Tình trạng dinh dưỡng và chức năng khoang miệng người bệnh cao tuổi tại một số bệnh viện Hà Nội

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
TÌNH TRẠNG DINH DƯỠNG VÀ CHỨC NĂNG KHOANG MIỆNG  
NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI TẠI MỘT SỐ BỆNH VIỆN HÀ NỘI  
Nguyễn Thuỳ Linh1,, Trần Phương Thảo²  
1Trường Đại học Y Hà Nội  
2Trường Đại học Jumonji, Nhật Bản  
Nghiên cứu cắt ngang trên 1007 người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại một số bệnh viện từ tháng  
8/2018 đến tháng 01/2019 nhằm đánh giá tình trạng dinh dưỡng (tình trạng dinh dưỡng) và mối liên  
quan với chức năng khoang miệng. Kết quả: tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) theo phân loại BMI ở người cao  
tuổi là 18,9%; theo chu vi vòng cánh tay là 34,8%, chu vi bụng chân là 60,7%. Đánh giá tình trạng dinh  
dưỡng theo MNA có tới 71,6% người bệnh có SDD và nguy cơ SDD. Chức năng khoang miệng bị ảnh  
hưởng có tác động tiêu cực đến lượng thực phẩm ăn vào dẫn đến SDD. Do đó, người bệnh gặp vấn đề  
về chức năng khoang miệng như độ mở miệng dưới 3 ngón tay, không thể đẩy lưỡi về phía trước, không  
thể di chuyển lưỡi hay người bệnh không thể phồng má, người bệnh có chứng teo gai lưỡi và ít nước bọt  
có nguy cơ SDD và SDD cao hơn người không mắc các chứng trên có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.  
Từ khoá: Tình trạng dinh dưỡng, chức năng khoang miệng, người bệnh cao tuổi, Hà Nội  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Sự già hoá về dân số trên thế giới cũng như  
tại Việt Nam đang ngày càng gia tăng. Vào đầu  
thế kỷ 21, những người từ 60 tuổi trở lên chiếm  
khoảng 600 triệu người trên toàn cầu. Con số  
này gấp ba lần so với 50 năm trước. Đến năm  
2050, người cao tuổi dự kiến sẽ chiếm 20%  
dân số thế giới và sẽ nhiều hơn dân số dưới  
14 tuổi.¹ Xu hướng toàn cầu về già hóa dân số  
đang nổi lên như một vấn đề kinh tế, chính trị  
và xã hội lớn của những thập kỷ sắp tới. Đồng  
thời, dinh dưỡng, và cụ thể hơn là SDD, đã  
trở thành mối quan tâm thực sự trong dân số  
già. Trên thực tế, tỷ lệ SDD đang trở nên cao  
đáng báo động tại các bệnh viện và các cơ sở  
dưỡng lão. Các kết quả bất lợi của SDD đối với  
sức khỏe nói chung, chất lượng cuộc sống, tỷ  
lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử vong hiện đã được xác  
định rõ ràng.² Một số yếu tố nguy cơ SDD ở  
người cao tuổi đã được xác định như thay đổi  
liên quan đến tuổi, tỷ lệ mắc bệnh mãn tính cao,  
tâm lý và điều kiện xã hội, thể chế hóa, và sức  
khỏe răng miệng kém.³  
Có nhiều nghiên cứu quan tâm đến các  
vấn đề sức khỏe răng miệng của người già và  
ảnh hưởng của nó đến dinh dưỡng. Sức khỏe  
răng miệng kém có tác động tiêu cực đến chế  
độ ăn uống và tình trạng dinh dưỡng khi khả  
năng nhai, nuốt và ăn uống giảm.⁴ Trong dân  
số cao tuổi, việc lựa chọn thực phẩm bị hạn  
chế ở những người gặp các vấn đề về chức  
năng miệng như mất răng, sâu răng, giảm lực  
cơ của lưỡi, teo gai lưỡi hoặc giảm tiết nước  
bọt.⁵ Các nghiên cứu báo cáo sự hiện diện của  
rối loạn chức năng miệng có nguy cơ SDD cao.  
Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc  
đo lường sự tự nhận thức của người bệnh về  
các vấn đề liên quan đến khoang miệng và tình  
trạng dinh dưỡng.⁶  
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thùy Lnh,  
Trường Đại học Y Hà Nội  
Email: linhngthuy@hmu.edu.vn  
Ngày nhận: 14/04/2020  
Ở Việt Nam, nghiên cứu về chức năng miệng  
liên quan đến tình trạng dinh dưỡng của người  
Ngày được chấp nhận: 25/05/2020  
318  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
bệnh cao tuổi còn hạn chế. Do đó, chúng tôi  
tiến hành nghiên cứu nhằm mục tiêu xác định  
tình trạng dinh dưỡng và mối liên quan giữa  
chức năng khoang miệng với tình trạng dinh  
dưỡng của người bệnh cao tuổi tại bệnh viện  
Đại học Y Hà Nội, bệnh viện Lão khoa Trung  
ương và bệnh viện Đa khoa Đống Đa.  
tôi thu thập được 1007 người bệnh gồm 354  
người bệnh tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội, 366  
người bệnh tại bệnh viện Lão khoa Trung ương  
và 287 người bệnh tại bệnh viện Đa khoa Đống  
Đa.  
Thông tin thu thập  
Các thông tin chung của đối tượng bao gồm  
tuổi, giới. Các chỉ số nhân trắc bao gồm cân  
nặng được đo bằng cân Tanita có độ chính xác  
là 0,1kg. Đo chiều cao đứng bằng thước Seca  
của Đức (độ chính xác 0,1 cm). BMI được tính  
theo công thức BMI = cân nặng (kg)/ chiều cao  
(m)² và được phân loại BMI < 18,5 được xác  
định là có SDD. Chu vi vòng cánh tay (MUAC-  
Mid-Upper Arm Circumference, tính bằng cm)  
được đo ở điểm giữa đoạn từ mỏm cùng vai  
đến mỏm khuỷu với số đo thu được đến giá trị  
mm. MUAC < 23,5 được đánh giá là SDD. Chu  
vi bụng chân (CC-Calf circumference) được  
đo ở tư thế ngồi trên xe đẩy hoặc trên giường,  
chân để tư thế sao cho đầu gối và mắt cá chân  
tạo thành 1 góc 90 độ. Người đo sử dụng thước  
dây vòng qua bắp chân, di chuyển lên xuống  
để xác định được chu vi lớn nhất của bắp chân.  
Chu vi bụng chân < 31 cm được đánh giá là  
SDD.⁸  
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  
1. Đối tượng  
Nghiên cứu tiến hành trên người bệnh ≥ 65  
tuổi đang điều trị nội trú tại bệnh viện. Người  
bệnh không bị điếc, câm, rối loạn tâm thần, lú  
lẫn, hôn mê, thở máy, chấn thương hoặc đang  
điều trị tại khoa ICU; người bệnh không gù,  
vẹo để đảm bảo được kỹ thuật đo chiều cao và  
đồng ý tham gia nghiên cứu.  
Thời gian và địa điểm nghiên cứu  
Nghiên cứu tiến hành thu thập số liệu tại  
bệnh viện Đại học Y Hà Nội, bệnh viện Lão khoa  
Trung ương và bệnh viện Đa khoa Đống Đa từ  
tháng 8 năm 2018 đến tháng 01 năm 2019.  
2. Phương pháp  
Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang  
Cỡ mẫu, chọn mẫu:  
Áp dụng công thức uớc tính cỡ mẫu cho một  
tỷ lệ. Tiêu chí để đánh giá là tỷ lệ phần trăm  
SDD của người già tại bệnh viện. Số liệu từ  
một nghiên cứu cho thấy tỷ lệ SDD theo MNA  
là 23,5%.7 Khoảng sai lệch mong muốn giữa  
tỷ lệ thu được từ mẫu (p) và tỷ lệ của quần thể  
(P) lấy ∆=0,03  
Bộ công cụ đánh giá dinh dưỡng tối thiểu  
(MNA - Mini-Nutritional Assessmnet) được chia  
làm 2 phần sàng lọc và đánh giá tình trạng  
dinh dưỡng gồm các biến số: giảm ăn, giảm  
cân trong 3 tháng gần đây, vận động, stress,  
các vấn đề về thần kinh tâm thần, chỉ số khối  
cơ thể, người bệnh có loét tì đè hay không,  
lượng bữa ăn, lượng thực phẩm liên quan đến  
protein, tiêu thụ rau và hoa quả, lượng nước  
trong ngàyvà khả năng tự ăn. Tổng điểm cuối  
cùng cho 2 phần tối đa là 30 điểm, 24 - 30 điểm  
là tình trạng dinh dưỡng bình thường, 17 - 23,5  
điểm là có nguy cơ SDD, < 17 điểm được đánh  
giá là SDD.8  
Z21 -  
α
Lấy α=0,05 thì  
2 =1,962, p=0,235  
p(1- p)  
n = Z2(1-α/2)  
=767  
2
Dự kiến 20% bỏ cuộc, cỡ mẫu là 920 đối  
tượng, lấy tròn là 1000 đối tượng.  
