Thái độ “kỳ thị người cao tuổi” của bác sĩ tuyến y tế cơ sở ở một số địa phương

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
THÁI ĐỘ “KỲ THỊ NGƯỜI CAO TUỔI”  
CỦA BÁC SĨ TUYẾN Y TẾ CƠ SỞ Ở MỘT SỐ ĐỊA PHƯƠNG  
Nguyễn Thị Phóng1, Hồ Thị Kim Thanh1,2  
1Trường Đại học Y Hà Nội, 2Bệnh viện lão khoa Trung ương  
Nhân viên y tế cơ sở là những người đầu tiên tiếp xúc với người bệnh, người cao tuổi khoẻ mạnh tại cộng  
đồng, do đó cần có thái độ khách quan, có căn cứ khoa học về nhóm đối tượng này. Nghiên cứu mô tả thực  
trạng thái độ kỳ thị người cao tuổi của bác sĩ tuyến y tế cơ sở ở một số địa phương. 108 bác sĩ tuyến y tế cơ  
sở tại Hà Nội, Huế, Ninh Bình, Điện Biên được phỏng vấn bằng bộ câu hỏi tự điền gồm 2 phần: đặc điểm nhân  
khẩu - xã hội học và 2 bộ câu hỏi AAS (Thái độ phân biệt tuổi già, điểm từ 23-115) và FSA (Bộ câu hỏi Fraboni  
về phân biệt tuổi già, điểm từ 29-116). Điểm FSA và AAS trung bình của nhóm đối tượng nghiên cứu lần lượt  
là 66,58 ± 6,62 và 67,81 ± 7,29 điểm. Như vậy, bác sĩ tuyến y tế cơ sở có thái độ trung lập với người cao tuổi.  
Từ khóa: bác sĩ tuyến y tế cơ sở, kỳ thị tuổi già, thái độ với người cao tuổi  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Ageism, dịch sang tiếng Việt là phân biệt  
tuổi tác đang là một vấn đề rất được quan tâm  
trên thế giới. Phân biệt tuổi tác được định nghĩa  
là những nhận định, ý kiến mang tính tích cực  
hoặc tiêu cực, thành kiến và/hoặc phân biệt đối  
xử chỉ vì tuổi của người đó, đặc biệt là đối với  
người cao tuổi. Những nhận định như “già”,  
“quá già”, “trẻ” hoặc “quá trẻ” để có thể làm 1  
việc gì đó hay để được làm 1 việc gì đó ví dụ  
“quá già để được áp dụng phương pháp điều trị  
A”. Phân biệt tuổi tác có thể xuất phát từ chính  
bản thân người cao tuổi hay từ những người  
khác, tiềm ẩn hay rõ ràng và có thể ở nhiều  
mức độ. Trong một cuộc điều tra của Tổ chức  
Y tế Thế giới (WHO) trên 83000 người ở 57  
quốc gia, có tới 60% trả lời rằng người cao tuổi  
không được tôn trọng. Nhiều nghiên cứu chỉ ra  
rằng nguyên nhân phổ biến nhất của phân biệt  
đối xử với người cao tuổi là do tuổi cao (23 -  
28%) [1]. Việt Nam nằm trong nhóm 10 nước có  
tốc độ già hóa dân số nhanh nhất trên thế giới.  
Tỷ lệ người cao tuổi trong tổng dân số là 9,45%  
năm 2007, dự kiến tăng thành 11,24% vào năm  
2020 [2]. Do đó, sự nhìn nhận hay quan điểm  
của nhân viên y tế đối với người cao tuổi rất  
quan trọng, sẽ ảnh hưởng đến việc chăm sóc,  
bảo vệ sức khỏe cho nhóm dân số đang tăng  
nhanh này. Khác với phân biệt giới hay phân  
biệt chủng tộc, nạn nhân chỉ chiếm một nhóm  
nhỏ trong dân số, thì bất kì ai cũng có thể là đối  
tượng của sự phân biệt tuổi tác nếu họ sống đủ  
lâu. Vauclair và cộng sự phân tích dữ liệu từ 28  
quốc gia châu Âu cho thấy sự phân biệt tuổi tác  
có ảnh hưởng tiêu cực đến sức khỏe tự đánh  
giá của người cao tuổi [3].  
