Tình trạng dinh dưỡng và chức năng khoang miệng người bệnh cao tuổi tại một số bệnh viện Hà Nội
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ CHỨC NĂNG KHOANG MIỆNG
NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN HÀ NỘI
Nguyễn Thuỳ Linh1,, Trần Phương Thảo²
1Trường Đại học Y Hà Nội
2Trường Đại học Jumonji, Nhật Bản
Nghiên cứu cắt ngang trên 1007 người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại một số bệnh viện từ tháng
8/2018 đến tháng 01/2019 nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng (tình trạng dinh dưỡng) và mối liên
quan với chức năng khoang miệng. Kết quả: tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) theo phân loại BMI ở người cao
tuổi là 18,9%; theo chu vi vòng cánh tay là 34,8%, chu vi bụng chân là 60,7%. Đánh giá tình trạng dinh
dưỡng theo MNA có tới 71,6% người bệnh có SDD và nguy cơ SDD. Chức năng khoang miệng bị ảnh
hưởng có tác động tiêu cực đến lượng thực phẩm ăn vào dẫn đến SDD. Do đó, người bệnh gặp vấn đề
về chức năng khoang miệng như độ mở miệng dưới 3 ngón tay, không thể đẩy lưỡi về phía trước, không
thể di chuyển lưỡi hay người bệnh không thể phồng má, người bệnh có chứng teo gai lưỡi và ít nước bọt
có nguy cơ SDD và SDD cao hơn người không mắc các chứng trên có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Từ khoá: Tình trạng dinh dưỡng, chức năng khoang miệng, người bệnh cao tuổi, Hà Nội
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sự già hoá về dân số trên thế giới cũng như
tại Việt Nam đang ngày càng gia tăng. Vào đầu
thế kỷ 21, những người từ 60 tuổi trở lên chiếm
khoảng 600 triệu người trên toàn cầu. Con số
này gấp ba lần so với 50 năm trước. Đến năm
2050, người cao tuổi dự kiến sẽ chiếm 20%
dân số thế giới và sẽ nhiều hơn dân số dưới
14 tuổi.¹ Xu hướng toàn cầu về già hóa dân số
đang nổi lên như một vấn đề kinh tế, chính trị
và xã hội lớn của những thập kỷ sắp tới. Đồng
thời, dinh dưỡng, và cụ thể hơn là SDD, đã
trở thành mối quan tâm thực sự trong dân số
già. Trên thực tế, tỷ lệ SDD đang trở nên cao
đáng báo động tại các bệnh viện và các cơ sở
dưỡng lão. Các kết quả bất lợi của SDD đối với
sức khỏe nói chung, chất lượng cuộc sống, tỷ
lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong hiện đã được xác
định rõ ràng.² Một số yếu tố nguy cơ SDD ở
người cao tuổi đã được xác định như thay đổi
liên quan đến tuổi, tỷ lệ mắc bệnh mãn tính cao,
tâm lý và điều kiện xã hội, thể chế hóa, và sức
khỏe răng miệng kém.³
Có nhiều nghiên cứu quan tâm đến các
vấn đề sức khỏe răng miệng của người già và
ảnh hưởng của nó đến dinh dưỡng. Sức khỏe
răng miệng kém có tác động tiêu cực đến chế
độ ăn uống và tình trạng dinh dưỡng khi khả
năng nhai, nuốt và ăn uống giảm.⁴ Trong dân
số cao tuổi, việc lựa chọn thực phẩm bị hạn
chế ở những người gặp các vấn đề về chức
năng miệng như mất răng, sâu răng, giảm lực
cơ của lưỡi, teo gai lưỡi hoặc giảm tiết nước
bọt.⁵ Các nghiên cứu báo cáo sự hiện diện của
rối loạn chức năng miệng có nguy cơ SDD cao.
Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc
đo lường sự tự nhận thức của người bệnh về
các vấn đề liên quan đến khoang miệng và tình
trạng dinh dưỡng.⁶
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thùy Lnh,
Trường Đại học Y Hà Nội
Email: linhngthuy@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 14/04/2020
Ở Việt Nam, nghiên cứu về chức năng miệng
liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người
Ngày được chấp nhận: 25/05/2020
318
TCNCYH 129 (5) - 2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
bệnh cao tuổi còn hạn chế. Do đó, chúng tôi
tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu xác định
tình trạng dinh dưỡng và mối liên quan giữa
chức năng khoang miệng với tình trạng dinh
dưỡng của người bệnh cao tuổi tại bệnh viện
Đại học Y Hà Nội, bệnh viện Lão khoa Trung
ương và bệnh viện Đa khoa Đống Đa.
tôi thu thập được 1007 người bệnh gồm 354
người bệnh tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, 366
người bệnh tại bệnh viện Lão khoa Trung ương
và 287 người bệnh tại bệnh viện Đa khoa Đống
Đa.
Thông tin thu thập
Các thông tin chung của đối tượng bao gồm
tuổi, giới. Các chỉ số nhân trắc bao gồm cân
nặng được đo bằng cân Tanita có độ chính xác
là 0,1kg. Đo chiều cao đứng bằng thước Seca
của Đức (độ chính xác 0,1 cm). BMI được tính
theo công thức BMI = cân nặng (kg)/ chiều cao
(m)² và được phân loại BMI < 18,5 được xác
định là có SDD. Chu vi vòng cánh tay (MUAC-
Mid-Upper Arm Circumference, tính bằng cm)
được đo ở điểm giữa đoạn từ mỏm cùng vai
đến mỏm khuỷu với số đo thu được đến giá trị
mm. MUAC < 23,5 được đánh giá là SDD. Chu
vi bụng chân (CC-Calf circumference) được
đo ở tư thế ngồi trên xe đẩy hoặc trên giường,
chân để tư thế sao cho đầu gối và mắt cá chân
tạo thành 1 góc 90 độ. Người đo sử dụng thước
dây vòng qua bắp chân, di chuyển lên xuống
để xác định được chu vi lớn nhất của bắp chân.
Chu vi bụng chân < 31 cm được đánh giá là
SDD.⁸
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Nghiên cứu tiến hành trên người bệnh ≥ 65
tuổi đang điều trị nội trú tại bệnh viện. Người
bệnh không bị điếc, câm, rối loạn tâm thần, lú
lẫn, hôn mê, thở máy, chấn thương hoặc đang
điều trị tại khoa ICU; người bệnh không gù,
vẹo để đảm bảo được kỹ thuật đo chiều cao và
đồng ý tham gia nghiên cứu.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
Nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu tại
bệnh viện Đại học Y Hà Nội, bệnh viện Lão khoa
Trung ương và bệnh viện Đa khoa Đống Đa từ
tháng 8 năm 2018 đến tháng 01 năm 2019.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang
Cỡ mẫu, chọn mẫu:
Áp dụng công thức uớc tính cỡ mẫu cho một
tỷ lệ. Tiêu chí để đánh giá là tỷ lệ phần trăm
SDD của người già tại bệnh viện. Số liệu từ
một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SDD theo MNA
là 23,5%.7 Khoảng sai lệch mong muốn giữa
tỷ lệ thu được từ mẫu (p) và tỷ lệ của quần thể
(P) lấy ∆=0,03
Bộ công cụ đánh giá dinh dưỡng tối thiểu
(MNA - Mini-Nutritional Assessmnet) được chia
làm 2 phần sàng lọc và đánh giá tình trạng
dinh dưỡng gồm các biến số: giảm ăn, giảm
cân trong 3 tháng gần đây, vận động, stress,
các vấn đề về thần kinh tâm thần, chỉ số khối
cơ thể, người bệnh có loét tì đè hay không,
lượng bữa ăn, lượng thực phẩm liên quan đến
protein, tiêu thụ rau và hoa quả, lượng nước
trong ngàyvà khả năng tự ăn. Tổng điểm cuối
cùng cho 2 phần tối đa là 30 điểm, 24 - 30 điểm
là tình trạng dinh dưỡng bình thường, 17 - 23,5
điểm là có nguy cơ SDD, < 17 điểm được đánh
giá là SDD.8
Z21 -
α
Lấy α=0,05 thì
2 =1,962, p=0,235
⁄
p(1- p)
n = Z2(1-α/2)
=767
2
∆
Dự kiến 20% bỏ cuộc, cỡ mẫu là 920 đối
tượng, lấy tròn là 1000 đối tượng.