Chọn mẫu: chọn toàn bộ người bệnh đủ tiêu  
chuẩn trong thời gian tiến hành nghiên cứu cho  
đến khi đủ cỡ mẫu. Kết thúc nghiên cứu chúng  
Nghiên cứu đánh giá chức năng khoang  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
319  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
miệng bằng khám lâm sàng thông qua các chỉ  
số: độ mở miệng, chức năng lưỡi bao gồm khả  
năng đẩy lưỡi về phía trước, di chuyển lưỡi  
sang hai bên, đẩy niêm mạc miệng bằng lưỡi,  
chứng teo gai lưỡi, lưỡi khô; đánh giá trương  
lực cơ bằng khả năng phồng má hai bên hay  
không và đánh giá người bệnh có răng giả hay  
không.  
mềm Epidata và phân tích bằng phần mềm  
Stata 14. Thống kê mô tả và thống kê suy luận  
được sử dụng để mô tả thông tin chung, tình  
trạng dinh dưỡng và mối liên quan với chức  
năng khoang miệng với p <0,05 được xem là  
có ý nghĩa thống kê.  
4. Đạo đức nghiên cứu  
Nghiên cứu đã được chấp thuận bởi  
hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh  
3. Thu thập và phân tích số liệu  
học của Trường Đại học Y Hà Nội số 1318/  
HĐĐĐĐHYHN, tháng 8 năm 2018.  
Số liệu được thu thập và nhập bằng phần  
II. KẾT QUẢ  
Đối tượng nghiên cứu có nhóm tuổi từ 70 -79 chiếm tỷ lệ cao nhất, 45%, tiếp đến là nhóm tuổi  
80-89 và 65-69, lần lượt là 27% và 24,9%, thấp nhất là nhóm tuổi ≥ 90 chỉ chiếm 3,1%. Đối tượng  
nghiên cứu là nữ chiếm 58,3%, nam giới chỉ chiếm 41,7%. Theo ngưỡng phân loại BMI, 18,9%  
người bệnh cao tuổi có SDD với BMI < 18,5. Có tới 65,6% người bệnh cao tuổi có SDD với BMI <  
23. Theo chu vi vòng cánh tay, 34,8% người bệnh có SDD. 60,7% người bệnh có SDD theo chu vi  
bụng chân (Bảng 1).  
Bảng 1. Tình trạng dinh dưỡng của đối tượng nghiên cứu theo chỉ tiêu nhân trắc  
Nam (n = 420)  
Nữ (n = 587)  
Chung (n = 1007)  
Biến số  
n
%
n
%
n
%
Phân loại BMI  
< 18,5  
36  
8,6  
154  
433  
26,2  
73,8  
190  
817  
18,9  
81,1  
≥ 18,5  
384  
91,4  
Chu vi vòng cánh tay  
< 23,5  
144  
276  
34,3  
65,7  
206  
381  
35,1  
64,9  
350  
657  
34,8  
65,2  
≥ 23,5  
Chu vi bụng chân  
< 31  
243  
177  
57,9  
42,1  
368  
219  
62,7  
37,3  
611  
396  
60,7  
39,3  
≥ 31  
Biểu đồ 1 mô tả tình trạng dinh dưỡng của người bệnh cao tuổi theo MNA. Người bệnh có nguy  
cơ SDD chiếm 54,3%, cao nhất gặp ở nhóm 80 - 89 tuổi chiếm 60,3%, thấp nhất ở nhóm 65 - 69  
tuổi chiếm 51,4%. Tỷ lệ SDD chung là 17,3%, tỷ lệ SDD tăng dần theo nhóm tuổi, thấp nhất ở nhóm  
65 - 79 tuổi và cao nhất ở nhóm tuổi trên 90 với 38,7%.  