Bộ câu hỏi AAS (Ageism Attitude Scale) xây  
dựng bởi Polat năm 2011 có đủ độ tin cậy với  
Cronbach α = 0,80 [4]. Bộ câu hỏi này đo lường  
niềm tin và nhận thức về đời sống xã hội của  
người cao tuổi cũng như quan điểm xã hội với  
họ. Fraboni năm 1990 đã xây dựng nên bộ câu  
hỏi này và chứng minh là nó có độ tin cậy cao  
(Cronbach α = 0,86) [5].Thang đo này tương  
thích với khung lý thuyết của sự lão hóa và là  
thang đo đầu tiên chỉ ra mối liên hệ giữa “cảm  
xúc, ham muốn và hành vi” cũng như “định kiến  
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Phóng,  
Trường Đại học Y Hà Nội  
Email: ngphong115@gmail.com  
Ngày nhận: 17/09/2019  
Ngày được chấp nhận: 10/10/2019  
202  
TCNCYH 123 (7) - 2019  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
và hành vi”. Cả 2 thang điểm trên đều được sử  
dụng rộng rãi trong đánh giá thái độ của sinh  
viên y khoa, điều dưỡng, nhân viên y tế với  
người cao tuổi.  
câu, những hạn chế trong cuộc sống người  
cao tuổi) và B (8 câu, quan điểm tích cực về  
người cao tuổi): 5 điểm tương ứng với ‘hoàn  
toàn đồng ý’ giảm dần và 1 điểm: ‘hoàn toàn  
không đồng ý’; phần C (6 câu, quan điểm tiêu  
cực về người cao tuổi) được cho điểm ngược  
lại. Điểm phần A dao động từ 9 đến 45 điểm,  
phần B từ 8 đến 40 điểm, phần C từ 6 đến 30  
điểm. Tổng điểm cao nhất là 115 và thấp nhất là  
23. Người trả lời có số điểm cao hơn thì người  
đó có thái độ tích cực hơn với người cao tuổi  
và ngược lại.  
Nhân viên y tế cơ sở là những người đầu  
tiên tiếp xúc với người bệnh, người cao tuổi  
khoẻ mạnh tại cộng đồng, do đó cần có một cái  
nhìn khách quan, có căn cứ khoa học về người  
bệnh mà đặc biệt là người cao tuổi, đối tượng  
cần nhiều trợ giúp không chỉ về mặt y tế mà còn  
tâm lý, văn hóa, xã hội. Vì vậy, chúng tôi thực  
hiện nghiên cứu này nhằm mục tiêu mô tả thực  
trạng phân biệt tuổi già của các bác sĩ tuyến y  
tế cơ sở tại một số địa phương.  
Bộ câu hỏi FSA gồm 29 câu, mỗi câu được  
đánh giá bằng thang điểm 4 từ hoàn toàn không  
đồng ý (1 điểm) tới hoàn toàn đồng ý (4 điểm).  
Các câu * (8,12, 14, 21, 22, 23, 24) cho điểm  
ngược lại. Tổng điểm dao động từ 29 đến 116,  
điểm càng cao chứng tỏ mức độ phân biệt tuổi  
già cao hơn.  
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  
1. Đối tượng  
- Bác sỹ tuyến y tế cơ sở  
- Địa điểm: Điện Biên, Hà Nội, Ninh Bình,  
Huế  
Số liệu nghiên cứu được nhập, xử lý và phân  
tích bằng phần mềm thống kê y học SPSS 22.0.  
Giá trị p được lấy mốc 0,05; với p < 0,05 được  
xem là khác biệt có ý nghĩa thống kê khi kiểm  
định hai phía. Các biến định tính được trình bày  
theo số lượng và tỷ lệ %. Các biến định lượng  
được hiển thị dưới dạng trung bình, giá trị lớn  
nhất, giá trị nhỏ nhất, độ lệch chuẩn.  
- Thời gian: từ 09/2018 đến 05/2019  
2. Phương pháp  
- Mô tả cắt ngang.  