Chọn mẫu: chọn toàn bộ người bệnh đủ tiêu
chuẩn trong thời gian tiến hành nghiên cứu cho
đến khi đủ cỡ mẫu. Kết thúc nghiên cứu chúng
Nghiên cứu đánh giá chức năng khoang
TCNCYH 129 (5) - 2020
319
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
miệng bằng khám lâm sàng thông qua các chỉ
số: độ mở miệng, chức năng lưỡi bao gồm khả
năng đẩy lưỡi về phía trước, di chuyển lưỡi
sang hai bên, đẩy niêm mạc miệng bằng lưỡi,
chứng teo gai lưỡi, lưỡi khô; đánh giá trương
lực cơ bằng khả năng phồng má hai bên hay
không và đánh giá người bệnh có răng giả hay
không.
mềm Epidata và phân tích bằng phần mềm
Stata 14. Thống kê mô tả và thống kê suy luận
được sử dụng để mô tả thông tin chung, tình
trạng dinh dưỡng và mối liên quan với chức
năng khoang miệng với p <0,05 được xem là
có ý nghĩa thống kê.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được chấp thuận bởi
hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh
3. Thu thập và phân tích số liệu
học của Trường Đại học Y Hà Nội số 1318/
HĐĐĐĐHYHN, tháng 8 năm 2018.
Số liệu được thu thập và nhập bằng phần
II. KẾT QUẢ
Đối tượng nghiên cứu có nhóm tuổi từ 70 -79 chiếm tỷ lệ cao nhất, 45%, tiếp đến là nhóm tuổi
80-89 và 65-69, lần lượt là 27% và 24,9%, thấp nhất là nhóm tuổi ≥ 90 chỉ chiếm 3,1%. Đối tượng
nghiên cứu là nữ chiếm 58,3%, nam giới chỉ chiếm 41,7%. Theo ngưỡng phân loại BMI, 18,9%
người bệnh cao tuổi có SDD với BMI < 18,5. Có tới 65,6% người bệnh cao tuổi có SDD với BMI <
23. Theo chu vi vòng cánh tay, 34,8% người bệnh có SDD. 60,7% người bệnh có SDD theo chu vi
bụng chân (Bảng 1).
Bảng 1. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu theo chỉ tiêu nhân trắc
Nam (n = 420)
Nữ (n = 587)
Chung (n = 1007)
Biến số
n
%
n
%
n
%
Phân loại BMI
< 18,5
36
8,6
154
433
26,2
73,8
190
817
18,9
81,1
≥ 18,5
384
91,4
Chu vi vòng cánh tay
< 23,5
144
276
34,3
65,7
206
381
35,1
64,9
350
657
34,8
65,2
≥ 23,5
Chu vi bụng chân
< 31
243
177
57,9
42,1
368
219
62,7
37,3
611
396
60,7
39,3
≥ 31
Biểu đồ 1 mô tả tình trạng dinh dưỡng của người bệnh cao tuổi theo MNA. Người bệnh có nguy
cơ SDD chiếm 54,3%, cao nhất gặp ở nhóm 80 - 89 tuổi chiếm 60,3%, thấp nhất ở nhóm 65 - 69
tuổi chiếm 51,4%. Tỷ lệ SDD chung là 17,3%, tỷ lệ SDD tăng dần theo nhóm tuổi, thấp nhất ở nhóm
65 - 79 tuổi và cao nhất ở nhóm tuổi trên 90 với 38,7%.