320  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Tuổi  
17,3  
Chung  
54,3  
28,4  
38,7  
≥ 90  
80-89  
70-79  
65-69  
51,6  
9,7  
23,5  
60,3  
16,2  
13,2  
52,5  
34,2  
33,5  
15,1  
51,4  
0,0  
10,0  
20,0  
30,0  
Nguy cơ SDD  
40,0  
50,0  
60,0  
70,0  
SDD  
Bình thường  
Biểu đồ 1. Tình trạng dinh dưỡng người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại  
các bệnh viện theo MNA  
Mối liên quan giữa chức năng khoang miệng và tình trạng dinh dưỡng theo MNA được mô tả ở  
bảng 2. Tỷ lệ người bệnh có độ mở miệng < 3 ngón tay ở nhóm SDD và nguy cơ SDD cao hơn so  
với nhóm không bị SDD 8,3% so với 1,4% có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Ở người bệnh chức  
năng lưỡi giảm như không thể đẩy lưỡi ra phía trước, không thể di chuyển lưỡi sang 2 bên hoặc  
không thể đẩy niêm mạc bằng lưỡi ở nhóm SDD và nguy cơ SDD cao hơn so với nhóm không bị  
SDD lần lượt là 3,3%, 7,9% và 8,6% so với 0,7%, 1,4% và 1,4% có ý nghĩa thống kê với p < 0,05.  
Tương tự, người bệnh có chứng teo gai lưỡi hoặc lưỡi khô ở nhóm SDD hoặc có nguy cơ SDD cao  
hơn so với nhóm không SDD lần lượt là 10,4% và 13,2% so với 2,8% và 5,9% có ý nghĩa thống kê  
với p < 0,05 (Bảng 2).  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
321  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Bảng 2. Mối liên quan giữa chức năng khoang miệng và tình trạng dinh dưỡng theo MNA  
Nguy cơ SDD và  
Chức năng miệng  
Độ mở miệng  
Không SDD  
p
SDD  
> 3 ngón tay  
< 3 ngón tay  
Đẩy lưỡi về trước  
Có thể  
282 (98,6)  
4 (1,4)  
661 (91,7)  
60 (8,3)  
0,000  
284 (99,3)  
2 (0,7)  
697 (96,7)  
24 (3,3)  
0,015  
0,000  
0,000  
0,000  
0,001  
0,000  
0,415  
Không thể  
Di chuyển lưỡi sang hai bên  
Có thể  
282 (98,6)  
4 (1,4)  
664 (92,1)  
57 (7,9)  
Không thể  
Đẩy niêm mạc miệng bằng lưỡi  
Có thể  
282 (98,6)  
4 (1,4)  
659 (91,4)  
62 (8,6)  
Không thể  
Chứng teo gai lưỡi  
Không  
278 (97,2)  
8 (2,8)  
646 (89,6)  
75 (10,4)  
Có  
Lưỡi khô  
Nhiều nước bọt  
Ít nước bọt  
Phồng hai bên má  
Có thể  
269 (94,1)  
17 (5,9)  
626 (86,8)  
95 (13,2)  
282 (98,6)  
4 (1,4)  
659 (91,4)  
62 (8,6)  
Không thể  
Răng giả  
Không  
195 (68,2)  
91 (31,8)  
509 (70,8)  
210 (29,2)  
Có  
IV. BÀN LUẬN  
Nghiên cứu được tiến hành trên 1007 người  
bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Đại  
học Y Hà Nội, bệnh viện Lão khoa Trung ương  
và bệnh viện Đa khoa Đống Đa. Các chỉ số  
dùng để đánh giá tình trạng dinh dưỡng bằng  
chỉ tiêu nhân trắc bao gồm BMI, chu vi vòng  
cánh tay, chu vi bụng chân. Đối với BMI, theo  
tính như tiểu đường, tim mạch, ung thư và tỷ lệ  
tử vong tăng lên liên quan đến tăng trọng lượng  
cơ thể được ghi nhận. 9 Tuy nhiên, các nghiên  
cứu gần đây đã chỉ ra rằng, người cao tuổi ≥  
65 có thể có ngưỡng BMI khác phản ánh nguy  
cơ tử vong và tàn tật. Phân tích tổng hợp gần  
đây của 32 nghiên cứu đoàn hệ với cỡ mẫu n  
= 197940 người cao tuổi sống trong cộng đồng  
ở độ tuổi ≥ 65 đã tìm thấy mối liên quan giữa  
tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân, với nguy cơ  
²
tổ chức y tế thế giới, BMI từ 18,5 - 24,9 kg/m  
ở người trưởng thành được xem là ít có nguy  
cơ về sức khoẻ. Ngưỡng này đã được nghiên  
cứu xác định trên người trưởng thành trẻ tuổi,  
những người mà nguy cơ mắc các bệnh mạn  
²
tử vong thấp nhất ở BMI 24 - 31 kg/m .⁹ Trong  
nghiên cứu này, chúng tôi sử dụng ngưỡng BMI  
322  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
< 18,5 kg/m² được coi là SDD. BMI thấp được  
xem là yếu tố nguy cơ tử vong ở người cao tuổi.  