- Phương pháp chọn mẫu: Ngẫu nhiên  
thuận tiện  
- Đối tượng nghiên cứu được giải thích về  
mục đích và nội dung, tự nguyện tham gia khảo  
sát, trả lời bộ câu hỏi tự điền trong khoảng thời  
gian 15 - 20 phút. Phiếu câu hỏi được thiết  
kế gồm 2 phần lớn: đặc điểm nhân trắc - xã  
hội học và thang điểm AAS (Ageism Attitude  
Scale), FSA (Fraboni Scale of Ageism) để đánh  
giá thái độ đối với người cao tuổi. Đặc điểm  
nhân trắc - xã hội học bao gồm tuổi, giới, nơi  
làm việc, nội dung công việc, số năm công tác,  
tiền sử sống với người cao tuổi, tần suất làm  
việc tiếp xúc với người cao tuổi khỏe mạnh và  
người bệnh cao tuổi, qui định tuổi được coi là  
người cao tuổi.  
3. Đạo đức nghiên cứu  
Đề cương nghiên cứu được thông qua ngày  
23/07/2018 bởi hội đồng thông qua đề cương  
trong quyết định số 3466/QĐ-ĐHYHN, ngày  
11/07/2018.  
Nghiên cứu được sự chấp thuận, tự nguyện  
của các cá nhân tham gia nghiên cứu. Các  
thông tin cá nhân được giữ bí mật, đảm bảo  
riêng tư.  
Nghiên cứu chỉ sử dụng phương pháp thu  
thập số liệu qua bộ câu hỏi thiết kế sẵn nên  
không gây tác hại cho đối tượng nghiên cứu.  
Bộ câu hỏi AAS gồm 23 câu, với phần A (9  
TCNCYH 123 (7) - 2019  
203  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
III. KẾT QUẢ  
Trong khoảng thời gian từ 09/2018 đến 05/2019, nhóm nghiên cứu chúng tôi đã thu thập được  
108 bác sỹ tuyến y tế cơ sở làm việc tại 4 khu vực.  
Bảng 1. Một số đặc điểm của đối tượng nghiên cứu  
Đặc điểm chung  
Nam  
Số lượng (n)  
Tỷ lệ %  
51  
55  
53  
24  
27  
16  
41  
4
Giới  
Nữ  
49  
Hà Nội  
22,2  
25  
Điện Biên  
Huế  
Khu vực  
14,8  
38  
Ninh Bình  
Chưa bao giờ  
3,7  
Sống cùng người cao tuổi Đã từng  
Hiện tại  
59  
45  
84  
48  
9
54,6  
41,7  
77,8  
44,4  
8,3  
Khám chữa bệnh  
Dự phòng  
Công việc  
Hành chính  
Khác  
6
5,6  
Hàng ngày/ hàng tuần  
Hàng tháng hoặc lâu hơn  
Hàng ngày/ hàng tuần  
Hàng tháng hoặc lâu hơn  
85  
23  
80  
28  
78,7  
21,3  
74,1  
25,9  
Tiếp xúc với người cao tuổi  
khỏe mạnh  
Tiếp xúc với người bệnh  
cao tuổi  
Tuổi trung bình ± độ lệch chuẩn (năm)  
Thâm niên công tác (năm)  
41,4 ± 8,9 (24 - 56)  
15,83 ± 9,38 (0,5 - 33)  
Hầu hết đối tượng nghiên cứu đều đã từng hoặc đang sống cùng người cao tuổi (96,3%). Phần  
lớn đối tượng nghiên cứu đều tiếp xúc và làm việc với người cao tuổi khỏe mạnh cũng như người  
bệnh cao tuổi với tần suất hàng ngày hoặc hàng tuẩn (78,7% và 74,1 %).  
