn cất chất thải  
phóng xạ thứ cấp thu được sau khi xử lý chất thải  
phóng xạ dạng lỏng [2,3,4]. Khi biến tính vật liệu  
SBA-15 bằng cách đưa các ion kim loại như Fe,  
Cu, Ti, Al vào vật liệu SBA-15 để tạo ra các tâm  
hoạt tính mới nhằm tăng ái lực hấp phụ, tăng tốc  
độ và độ chọn lọc các ion phóng xạ một cách rõ  
rệt [8]. Vật liệu biến tính SBA-15/TiO2 với sự tồn  
tại của thành phần TiO2 nanotube (TNT) có khẳ  
năng trao đổi ion với các cation Na+ trong mạng  
lưới dioxit titan nanotube, vì vậy làm tăng cường  
dung lượng và tốc độ hấp phụ các ion phóng xạ,  
Các chất thải ô nhiễm các đồng vị phóng xạ, các  
kim loại nặng có nguồn gốc từ các cơ sở nghiên  
cứu và ứng dụng kỹ thuật hạt nhân, công nghiệp  
khai khoáng và nhà máy điện hạt nhân đã và  
đang là vấn đề nóng về môi trường. Các hạt nhân  
phóng xạ như urani (238), thori (232), radi (226),  
cesi (137, 134), iod (131), chì (210), … có trong  
chất thải phóng xạ ở các pha lỏng, rắn, khí… rất  
độc hại và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng.  
Có nhiều phương pháp xử lý chất thải phóng xạ  
nhưng hiện nay xu thế tìm ra những giải pháp  
công nghệ, sử dụng vật liệu mới có dung lượng  
hấp phụ cao và chọn lọc đối với các ion phóng xạ,  
tốc độ xử lý cao, giá thành cạnh tranh và giảm thể  
tích lưu trữ chất thải phóng xạ thứ cấp sau xử lý  
là vấn đề đang được quan tâm nghiên cứu và phát  
triển [9,10].  
Vật liệu hấp phụ hiệu năng cao silic dioxit mao  
quản trung bình SBA-15 có khả năng hấp phụ  
Số 66 - áng 03/2021 23  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
đặc biệt là ion urani (VI) và thori (IV) trong môi trong 2 giờ ở 35- 400C để tạo thành dung dịch  
trường nước [5,6,7,12]. Trong nghiên cứu này vật đồng nhất. 37g thủy tinh lỏng được thêm vào  
liệu SBA-15 và vật liệu biến tính SBA-15/TNT đã dung dịch đó ở nhiệt độ phòng khuấy trộn trong  
được tổng hợp từ thủy tinh lỏng Việt Nam làm 1h. Tiếp theo, thêm nhanh 48g H2SO4 98% vào  
chất hấp phụ để xử lý ion urani (VI) và thori (IV) dung dịch và khuấy tiếp trong 30 phút. Sau đó,  
trong dung dịch nước để ứng dụng cho mục đích giảm tốc độ khuấy để giữ hỗn hợp dạng gel trong  
xử lý nước thải ô nhiễm phóng xạ từ các ngành 18 giờ và làm già hóa trong 24h tại 800C. Chất rắn  
công nghiệp khai khoáng, chế biến quặng có tính tách từ hỗn hợp được lọc, rửa bằng nước cất cho  
phóng xạ, các cơ sở nghiên cứu phóng xạ, các nhà đến khi pH = 7, sấy khô ở nhiệt độ phòng. Bột  
máy điện hạt nhân, đồng thời giảm thiểu thể tích rắn nhận được đem nung ở 5500C trong 5h để thu  
lưu trữ, chôn cất chất thải phóng xạ sau xử lý.  
được sản phẩm cuối cùng là SBA-15.  
Tng hợp SBA-15/TiO2 nanotubes (SBA-15/  
TNT)  
2. THỰC NGHIỆM  
2.1. Hóa chất  
Cho 8g P123 vào trong 380 ml nước cất và khuấy  
trong 2 giờ ở 35- 400C để tạo thành dung dịch  
đồng nhất. Cho 37g thủy tinh lỏng vào dung dịch  
đó ở nhiệt độ phòng khuấy trộn trong 1h, sau đó  
thêm 7g TiO2 nanotubes vào hỗn hợp (tương ứng  
với tỷ lệ mol Si/Ti = 1) và tiếp tục khuấy trong 1h  
với tốc độ 500 vòng/phút. Tiếp theo, thêm nhanh  
48g H2SO4 98% vào dung dịch và khuấy tiếp trong  
30 phút. Sau đó, giảm tốc độ khuấy để giữ hỗn  
hợp dạng gel trong 18 giờ và làm già hóa trong  
24h tại 800C. Chất rắn tách từ hỗn hợp được lọc,  
rửa bằng nước cất cho đến khi pH = 7, sấy khô ở  
nhiệt độ phòng. Bột rắn nhận được đem nung ở  
5500C trong 5h để thu được sản phẩm cuối cùng  
vật liệu biến tính SBA-15/TNT.  