Nghiên cứu của Berraho M và cộng sự tại Pháp  
cho thấy, BMI < 22 kg/m² là nguy cơ giảm 13  
năm tuổi thọ ở người bệnh cao tuổi.10 Nghiên  
cứu của Tamakoshi A và cộng sự tại Nhật bản  
cũng đưa ra kết luận người cao tuổi có BMI  
20,0 - 29,9 ít có nguy cơ tử vong hơn nhóm có  
BMI < 20 kg/m². Nghiên cứu của chúng tôi cho  
thấy tỷ lệ SDD theo BMI là cao, 18,9%. Điều  
này đưa ra cảnh báo quan trọng về tình trạng  
dinh dưỡng của người cao tuổi trong bệnh viện  
tại Việt Nam. Chu vi vòng cánh tay < 23,5 cm  
chiếm tỷ lệ 34,8 %. Kết quả này cho thấy khối  
cơ của người bệnh giảm đáng kể. Chu vi bụng  
chân (CC-Calf circumference) được xem là chỉ  
số có độ nhạy cao nhất để đo lường khối cơ ở  
người cao tuổi, tốt hơn so với chu vi vòng cánh  
tay. Đồng thời nó cũng chỉ ra sự thay đổi khối  
mỡ thường xảy ra ở người cao tuổi và người  
giảm hoạt động thể lực.⁸ Nghiên cứu của chúng  
tôi cho thấy, 60,7% người bệnh có chu vi bụng  
chân < 31 cm. Kết quả này cho thấy tỷ lệ mất  
khối cơ xảy ra khá phổ biến ở nhóm người bệnh  
này và tỷ lệ mất khối cơ ở nữ là 62,7% cao  
hơn ở nam là 57,9%. MNA là bộ công cụ được  
khuyến cáo sử dụng để đánh giá tình trạng dinh  
dưỡng cho người cao tuổi vì có độ nhạy và độ  
đặc hiệu cao. Tỷ lệ SDD theo MNA trong nghiên  
cứu này là 17,3%, thấp hơn so với nghiên cứu  
của D.J. Patil và cộng sự với tỷ lệ 23,5%; tuy  
nhiên đối tượng có nguy cơ SDD trong nghiên  
cứu của chúng tôi lại cao hơn của D.J.Patil với  
54,3% so với 49%.⁷ Kết quả nghiên cứu của  
chúng tôi khá tương đồng với kết quả nghiên  
cứu của Rashimi Agarwalli trên 360 người bệnh  
cao tuổi tại Ấn Độ với tỷ lệ SDD và nguy cơ  
SDD lần lượt là 15% và 55%.11 Người bệnh  
càng cao tuổi thì tỷ lệ SDD và nguy cơ SDD  
càng cao. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy  
tỷ lệ SDD của người bệnh trên 90 tuổi chiếm  
38,7% và tỷ lệ có nguy cơ SDD là 51,6%, chỉ  
có 9,7% có tình trạng dinh dưỡng bình thường.  