204  
TCNCYH 123 (7) - 2019  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
100%  
80%  
60%  
40%  
20%  
0%  
5,6%  
37%  
63,9%  
36,1%  
69,4%  
30,6%  
94,4%  
63%  
Được đào tạo về  
người cao tuổi  
Tham gia hội thảo về Hài lòng khi làm việc Gặp khó khăn khi làm  
người cao tuổi  
với người cao tuổi  
việc với người cao  
tuổi  
Có Không  
Biểu đồ 1. Một số đặc điểm khi làm việc với người cao tuổi  
Tỉ lệ bác sĩ được đào tạo về người cao tuổi cũng như tham gia hội thảo về người cao tuổi chiếm  
phần ít (36,1% và 30,6%). Đa số bác sĩ hài lòng khi làm việc với người cao tuổi (94,4%). Gần hai  
phần ba số người được hỏi gặp khó khăn khi làm việc với người cao tuổi (63%).  
50  
3%  
4%  
8%  
55  
17%  
60  
4%  
65  
64%  
70+  
Không dựa vào  
tuổi  
Biểu đồ 2. Quan niệm số tuổi được coi là già  
Đa số đối tượng nghiên cứu cho rằng từ 60 tuổi trở lên là già (chiềm 64% số người được hỏi).  
Có một số lượng không nhỏ (17%) cho rằng từ 70 tuổi trở lên mới được coi là già, cũng như ý kiến  
khác không đánh giá sự già dựa vào tuổi tác (8%).  
TCNCYH 123 (7) - 2019  
205  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi có điểm FSA trung bình là 66,58 ± 6,62, điểm AAS  
trung bình là 67,81 ± 7,29, cho thấy thái độ từ trung lập đến tích cực với người cao tuổi.  
Bảng 2. Điểm FSA và AAS của nhóm đối tượng nghiên cứu  
A
B
C
(Hạn chế cuộc (Phân biệt tuổi (Phân biệt tuổi  
AAS  
FSA  
sống NCT)  
tích cực)  
tiêu cực)  
TB ± ĐLC  
GTLN  
22,46 ± 4,13  
28,45 ± 5,85  
16,90 ± 3,38  
67,81 ± 7,29  
66,58 ± 6,62  
32  
9
39  
8
26  
8
82  
43  
82  
44  
GTNN  
NCT: người cao tuổi, TB: trung bình, ĐLC: độ lệch chuẩn, GTLN: giá trị lớn nhất, GTNN: giá trị  
nhỏ nhất, AAS: Ageism Attitude Scale, FSA: Fraboni Scale of Ageism.  
IV. BÀN LUẬN  
Trong nghiên cứu của chúng tôi, 64% người  
được hỏi cho rằng từ 60 tuổi trở lên là già (số  
tuổi được quy định trong Pháp lệnh về người  
cao tuổi của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội ngày  
28/04/2000). Có 17% số người được hỏi cho  
rằng từ 70 tuổi trở lên mới được coi là già. Kết  
quả này tương tự với nhiều nghiên cứu khác.  
Theo kết quả điều tra của Văn phòng Nội các  
Nhật Bản năm 2004, có gần một nửa (48,7%)  
số người được hỏi cho rằng từ 65 tuổi được  
cho là già. Bên cạnh đó, có 12,9% số ngưởi  
được hỏi cho rằng từ 70 tuổi trở lên mới được  
coi là già [6]. Luo (2013) so sánh thái độ phân  
biệt tuổi già của sinh viên Mỹ và Trung Quốc,  
sinh viên Mỹ cho rằng 74 tuổi là mốc đánh dấu  
cho tuổi già, trong khi đó sinh viên Trung Quốc  
cho là 71 tuổi. Thật thú vị, hai con số trên cao  
hơn so với tuổi nghỉ hưu ở 2 nước (Mỹ: 65 tuổi,  
Trung Quốc: 55/60 tuổi ở nam, 50/55 ở nữ) [7].  
Trong nghiên cứu của Duthie (2009), đa số sinh  
viên vật lý trị liệu ở Scotland cho rằng con người  
ta bắt đầu được coi là “già” khi họ 60, 65 hoặc  
70 tuổi với các câu trả lời từ 40 đến 80 tuổi [8].  