Titan dioxit (TiO2, Hàn Quốc, 98%), Natri  
hiđroxit (NaOH, Trung Quốc, 98%), Axit sun-  
furic (H2SO4 (99%), Trung Quốc), PLURONIC  
P123 (Sigma Aldrich, 98%), ủy tinh lỏng (Na-  
2SiO3 (28% SiO2), Việt Nam), Muối uranyl axetat  
(UO2(CH3COO)2·2H2O) và thori clorua (Cl4),  
(Viện Công nghệ xạ hiếm), Arsenazo III ((HO)2  
C10H2(SO3H)2(N=NC6H4AsO3H2)2, Trung Quốc).  
2.2. Tng hợp vật liệu  
Tng hợp TiO2 nanotubes (TNT)  
TiO2 nanotubes được tổng hợp theo phương pháp  
hồi lưu thủy nhiệt: cho 30 g TiO2 bột vào 630 ml  
dung dịch NaOH 10M, khuấy đều 30 phút, siêu  
âm trong 1h. Sau đó, hỗn hợp được đưa vào bình  
autoclave có lót Teflon, đun nóng trong 24h ở  
110oC. Hỗn hợp sau phản ứng được lọc, rửa nhiều  
lần bằng nước cất để có pH = 7, sau đó tiếp tục xử  
lý axit để trao đổi ion Na+ bằng cách ngâm trong  
500ml HCl (0,1 M) trong 24h (dung dịch có pH =  
5). Sản phẩm được lọc, rửa đến pH = 7 trước khi  
đem sấy ở nhiệt độ 80oC trong 24h, sau đó nung  
ở 300oC trong 2h. Sản phẩm dạng bột trắng thu  
được là TiO2 nanotubes, ký hiệu là TNT.  
2.3. Các phương pháp xác định các đặc trưng  
vật liệu và phân tích các nguyên tố phóng xạ  
Các đặc trưng của các mẫu vật liệu được xác định  
bằng các kỹ thuật phổ hồng ngoại (FTIR) trên  
máy Impact-410 (Đức), Phương pháp đẳng nhiệt  
hấp phụ-giải hấp phụ N2 (BET) đo tại tại Viện  
Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ  
Việt Nam. Phổ tán xạ năng lượng tia X (EDX)  
được đo trên máy Jeol-JMS 6490. Ảnh hiển vi  
điện tử truyền qua (TEM) được đo tại Viện Vệ  
sinh dịch tễ trung ương. Phương pháp nhiễu xạ  
tia X (XRD), phổ được đo trên máy Shimadzu  
Tng hợp SBA-15  
Cho 8g P123 vào trong 380 ml nước cất và khuấy  
24 Số 66 - áng 03/2021  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
XRD-6100 với tia phát xạ CuKα có bước sóng λ = 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN  
1.5417Å tại Khoa Hóa học, Trường Đại học Khoa  
3.1. Kết quả xác định các đặc trưng của vật liệu  
học Tự Nhiên ĐHQG Hà Nội, Phân tích xác định  
nồng độ urani (VI) và thori (IV) trong dung dịch  
bằng phương pháp Arsenazo III trên máy so màu  
6300 ở bước sóng 655 nm và thiết bị quang phổ  
phát xạ cao tần ICP-MS Spectrometer tại Viện  
Công nghệ xạ hiếm – Viện Năng lượng nguyên  
tử Việt Nam.  