320
TCNCYH 129 (5) - 2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Tuổi
17,3
Chung
54,3
28,4
38,7
≥ 90
80-89
70-79
65-69
51,6
9,7
23,5
60,3
16,2
13,2
52,5
34,2
33,5
15,1
51,4
0,0
10,0
20,0
30,0
Nguy cơ SDD
40,0
50,0
60,0
70,0
SDD
Bình thường
Biểu đồ 1. Tình trạng dinh dưỡng người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại
các bệnh viện theo MNA
Mối liên quan giữa chức năng khoang miệng và tình trạng dinh dưỡng theo MNA được mô tả ở
bảng 2. Tỷ lệ người bệnh có độ mở miệng < 3 ngón tay ở nhóm SDD và nguy cơ SDD cao hơn so
với nhóm không bị SDD 8,3% so với 1,4% có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Ở người bệnh chức
năng lưỡi giảm như không thể đẩy lưỡi ra phía trước, không thể di chuyển lưỡi sang 2 bên hoặc
không thể đẩy niêm mạc bằng lưỡi ở nhóm SDD và nguy cơ SDD cao hơn so với nhóm không bị
SDD lần lượt là 3,3%, 7,9% và 8,6% so với 0,7%, 1,4% và 1,4% có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.
Tương tự, người bệnh có chứng teo gai lưỡi hoặc lưỡi khô ở nhóm SDD hoặc có nguy cơ SDD cao
hơn so với nhóm không SDD lần lượt là 10,4% và 13,2% so với 2,8% và 5,9% có ý nghĩa thống kê
với p < 0,05 (Bảng 2).
TCNCYH 129 (5) - 2020
321
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Bảng 2. Mối liên quan giữa chức năng khoang miệng và tình trạng dinh dưỡng theo MNA
Nguy cơ SDD và
Chức năng miệng
Độ mở miệng
Không SDD
p
SDD
> 3 ngón tay
< 3 ngón tay
Đẩy lưỡi về trước
Có thể
282 (98,6)
4 (1,4)
661 (91,7)
60 (8,3)
0,000
284 (99,3)
2 (0,7)
697 (96,7)
24 (3,3)
0,015
0,000
0,000
0,000
0,001
0,000
0,415
Không thể
Di chuyển lưỡi sang hai bên
Có thể
282 (98,6)
4 (1,4)
664 (92,1)
57 (7,9)
Không thể
Đẩy niêm mạc miệng bằng lưỡi
Có thể
282 (98,6)
4 (1,4)
659 (91,4)
62 (8,6)
Không thể
Chứng teo gai lưỡi
Không
278 (97,2)
8 (2,8)
646 (89,6)
75 (10,4)
Có
Lưỡi khô
Nhiều nước bọt
Ít nước bọt
Phồng hai bên má
Có thể
269 (94,1)
17 (5,9)
626 (86,8)
95 (13,2)
282 (98,6)
4 (1,4)
659 (91,4)
62 (8,6)
Không thể
Răng giả
Không
195 (68,2)
91 (31,8)
509 (70,8)
210 (29,2)
Có
IV. BÀN LUẬN
Nghiên cứu được tiến hành trên 1007 người
bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Đại
học Y Hà Nội, bệnh viện Lão khoa Trung ương
và bệnh viện Đa khoa Đống Đa. Các chỉ số
dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng
chỉ tiêu nhân trắc bao gồm BMI, chu vi vòng
cánh tay, chu vi bụng chân. Đối với BMI, theo
tính như tiểu đường, tim mạch, ung thư và tỷ lệ
tử vong tăng lên liên quan đến tăng trọng lượng
cơ thể được ghi nhận. 9 Tuy nhiên, các nghiên
cứu gần đây đã chỉ ra rằng, người cao tuổi ≥
65 có thể có ngưỡng BMI khác phản ánh nguy
cơ tử vong và tàn tật. Phân tích tổng hợp gần
đây của 32 nghiên cứu đoàn hệ với cỡ mẫu n
= 197940 người cao tuổi sống trong cộng đồng
ở độ tuổi ≥ 65 đã tìm thấy mối liên quan giữa
tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân, với nguy cơ
²
tổ chức y tế thế giới, BMI từ 18,5 - 24,9 kg/m
ở người trưởng thành được xem là ít có nguy
cơ về sức khoẻ. Ngưỡng này đã được nghiên
cứu xác định trên người trưởng thành trẻ tuổi,
những người mà nguy cơ mắc các bệnh mạn
²
tử vong thấp nhất ở BMI 24 - 31 kg/m .⁹ Trong
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng ngưỡng BMI
322
TCNCYH 129 (5) - 2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
< 18,5 kg/m² được coi là SDD. BMI thấp được
xem là yếu tố nguy cơ tử vong ở người cao tuổi.