Nhóm đối tượng nghiên cứu của chúng tôi  
có điểm FSA trung bình là 66,58/116, cho thấy  
thái độ tương đối tích cực. Kết quả này tương  
tự với một số nghiên cứu. Leung và cộng sự  
(2008) nghiên cứu 122 bác sĩ ở 2 bệnh viện đại  
học của tại Autralia thu được điểm FSA trung  
bình là 61,5 điểm [1]. Nghiên cứu của Mckinze  
R. Vowels 2014 ở Mỹ, thái độ của sinh viên với  
người cao tuổi là tương đối tiêu cực (FSA trung  
bình là 79,4 điểm). Lý do, theo tác giả, có lẽ vì  
các câu hỏi được dễ dàng nhận ra là tích cực  
hay tiêu cực và bộ câu hỏi FSA sử dụng để  
phát hiện thái độ phân biệt tuổi tác rõ ràng hơn  
là tiềm ẩn [9].  
Điểm AAS trung bình của chúng tôi thu  
được là là 67,81/115,cho thấy thái độ trung lập  
với người cao tuổi. Tương tự, Hatice Pekince  
và cộng sự nghiên cứu 242 nhân viện y tế tại  
1 bệnh viện năm 2018 ở Thổ Nhĩ Kì thu được  
điểm AAS trung bình là 68,58 [10]. Ngược lại,  
Rokaia Fathi Mohammed (2014) nghiên cứu  
thái độ của sinh viên điều dưỡng ở Ai Cập với  
người cao tuổi thu được điểm AAS là 54,07  
điểm, cho thấy thái độ tương đối tiêu cực [11].  
Theo tác giả, mặc dù thực tế này không phản  
ánh văn hóa tôn trọng người già của Ai Cập,  
nhưng phát hiện này có thể liên quan đến thiếu  
206  
TCNCYH 123 (7) - 2019  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
kiến thức và giáo dục về lão hóa, điều kiện sống  
khó khăn và thay đổi cấu trúc gia đình dẫn tới  
người cao tuổi mất đi giá trị và việc chăm sóc  
họ được coi như là 1 gánh nặng của gia đình.  
Kết quả của chúng tôi cũng tương tự với  
nhiều tác giả khi sử dụng các bộ câu hỏi khác:  
Doherty (2011), Yang (2015) đều cho thấy thái  
độ từ trung lập đến tích cực với người cao tuổi  
[12; 13]. Yilmaz (2012) nghiên cứu trên đối  
tượng người trưởng thành nói chung tại Thổ  
Nhĩ Kì cũng cho thấy thái độ tích cực với người  
cao tuổi [14].  
tại Việt Nam. Bộ Y tế, Tổng cục dân số và kế  
hoạch hóa gia đình.  
3. Vauclair C - M, Marques S, Lima ML,  
et al (2015). Perceived Age Discrimination as  
a Mediator of the Association Between Income  
Inequality and Older People’s Self - Rated  
Health in the European Region. J Gerontol B  
Psychol Sci Soc Sci, 70(6).  
4. Polat U, Karadag A, Ulger Z, et al (2014).  
Nurses’ and physicians’ perceptions of older  
people and attitudes towards older people:  
Ageism in a hospital in Turkey. Contemp Nurse,  
48(1). 88 - 97.  
Bên cạnh đó, một nghiên cứu của Kearney  
(2000) lại chỉ ra thái độ tiêu cực của bác sĩ ung  
thư với người cao tuổi [15]. Theo tác giả, trong  
một xã hội có sự phân biệt tuổi già thì nhân viên  
y tế là đối tượng dễ bị tổn thương trong việc  
tăng cường thái độ phân biệt tuổi già bởi vì sự  
tăng cường tiếp xúc với người bệnh cao tuổi.  
5. Fraboni M, Saltstone R, Hughes S  
(1990). The Fraboni Scale of Ageism (FSA): An  
Attempt at a More Precise Measure of Ageism.  
Can J Aging Rev Can Vieil, 9(1). 56 - 66.  
6. Japanese Cabinet Office (2004). A Brief  
Summary of the Results of a Survey on Public  
Attitudes to Aging. Japan.  