Phổ XRD của mẫu vật liệu biến tính SBA-15/TNT  
rất giống với mẫu SBA-15 (Hình 1a), SBA-15 thu  
được có độ trật tự cao. Đỉnh tương ứng với góc  
phản xạ hẹp tại 2θ < 2° có cường độ cao nên cấu  
trúc hình lục giác 2D của mẫu SBA-15/TNT vẫn  
duy trì. Điều này khẳng định rằng sự kết hợp của  
titan không ảnh hưởng đến cấu trúc hình lục giác  
của SBA-15. Kết quả XRD góc rộng (hình 1b) cho  
thấy rõ ràng rằng một số lượng titan đã được kết  
2.4. ực nghiệm hấp phụ ion urani (VI) và  
thori (IV) trong dung dịch nước  
Để đánh giá dung lượng hấp phụ urani, thori hợp vào khung silic dioxit của SBA-15 trong điều  
của vật liệu SBA-15 và SBA-15/TNT và các yếu kiện thí nghiệm. Các đỉnh cụ thể tại 2θ = 25,3°  
tố ảnh hưởng đến quá trình xử lý urani (VI) và trong SBA-15/TNT được gán cho pha anatase,  
thori (IV), thực nghiệm được tiến hành trong cường độ các đỉnh tương ứng với lượng Ti được  
điều kiện hấp phụ theo quy trình như sau: cho 5 cho vào. Vì vậy, vật liệu biến tính SBA-15/TNT đã  
mg vật liệu SBA-15 hoặc SBA-15/TNT vào 50 ml được tổng hợp thành công. Phổ FT-IR của SBA-  
dung dịch urani và thori có nồng độ ban đầu là 15 (hình 2a) hiển thị dải hấp thụ ở khoảng tần số  
(20 - 300mg/L và 10 - 150 mg/L tương ứng) trong hơn 3400 cm-1 là đặc trưng cho các phân tử nước  
bình nón 100 mL, nhiệt độ của các mẫu được giữ trong tinh thể và các phân tử nước bị hấp phụ vật  
ổn định ở 28 1oC ở pH tối ưu. Các mẫu được lắc lý bên trong các lỗ xốp. Các đỉnh xuất hiện xung  
trên máy lắc, tốc độ lắc là 120 vòng/phút đến khi quanh 1000-1100 cm-1 có thể là do Si-O –Si và Si-  
quá trình hấp phụ đạt tới trạng thái cân bằng. Lấy O–H dao động bất đối xứng kéo dài và cho biết sự  
mẫu pha lỏng tại các thời gian khác nhau bằng có mặt của silic dioxit trong vật liệu sau tổng hợp.  
cách hút ra 1 ml dung dịch, lọc tách pha rắn ra Có hai dải mới tại 2931 và 1630 cm-1, tương ứng  
khỏi mẫu lỏng bằng bộ màng lọc 0.45 µm, phân là các dao động kéo dài của C – H trong nhóm  
tích xác định nồng độ urani và thori trong các propyl và liên kết C=N. Đối với mẫu SBA-15/  
mẫu theo phương pháp trắc quang so màu ở bước TNT, độ hấp thụ IR ở khoảng 960cm-1 thường là  
sóng 665 nm trên máy UV-vis và thiết bị phân đặc trưng của dao động Ti-O-Si. Hầu hết các đỉnh  
tích ICP-MS. Dung lượng hấp phụ urani và thori của hai vật liệu đều giống nhau nên việc biến tính  
được tính theo công thức:  
không làm thay đổi cấu trúc của SBA-15.  
trong đó: Co (mg/L) là nồng độ ban đầu; Ct (mg/L)  
là nồng độ tại thời điểm t; V (L) là thể tích dung  
dịch; m (g) là khối lượng của vật liệu. Ce (mg/L)  
là nồng độ tại thời điểm cân bằng, Qe (mg/g) là  
dung lượng hấp phụ cân bằng.  
Hình 1. Phổ XRD của mẫu SBA-15 và SBA-15/  
TNT vùng góc nhỏ (a); SBA-15 và SBA-15/TNT  
vùng góc rộng (b)  
Số 66 - áng 03/2021 25  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
Hình 2. Phổ FTIR của SBA-15 và SBA-15/TNT (a); Đường đẳng nhiệt hấp phụ - giải hấp phụ N2 của các  
mẫu (b) và đường phân bố kích thước mao quản của các vật liệu (c)  
Bảng 1. Đặc trưng cấu trúc của vật liệu  
phần nó bao phủ lên trên bề mặt vì vậy làm cho  
diện tích bề mặt riêng giảm và vật liệu bắt đầu  
xuất hiện các vùng mao quản lớn.  