Nghiên cứu của Berraho M và cộng sự tại Pháp
cho thấy, BMI < 22 kg/m² là nguy cơ giảm 13
năm tuổi thọ ở người bệnh cao tuổi.10 Nghiên
cứu của Tamakoshi A và cộng sự tại Nhật bản
cũng đưa ra kết luận người cao tuổi có BMI
20,0 - 29,9 ít có nguy cơ tử vong hơn nhóm có
BMI < 20 kg/m². Nghiên cứu của chúng tôi cho
thấy tỷ lệ SDD theo BMI là cao, 18,9%. Điều
này đưa ra cảnh báo quan trọng về tình trạng
dinh dưỡng của người cao tuổi trong bệnh viện
tại Việt Nam. Chu vi vòng cánh tay < 23,5 cm
chiếm tỷ lệ 34,8 %. Kết quả này cho thấy khối
cơ của người bệnh giảm đáng kể. Chu vi bụng
chân (CC-Calf circumference) được xem là chỉ
số có độ nhạy cao nhất để đo lường khối cơ ở
người cao tuổi, tốt hơn so với chu vi vòng cánh
tay. Đồng thời nó cũng chỉ ra sự thay đổi khối
mỡ thường xảy ra ở người cao tuổi và người
giảm hoạt động thể lực.⁸ Nghiên cứu của chúng
tôi cho thấy, 60,7% người bệnh có chu vi bụng
chân < 31 cm. Kết quả này cho thấy tỷ lệ mất
khối cơ xảy ra khá phổ biến ở nhóm người bệnh
này và tỷ lệ mất khối cơ ở nữ là 62,7% cao
hơn ở nam là 57,9%. MNA là bộ công cụ được
khuyến cáo sử dụng để đánh giá tình trạng dinh
dưỡng cho người cao tuổi vì có độ nhạy và độ
đặc hiệu cao. Tỷ lệ SDD theo MNA trong nghiên
cứu này là 17,3%, thấp hơn so với nghiên cứu
của D.J. Patil và cộng sự với tỷ lệ 23,5%; tuy
nhiên đối tượng có nguy cơ SDD trong nghiên
cứu của chúng tôi lại cao hơn của D.J.Patil với
54,3% so với 49%.⁷ Kết quả nghiên cứu của
chúng tôi khá tương đồng với kết quả nghiên
cứu của Rashimi Agarwalli trên 360 người bệnh
cao tuổi tại Ấn Độ với tỷ lệ SDD và nguy cơ
SDD lần lượt là 15% và 55%.11 Người bệnh
càng cao tuổi thì tỷ lệ SDD và nguy cơ SDD
càng cao. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy
tỷ lệ SDD của người bệnh trên 90 tuổi chiếm
38,7% và tỷ lệ có nguy cơ SDD là 51,6%, chỉ
có 9,7% có tình trạng dinh dưỡng bình thường.
Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu
của Rashimi Agarwalli khi có tới 78,1% người
trên 85 tuổi có tình trạng dinh dưỡng kém, trong
khi tỷ lệ này ở nhóm tuổi < 75 chỉ là 14,4%.11
Chức năng khoang miệng bị ảnh hưởng
có tác động tiêu cực đến lượng thực phẩm ăn
vào, lâu dài dẫn đến SDD. Việc tự đánh giá sức
khỏe răng miệng và tác động của sức khỏe răng
miệng đến tình trạng dinh dưỡng và chất lượng
cuộc sống không phải lúc nào cũng được quan
tâm ở người cao tuổi. Nghiên cứu của Paula J
và cộng sự đánh giá nguyên nhân và hậu quả
của chế độ ăn thiếu dinh dưỡng ở người cao
tuổi và mối liên quan đến sức khoẻ khoang
miệng đã chỉ ra rằng, nhu cầu năng lượng giảm
theo tuổi; tuy nhiên, nhiều yếu tố, bao gồm sức
khỏe khoang miệng kém, chán ăn và bệnh tật,
có thể ảnh hưởng đến năng lượng ăn vào.5
Nghiên cứu của J. A. Gil-Montoya và chức
năng khoang miệng và tình trạng dinh dưỡng
của người cao tuổi cũng cho thấy, những người
có điểm MNA thấp bị ảnh hưởng bởi chức năng
khoang miệng như gặp các vấn đề về sâu răng,
gặp vấn đề về nuốt nước bọt như khô miệng khi
ăn, khó nuốt hay cần uống nước khi ăn. Nghiên
cứu cũng cho thấy tỷ lệ người bệnh có SDD và
nguy cơ SDD cần chăm sóc khoang miệng lần
lượt là 84,8% và 75,9% so với 67,4% ở nhóm
tình trạng dinh dưỡng bình thường.6 Kết quả
nghiên cứu của chúng tôi cũng đưa ra được
mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình
trạng sức khoẻ khoang miệng với tỷ lệ SDD và
nguy cơ SDD theo MNA. Đây là số liệu dựa vào
bằng chứng để đưa ra những khuyến cáo về
can thiệp dinh dưỡng cho người bệnh cần liên
kết chặt chẽ với việc chăm sóc khoang miệng
cho người bệnh. Nghiên cứu của Shirobe M và
cộng sự về chức năng khoang miệng và tình
trạng dinh dưỡng cũng đưa ra kết luận rằng
TCNCYH 129 (5) - 2020
323
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
việc chăm sóc khoang miệng sẽ góp phần cải
thiện tình trạng dinh dưỡng thông qua việc hỗ
trợ bữa ăn là điều hết sức quan trọng trong việc
chăm sóc dinh dưỡng cho người cao tuổi. 12
CC, Saunders MJ, Rugh JD. Oral function and
diet quality in a community-based sample. J
Dent Res. 2001;80(7):1625-1630. doi:10.1177
/00220345010800070601
5. Moynihan PJ. The relationship between
nutritionandsystemicandoralwell-beinginolder
people. J Am Dent Assoc. 2007;138(4):493-
497. doi:10.14219/jada.archive.2007.0201
6. Oral Health-Related Quality of Life
and Nutritional Status - Gil-Montoya - 2008
- Journal of Public Health Dentistry - Wiley
Online Library. Accessed April 1, 2020. https://
onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/j.1752-
7325.2007.00082.x
V. KẾT LUẬN
Suy dinh dưỡng ở người cao tuổi ở các
bệnh viện tại Việt Nam chiếm tỷ lệ cao theo
các phương pháp đánh giá khác nhau. Trong
đó, công cụ MNA phát hiện tỷ lệ SDD cao nhất
với 71,6%, tỷ lệ SDD theo BMI là thấp nhất với
18,9%. Việc phối hợp nhiều phương pháp đánh
giá tình trạng dinh dưỡng cho người bệnh cao
tuổi là cần thiết để tránh bỏ sót người bệnh
có nguy cơ. Chức năng khoang miệng có ảnh
hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của người
bệnh. Người bệnh có độ mở miệng < 3 ngón
tay, chức năng lưỡi kém như không thể đẩy
lưỡi về phía trước, không di chuyển được lưỡi
sang hai bên, lưỡi khô có tỷ lệ SDD cao hơn
người bệnh không mắc các chứng này có ý
nghĩa thống kê với p < 0,05. Do đó, việc chăm
sóc khoang miệng cần được quan tâm phối hợp
với việc chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh.