Kết quả này tương tự với kết quả nghiên cứu  
của Rashimi Agarwalli khi có tới 78,1% người  
trên 85 tuổi có tình trạng dinh dưỡng kém, trong  
khi tỷ lệ này ở nhóm tuổi < 75 chỉ là 14,4%.11  
Chức năng khoang miệng bị ảnh hưởng  
có tác động tiêu cực đến lượng thực phẩm ăn  
vào, lâu dài dẫn đến SDD. Việc tự đánh giá sức  
khỏe răng miệng và tác động của sức khỏe răng  
miệng đến tình trạng dinh dưỡng và chất lượng  
cuộc sống không phải lúc nào cũng được quan  
tâm ở người cao tuổi. Nghiên cứu của Paula J  
và cộng sự đánh giá nguyên nhân và hậu quả  
của chế độ ăn thiếu dinh dưỡng ở người cao  
tuổi và mối liên quan đến sức khoẻ khoang  
miệng đã chỉ ra rằng, nhu cầu năng lượng giảm  
theo tuổi; tuy nhiên, nhiều yếu tố, bao gồm sức  
khỏe khoang miệng kém, chán ăn và bệnh tật,  
có thể ảnh hưởng đến năng lượng ăn vào.5  
Nghiên cứu của J. A. Gil-Montoya và chức  
năng khoang miệng và tình trạng dinh dưỡng  
của người cao tuổi cũng cho thấy, những người  
có điểm MNA thấp bị ảnh hưởng bởi chức năng  
khoang miệng như gặp các vấn đề về sâu răng,  
gặp vấn đề về nuốt nước bọt như khô miệng khi  
ăn, khó nuốt hay cần uống nước khi ăn. Nghiên  
cứu cũng cho thấy tỷ lệ người bệnh có SDD và  
nguy cơ SDD cần chăm sóc khoang miệng lần  
lượt là 84,8% và 75,9% so với 67,4% ở nhóm  
tình trạng dinh dưỡng bình thường.6 Kết quả  
nghiên cứu của chúng tôi cũng đưa ra được  
mối liên quan có ý nghĩa thống kê giữa tình  
trạng sức khoẻ khoang miệng với tỷ lệ SDD và  
nguy cơ SDD theo MNA. Đây là số liệu dựa vào  
bằng chứng để đưa ra những khuyến cáo về  
can thiệp dinh dưỡng cho người bệnh cần liên  
kết chặt chẽ với việc chăm sóc khoang miệng  
cho người bệnh. Nghiên cứu của Shirobe M và  
cộng sự về chức năng khoang miệng và tình  
trạng dinh dưỡng cũng đưa ra kết luận rằng  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
323  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
việc chăm sóc khoang miệng sẽ góp phần cải  
thiện tình trạng dinh dưỡng thông qua việc hỗ  
trợ bữa ăn là điều hết sức quan trọng trong việc  
chăm sóc dinh dưỡng cho người cao tuổi. 12  
CC, Saunders MJ, Rugh JD. Oral function and  
diet quality in a community-based sample. J  
Dent Res. 2001;80(7):1625-1630. doi:10.1177  
/00220345010800070601  
5. Moynihan PJ. The relationship between  
nutritionandsystemicandoralwell-beinginolder  
people. J Am Dent Assoc. 2007;138(4):493-  
497. doi:10.14219/jada.archive.2007.0201  
6. Oral Health-Related Quality of Life  
and Nutritional Status - Gil-Montoya - 2008  
- Journal of Public Health Dentistry - Wiley  
Online Library. Accessed April 1, 2020. https://  
onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/j.1752-  
7325.2007.00082.x  
V. KẾT LUẬN  
Suy dinh dưỡng ở người cao tuổi ở các  
bệnh viện tại Việt Nam chiếm tỷ lệ cao theo  
các phương pháp đánh giá khác nhau. Trong  
đó, công cụ MNA phát hiện tỷ lệ SDD cao nhất  
với 71,6%, tỷ lệ SDD theo BMI là thấp nhất với  
18,9%. Việc phối hợp nhiều phương pháp đánh  
giá tình trạng dinh dưỡng cho người bệnh cao  
tuổi là cần thiết để tránh bỏ sót người bệnh  
có nguy cơ. Chức năng khoang miệng có ảnh  
hưởng đến tình trạng dinh dưỡng của người  
bệnh. Người bệnh có độ mở miệng < 3 ngón  
tay, chức năng lưỡi kém như không thể đẩy  
lưỡi về phía trước, không di chuyển được lưỡi  
sang hai bên, lưỡi khô có tỷ lệ SDD cao hơn  
người bệnh không mắc các chứng này có ý  
nghĩa thống kê với p < 0,05. Do đó, việc chăm  
sóc khoang miệng cần được quan tâm phối hợp  
với việc chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh.  