Hình 2 (b) cho thấy đường đẳng nhiệt hấp phụ  
- giải hấp phụ N2 của các vật liệu SBA-15 và SBA-  
15/TNT có dạng đường đẳng nhiệt dạng IV với  
sự xuất hiện của vòng trễ ở áp suất tương đối cao  
(P/Po ~ 0,6 -0,8) theo IUPAC. Nó có nghĩa là cấu  
trúc lục giác của vật liệu mao quản trung bình  
vẫn còn tồn tại. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy  
rằng mẫu chứa các ống nano oxit titan vẫn có độ  
trễ tại P/Po ~ 1, đặc trưng của mao quản lớn. Do  
đó, vật liệu SBA-15/TNT là vật liệu đa cấp mao  
quản micro/meso/macro [11,12].  
Hình 3. Phổ EDS của SBA-15/TNT  
Bảng 2. Các thành phần trong SBA-15/TNT  
Đường cong phân bố kích thước mao quản của  
mỗi mẫu cũng được thể hiện trong Hình 2 (c), và  
kết quả phân tích các đẳng nhiệt này được tóm  
tắt trong Bảng 1. Các đường cong phân bố kích  
thước mao quản cho thấy kích thước mao quản  
trung bình khoảng ~ 14 nm đối với mẫu SBA-  
15/TNT lớn hơn của mẫu SBA-15 tinh khiết (3,1  
nm). Sự gia tăng rõ rệt về kích thước mao quản  
trung bình khi các mẫu thay thế Ti có thể là do  
sự sụt giảm độ dày thành mao quản của các mẫu  
chứa titan. Có thể thấy rõ rằng mẫu SBA-15/TNT  
có diện tích bề mặt giảm từ 939 xuống 414 m2/g  
tương ứng SBA-15 đến SBA-15/TNT. Lý do là oxit  
titan hình thành trong quá trình tổng hợp, một  
Từ kết quả EDX (hình 3 và bảng 2) cho thấy, vật  
liệu SBA-15/TNT đã được tổng hợp thành công  
chứa ba phần tử Ti, Si và O. Ảnh TEM (hình 4)  
cho thấy đối với SBA-15 cấu trúc meso được tạo  
ra một cách rõ rệt với các kênh mao quản trung  
bình rất đều đặn có độ trật tự cao. Mặt khác, các  
ống TiO2 với kích thước nano được hình thành  
sau quá trình tổng hợp bằng phương pháp đun  
hồi lưu. Bên cạnh đó, đối với mẫu vật liệu tổng  
hợp SBA-15/TNT ảnh TEM cho thấy sự có mặt  
của các ống TiO2 tồn tại đồng thời cùng với cấu  
trúc mao quản trung bình của vật liệu. Điều đó  
26 Số 66 - áng 03/2021  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
Hình 4. Ảnh TEM các mẫu vật liệu (a) SBA-15; (b) TiO2 nanotubes; (c, d) SBA-15/TNT  
chứng tỏ đã tổng hợp thành công vật liệu tổng mẫu. Lấy mẫu phân tích vào cuối mỗi khoảng  
thời gian tiếp xúc, phần huyền phù được tách ra,  
nồng độ ion trong dung dịch được phân tích bằng  
phương pháp so màu với arsenazo III và phân tích  
đối chiếu bằng ICP-MS. Kết quả nghiên cứu động  
học với sự hấp phụ urani và thori trên SBA-15 và  
SBA-15/TNT được thể hiện trong hình 5.  
hợp SBA-15/TNT.  
Từ kết quả EDX (hình 3 và bảng 2) cho thấy, vật  
liệu SBA-15/TNT đã được tổng hợp thành công  
chứa ba phần tử Ti, Si và O. Ảnh TEM (hình 4)  
cho thấy đối với SBA-15 cấu trúc meso được tạo  
ra một cách rõ rệt với các kênh mao quản trung  
bình rất đều đặn có độ trật tự cao. Mặt khác, các  
ống TiO2 với kích thước nano được hình thành  
sau quá trình tổng hợp bằng phương pháp đun  
hồi lưu. Bên cạnh đó, đối với mẫu vật liệu tổng  
hợp SBA-15/TNT ảnh TEM cho thấy sự có mặt  
của các ống TiO2 tồn tại đồng thời cùng với cấu  
trúc mao quản trung bình của vật liệu. Điều đó  
Như quan sát trong hình 5, dung lượng hấp phụ  
tăng nhanh trong 30 phút đầu tiên, sau đó dung  
lượng hấp phụ tăng chậm dần và đến 60 phút, quá  
trình hấp phụ đã đạt trạng thái bão hòa. Sơ đồ  
động học của quá trình hấp phụ bao gồm hai giai  
đoạn: giai đoạn đầu tiên là hấp phụ tức thời hay  
hấp phụ bề mặt ngoài, quá trình xảy ra rất nhanh,  
chứng tỏ đã tổng hợp thành công vật liệu tổng giai đoạn hai là giai đoạn hấp phụ từ từ trong đó  
khuếch tán nội bào kiểm soát tốc độ hấp phụ cho  
đến khi sự hấp phụ đạt đến trạng thái cân bằng.  