V. KẾT LUẬN  
7. Luo B, Zhou K, Jin EJ, et al (2013).  
Thái độ của bác sĩ tuyến y tế cơ sở với  
người cao tuổi trong nghiên cứu của chúng tôi  
là trung lập với điểm FSA và AAS trung bình lần  
lượt là 66,58 ± 6,62 và 67,81 ± 7,29 điểm. Gần  
hai phần ba số người được hỏi gặp khó khăn  
khi làm việc với người cao tuổi, khoảng một  
phần ba được đào tạo về người cao tuổi hay  
tham gia hội thảo về người cao tuổi. Do đó, để  
cải thiện thái độ của các bác sĩ tuyến y tế cơ sở  
đối với người cao tuổi, các khóa học liên quan  
đến người cao tuổi nên được thêm vào chương  
trình đào tạo, cũng như thường xuyên tổ chức  
các hội thảo về người cao tuổi.  
Ageism  
among  
College  
Students:  
A
Comparative Study between U.S. and China. J  
Cross - Cult Gerontol, 28(1). 49 - 63.  
8. Duthie J and Donaghy M (2009).The  
Beliefs and Attitudes of Physiotherapy Students  
in Scotland Toward Older People. Phys Occup  
Ther Geriatr, 27(3). 245 - 266.  
9. Vowels MR and Crandall KJ (2004). A  
Descriptive Study of Exercise Science Students’  
Knowledge of, and Attitudes Toward, Older  
Adults. Ky Assoc Health Phys Educ Recreat  
Dance, 266.  
10. Pekince H, Aslan H, Erci B, Akturk U  
(2019).The attitudes of healthcare professionals  
in a state hospital towards ageism. J Public  
Health, 26(1). 109 - 117.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Leung S, Logiudice D, Schwarz J, et al  
(2011). Hospital doctors’ attitudes towards older  
people. Intern Med J, 41 (1). 308 - 314.  
11. Mohammed RF and Omar AAA (2019).  
Knowledge about Elderly Care and Its Relation  
to Ageism Attitude among Undergraduate  
Nursing Students. Am J Nurs Res, 7(1), 73 - 78.  
2. Phạm Thắng và Đỗ Thị Khánh Hỷ  
(2009). Báo cáo tổng quan về chính sách chăm  
sóc người già thích ứng với thay đổi cơ cấu tuổi  
TCNCYH 123 (7) - 2019  
207  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
12. Doherty M and Mitchell EA (2011).  
Attitudes of healthcare workers towards older  
people in a rural population: A survey using the  
Kogan Scale. Nurs Res Pract, 2011.  
14. Yilmaz M,Altiok M, Polat B, et al (2012).  
Attitudes of young adults towards ageism. Turk  
J Geriatr, 15(4). 416 - 423.  
15. Kearney N, Miller M, Paul J, et al  
(2000). Oncology healthcare professionals’  
attitudes toward elderly people. Ann Oncol Off  
J Eur Soc Med Oncol, 11(5). 599 - 601.  
13. Yang Y and Xiao LD (2015). General  
practitioners’ knowledge of ageing and attitudes  
towards older people in China. Australia J  
Ageing, 34(2). 82 - 87.  
Summary  
AGEISM IN PRIMARY CARE PHYSICIANS  
Primary care physicians have early contact with elderly patients, therefore are required to have  
a non-prejudiced attitude toward this population. This research describes the attitude of primary  
care professionals towards the elderly in several provinces in Vietnam. 108 medical doctors  
in Hanoi, Hue, Ninh Binh, Dien Bien province were asked to performed a self-administered  
questionnaire consisting of questions about socio-demographic characteristics and completion  
of the AAS ( Polat questionnaire, score range 23 - 115) and FSA (Fabroni questionnaire, score  
range 29 - 116); AAS and FSA are used to identify the perception and attitude towards the  
elderly. The mean scores of FSA and AAS were 66.58 ± 6.62 and 67.81 ± 7.29, respectively.  
In conclusion, primay care physicians generally hold a neutral attitude towards elderly.  
Keywords: ageism, primary care physicians, attitudes towards elderly.  
208  
TCNCYH 123 (7) - 2019  
pdf 7 trang yennguyen 14/04/2022 4700
Bạn đang xem tài liệu "Thái độ “kỳ thị người cao tuổi” của bác sĩ tuyến y tế cơ sở ở một số địa phương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthai_do_ky_thi_nguoi_cao_tuoi_cua_bac_si_tuyen_y_te_co_so_o.pdf