7. Nutritional status assessment of elderly  
using MNA tool in rural Belagavi: a cross  
sectional study | Patil | International Journal  
Of Community Medicine And Public Health.  
com/index.php/ijcmph/article/view/3582  
8. Physical status; the use and interpretation  
of  
anthropometry.  
Accessed  
April  
1,  
2020.  
handle/10665/37003/WHO_TRS_854.  
pdf?sequence=1  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
9. Changes to BMI in Elderly - Leading  
Nutrition |Aged Care Dietitian. Leading Nutrition  
- The Dietitian Centre. Published February 20,  
leadingnutrition.com.au/elderlybmichanges/  
10. Berraho M, Nejjari C, Raherison  
C, et al. Body mass index, disability,  
and 13-year mortality in older French  
adults. J Aging Health. 2010;22(1):68-83.  
doi:10.1177/0898264309349422  
1. United Nations, “World Population  
Ageing: 1950–2050, Population Division”,  
United Nations. Dep Econ Soc Aff N Y NY.  
worldageing1950/2050.  
2. Govindaraju T, Sahle BW, McCaffrey  
TA, McNeil JJ, Owen AJ. Dietary Patterns and  
Quality of Life in Older Adults: A Systematic  
Review. Nutrients. 2018;10(8). doi:10.3390/  
nu10080971  
11. Agarwalla R, Saikia AM, Baruah R.  
Assessment of the nutritional status of the  
elderly and its correlates. J Fam Community  
Med. 2015;22(1):39-43. doi:10.4103/2230-  
8229.149588  
3. El Hélou M, Boulos C, Adib SM, Tabbal N.  
Relationship between oral health and nutritional  
status in the elderly: A pilot study in Lebanon.  
J
Clin Gerontol Geriatr. 2014;5(3):91-95.  
doi:10.1016/j.jcgg.2014.04.002  
12. Shirobe M, Nakayama R, Hirano H,  
4. Shinkai RS, Hatch JP, Sakai S, Mobley  
324  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
et al. Oral function and nutritional status  
among the elderly with facial and oral tactile  
hypersensitivity who are under long-term  
care. Nihon Koshu Eisei Zasshi Jpn J Public  
Health. 2017;64(7):351-358. doi:10.11236/  
jph.64.7_351  
Summary  
ASSESSMENT OF NUTRITIONAL STATUS AND ORAL  
FUNCTION OF GERIATRIC PATIENTS IN HANOI, VIETNAM  
This study is to assess the nutritional status and the nutritional status associated with the oral  
function of geriatric patients. A cross-sectional study was conducted among 1007 elderly inpatients  
in several hospitals in Hanoi, Vietnam, from August 2018 to January 2019. Results showed that  
the percentage of malnutrition according to (1) BMI classification for the elderly was 18.9%; (2)  
Mid-Upper Arm Circumference was 34.8%; and (3) Calf Circumference was 60.7%. Nutrition status  
assessed by the Mini-Nutritional Assessment (MNA) revealed that 71.6% of patients suffered from  
malnutrition and at risk of malnutrition. The oral function negatively impacts the amount of food  
intake, which may lead to a deterioration in nutritional status. Therefore, patients who experienced  
several oral-function problems such as narrow mouth opening ( less than three fingers), unable  
to push the tongue forward, unable to move the tongue or inflate the cheeks, atrophic glossitis  
and reduced salivary flow, had a higher risk of malnutrition with statistical significance (p < 0.05).  
Keywords: Nutritional status, oral function, elderly patients, Hanoi  
TCNCYH 129 (5) - 2020  
325  
pdf 8 trang yennguyen 14/04/2022 3840
Bạn đang xem tài liệu "Tình trạng dinh dưỡng và chức năng khoang miệng người bệnh cao tuổi tại một số bệnh viện Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftinh_trang_dinh_duong_va_chuc_nang_khoang_mieng_nguoi_benh_c.pdf