Đối với quá trình hấp phụ urani và thori, chúng  
ta thấy rằng thời gian để đạt cân bằng trong 60  
phút là đủ, vì sự hấp phụ tối đa đạt được trong  
giai đoạn này.  
hợp SBA-15/TNT.  
3.2. Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá  
trình hấp phụ urani (VI) và thori (IV) trong  
nước  
Khảo sát ảnh hưởng thời gian tiếp xúc  
Động học quá trình hấp phụ urani và thori trên  
các vật liệu SBA-15 và SBA-15/TNT  
Hình 5. Ảnh hưởng thời gian tiếp xúc đến sự hấp  
phụ urani và thori trên SBA-15 và SBA-15/TNT  
Để đánh giá sự hấp phụ như một hàm của thời  
gian tiếp xúc, khoảng thời gian tiếp xúc từ 15  
phút đến 360 phút được áp dụng cho tất cả các  
Hình 6. Mô hình động học biểu kiến bậc nhất của  
hấp phụ urani và thori trên SBA-15 và SBA-15/TNT  
Số 66 - áng 03/2021 27  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
thời gian cân bằng 60 phút, lượng chất hấp phụ  
5mg, nồng độ đầu dung dịch urani là 100mg/L,  
dung dịch thori là 10mg/L.  
Hình 7. Mô hình động học biểu kiến bậc hai của hấp  
phụ urani và thori trên SBA-15 và SBA-15/TNT  
Hình 8. Ảnh hưởng của pH đến sự hấp phụ urani  
và thori trên SBA-15 và SBA-15/TNT  
Từ các các kết quả thực nghiệm khảo sát ảnh  
hưởng thời gian tiếp xúc đến sự hấp phụ urani  
và thori (hình 5), mô hình động học bậc một và  
bậc hai biểu kiến được xây dựng như sau (hình 6  
và hình 7).  
Hình 8 cho thấy ảnh hưởng của pH đến dung  
lượng hấp phụ urani và thori trong dung dịch.  
Lý giải cho dung lượng hấp phụ thấp trong môi  
trường axit có thể là do sự dư thừa ion H+ trong  
dung dịch. Ngoài ra pH thấp ngăn chặn sự thủy  
phân của các ion kim loại và bề mặt chất hấp phụ  
liên kết chặt chẽ với các ion H3O+ cản trở sự tiếp  
cận của các ion kim loại với các nhóm chức bề  
mặt. Khi pH tăng sự hấp phụ tăng, sự hấp phụ tối  
đa urani ở pH =6, thori ở pH =5. Tiếp tục tăng  
pH, dung lượng hấp phụ urani giảm có thể là do  
sự thủy phân của các ion uranyl làm giảm hiệu  
quả hấp phụ, trong khi dung lượng hấp phụ thori  
gần như không thay đổi khi tăng pH>5. Kết quả  
cho phép chọn pH tối ưu cho quá trình hấp phụ  
urani và thori là 6 và 5, tương ứng.  
Từ hình 6 và hình 7, dựa vào hệ số hồi quy R2 có  
thể thấy rằng, quá trình hấp phụ urani và thori  
trên SBA-15 và SBA-15/TNT tuân theo mô hình  
động học biểu kiến bậc hai mà không tuân theo  
mô hình động học biểu kiến bậc nhất [13,14].  
Từ mô hình động học, các tham số động học bậc 2  
biểu kiến được xác định và trình bày trong bảng 3.  