7. Nutritional status assessment of elderly
using MNA tool in rural Belagavi: a cross
sectional study | Patil | International Journal
Of Community Medicine And Public Health.
com/index.php/ijcmph/article/view/3582
8. Physical status; the use and interpretation
of
anthropometry.
Accessed
April
1,
2020.
handle/10665/37003/WHO_TRS_854.
pdf?sequence=1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
9. Changes to BMI in Elderly - Leading
Nutrition |Aged Care Dietitian. Leading Nutrition
- The Dietitian Centre. Published February 20,
leadingnutrition.com.au/elderlybmichanges/
10. Berraho M, Nejjari C, Raherison
C, et al. Body mass index, disability,
and 13-year mortality in older French
adults. J Aging Health. 2010;22(1):68-83.
doi:10.1177/0898264309349422
1. United Nations, “World Population
Ageing: 1950–2050, Population Division”,
United Nations. Dep Econ Soc Aff N Y NY.
worldageing1950/2050.
2. Govindaraju T, Sahle BW, McCaffrey
TA, McNeil JJ, Owen AJ. Dietary Patterns and
Quality of Life in Older Adults: A Systematic
Review. Nutrients. 2018;10(8). doi:10.3390/
nu10080971
11. Agarwalla R, Saikia AM, Baruah R.
Assessment of the nutritional status of the
elderly and its correlates. J Fam Community
Med. 2015;22(1):39-43. doi:10.4103/2230-
8229.149588
3. El Hélou M, Boulos C, Adib SM, Tabbal N.
Relationship between oral health and nutritional
status in the elderly: A pilot study in Lebanon.
J
Clin Gerontol Geriatr. 2014;5(3):91-95.
doi:10.1016/j.jcgg.2014.04.002
12. Shirobe M, Nakayama R, Hirano H,
4. Shinkai RS, Hatch JP, Sakai S, Mobley
324
TCNCYH 129 (5) - 2020
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
et al. Oral function and nutritional status
among the elderly with facial and oral tactile
hypersensitivity who are under long-term
care. Nihon Koshu Eisei Zasshi Jpn J Public
Health. 2017;64(7):351-358. doi:10.11236/
jph.64.7_351
Summary
ASSESSMENT OF NUTRITIONAL STATUS AND ORAL
FUNCTION OF GERIATRIC PATIENTS IN HANOI, VIETNAM
This study is to assess the nutritional status and the nutritional status associated with the oral
function of geriatric patients. A cross-sectional study was conducted among 1007 elderly inpatients
in several hospitals in Hanoi, Vietnam, from August 2018 to January 2019. Results showed that
the percentage of malnutrition according to (1) BMI classification for the elderly was 18.9%; (2)
Mid-Upper Arm Circumference was 34.8%; and (3) Calf Circumference was 60.7%. Nutrition status
assessed by the Mini-Nutritional Assessment (MNA) revealed that 71.6% of patients suffered from
malnutrition and at risk of malnutrition. The oral function negatively impacts the amount of food
intake, which may lead to a deterioration in nutritional status. Therefore, patients who experienced
several oral-function problems such as narrow mouth opening ( less than three fingers), unable
to push the tongue forward, unable to move the tongue or inflate the cheeks, atrophic glossitis
and reduced salivary flow, had a higher risk of malnutrition with statistical significance (p < 0.05).
Keywords: Nutritional status, oral function, elderly patients, Hanoi
TCNCYH 129 (5) - 2020
325
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng dinh dưỡng và chức năng khoang miệng người bệnh cao tuổi tại một số bệnh viện Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tinh_trang_dinh_duong_va_chuc_nang_khoang_mieng_nguoi_benh_c.pdf