Bảng 3. Các tham số động học bậc hai biểu  
kiến hấp phụ urani và thori trên SBA-15 và  
SBA-15/TNT  
Xây dựng đẳng nhiệt hấp phụ  
Khảo sát ảnh hưởng của pH  
pH của dung dịch là một thông số quan trọng  
trong khảo sát quá trình hấp phụ, nó ảnh hưởng  
đến điện tích bề mặt chất hấp phụ, trạng thái tồn  
tại các ion kim loại và vị trí gắn các ion lên trên  
bề mặt vật liệu hấp phụ. Để xác định pH tối ưu  
cho quá trình hấp phụ, các thí nghiệm được tiến  
hành trong phạm vi pH từ 3 đến 8 với urani và từ  
2 đến 7 với thori, nhiệt độ giữ ổn định 28 10C,  
Hình 9. Ảnh hưởng nồng độ đầu đến sự hấp phụ  
urani và thori trên SBA-15 và SBA-15/TNT  
Dung lượng hấp phụ như một hàm của nồng độ  
28 Số 66 - áng 03/2021  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
ban đầu của ion trong dung dịch được chỉ ra trong 4. KẾT LUẬN  
hình 9. Tổng lượng ion kim loại bị hấp phụ tăng  
khi tăng nồng độ đầu của các ion trong dung dịch  
và đạt đến dung lượng hấp phụ cực đại ở nồng độ  
100 và 70mg/L với urani và thori, tương ứng.  
1. Đã đưa ra phương pháp tổng hợp vật liệu SBA-  
15 và vật liệu biến tính SBA-15/TNT bằng cách  
biến tính với TiO2 nanotube bằng phương pháp  
tổng hợp trực tiếp từ thủy tinh lỏng và axit sunfu-  
Từ các số liệu thực nghiệm thu được, thế vào ric và bột TiO2 thương mại.  
phương trình đẳng nhiệt Langmuir dạng tuyến  
2. Đã xác định điều kiện tối ưu của quá trình hấp  
tính để xác định qmax và KL (hình 10).  
phụ urani (VI) và  (IV) trên các vật liệu SBA-  
15 và SBA-15/TNT (Si/Ti = 1) có dung lượng hấp  
phụ urani và thori là 666mg/g và 222 mg/g, cao  
hơn rõ rệt so với SBA-15 479 mg/g và 116 mg/g.  
3. Qui luật hấp phụ urani và thori trên SBA-15 và  
SBA-15/TNT tuân theo phương trình đẳng nhiệt  
Langmuir tại vùng nồng độ từ 20-300mg/L, pH =  
6 và 10-150 mg/L, pH= 5 với urani và thori tương  
ứng, nhiệt độ 28 10C.  
Hình 10. Đẳng nhiệt hấp phụ Langmuir cho sự hấp  
phụ urani và thori trên SBA-15 và SBA-15/TNT  
4. Vật liệu SBA-15 và vật liệu biến tính SBA-15/  
TNT với giá thành rẻ và đạt hiệu quả cao trong xử  
lý urani và thori trong môi trường nước là vật liệu  
có tiềm năng ứng dụng và thương mại hóa để xử  
lý nước thải ô nhiễm phóng xạ.  
Từ hình 10, xác định được các giá trị qmax và KL  
đối với quá trình hấp phụ urani và thori như sau:  
- Đối với quá trình hấp phụ urani:  
+ Trên vật liệu SBA-15:  
Nguyễn Văn Chính, Nguyễn Bá Tiến,  
Lưu Cao Nguyên, Nguyễn Đình Tuyến  
Viện Công nghệ xạ hiếm  
+ Trên vật liệu SBA-15/TiO2:  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
- Đối với quá trình hấp phụ thori  
+ Trên vật liệu SBA-15:  
[1] Hui Dan, Yi Ding, Xirui Lu, Fangting Chi,  
Shibin Yuan, Adsorption of uranium from  
aqueous solution by mesoporous SBA-15  
with various morphologies, J Radioanal Nucl  
Chem,2016,310(3), 1107–1114,3. Xinghui Wang,  
Guiru Zhu, Feng Guo, Removal of uranium (VI)  
ion from aqueous solution by SBA-15, Annals of  
Nuclear Energy, 2013, 56, 151–157.  
+ Trên vật liệu SBA-15/TiO2:  
[2] Zhao, D., et al. Non-ionic Triblock and Star  
Diblock Copolymer and Oligomeric Surfactant  
Số 66 - áng 03/2021 29  
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN  
Synthesis of Highly Ordered, Hydrothermical- stitute of Chemical Engineers; 2016, 174-184.  
ly Stable, Mesoporous Silica Structures, J.Am.  
Chem.Soc., 1999, 12, 6024 – 6036.  
[10] Milan Z. Momcˇilovic´, Marjan S. Ran-  
delovic, Aleksandra R. Zarubica, Antonije E.  
[3] A.Y. Khodakov, V.L. Zholobenko, R. Bechara, Onjia, Maja Kokunešoski, Branko Z. Matovic´.  
D. Durand, Microporous and Mesoporous Mater. SBA-15 templated mesoporous carbons for  
79 (2005) 29-39  
2,4-dichlorophenoxyacetic acid removal. Chemi-  
cal Engineering Journal, 2013,220, 276–283.  
[4] Milan Z, Momcˇilovic´, Marjan S, Randelovic,  
Aleksandra R, Zarubica, Antonije E, Onjia, Maja [11] Xinghui Wang, Guiru Zhu, Feng Guo. Re-  
Kokunešoski, Branko Z, Matovic´, SBA-15 tem- moval of uranium (VI) ion from aqueous solution  
plated mesoporous carbons for 2,4-dichlorophe- by SBA-15. Annals of Nuclear Energy. 2013,56  
noxyacetic acid removal, Chemical Engineering ,151–157.  
Journal, 2013,220, 276–283.  
[12] S. Sreekantan, L. C. Wei. Study on the for-  
[5] Lili Yang, Zeyu Jiang, Sufeng Lai, Chongwen mation and photocatalytic activity of titanate na-  
Jiang and Hong Zhong, Synthesis of Titanium notubes synthesized via hydrothermal method, J.  
Containing SBA-15 and Its Application for Pho- Alloys Compd., 2010, 490(1–2), 436-442  
tocatalytic Degradation of Phenol, International  
[13] Pankaj Sharma, Radha Tomar; Synthesis and  
Journal of Chemical Engineering, 2014, Article  
application of an analogue of mesolite for the re-  
ID 691562, 7 pages.  
moval of uranium (VI), thorium (IV), and euro-  
[6] Guanghui Wang, Jie Zhen, Limin Zhou, Feng pium (III) from aqueous waste; Microporous and  
Wu, Nansheng Deng, Adsorption and photocata- Mesoporous Materials; 2008, 641-652.  
lytic reduction of U(VI) in aqueous TiO2 suspen-  
[14] Saeed Abbasizadeh, Ali Reza Keshtkar, Mo-  
sions enhanced with sodium formate, J Radioanal  
hammad Ali Mousavian, Preparation of a novel  
Nucl Chem,2015,304, Issue 2, pp 579–585,  
electrospun polyvinyl alcohol/titanium oxide  
[7] Zijie Li, Zhiwei Huang, Wenlu Guo, Lin Wang, nano fiber adsorbent modified with mercapto  
Lirong Zheng, Zhifang Chai, and Weiqun Shi, En- groups for uranium (VI) and thorium (IV) re-  
hanced Photocatalytic Removal of Uranium (VI) moval from aqueous solution; Chemical Engi-  
from Aqueous Solution by Magnetic TiO2/Fe3O4 neering Journal; 2013, 161-171.  
and Its Graphene Composite, Environ, Sci, Tech-  
nol, 2017,51 (10), pp 5666–5674,  
[8] Yadan Guo, Yiqin Guo, Xuegang Wang, Peng  
Li, Liuwei Kong, Guanghui Wang, Xiaomeng Li  
and Yunhai Liu, Enhanced photocatalytic reduc-  
tion activity of Uranium (VI) from aqueous solu-  
tion using Fe2O3-Graphene oxide nanocompos-  
ite, Dalton Trans, 2017, 46, 14762-14770.  
[9] Leila Dolatyari, Mohammad Reza Yafian, Sad-  
egh Rostamnia; Adsorption characteristics of Eu  
(III) and  (IV) ions onto modified mesoporous  
silica SBA-15 materials; Journal of the Taiwan In-  
30 Số 66 - áng 03/2021  
pdf 8 trang yennguyen 18/04/2022 940
Bạn đang xem tài liệu "Tổng hợp và ứng dụng vật liệu SBA-15 và composite SBA-15/TiO₂ nanotube từ thủy tinh lỏng Việt Nam để loại bỏ Urani(VI) và Thori(IV) khỏi dung dịch", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftong_hop_va_ung_dung_vat_lieu_sba_15_va_composite_sba_15tio.pdf