Tìm hiểu nhân vật Đức Sư Cố Hà Minh Nhựt
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 40 (10-2019)
TÌM HIỂU NHÂN VẬT ĐỨC SƯ CỐ HÀ MINH NHỰT
y Lê Thu Vân(*)
Tóm tắt
Cù lao Ông Chưởng thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang là nơi có lịch sử hình thành và phát
triển gần 320 năm (1700- 2019) với nhiều biểu hiện văn hóa đặc sắc. Một trong số đó là giai thoại về
các nhân vật lịch sử. Nếu vào buổi đầu khai hoang lập nghiệp, danh nhân Nguyễn Hữu Cảnh đã để lại
dấu ấn vô cùng sâu đậm trên khắp cù lao thì vào nửa đầu thế kỷ XIX, trong một khu vực nhỏ tại xã Kiến
An cũng xuất hiện một nhân vật được cư dân quanh vùng hết lòng tôn kính gọi là Đức sư Cố Hà Minh
Nhựt. Cuộc đời, công trạng và mối liên hệ của ngài với giáo chủ đạo Bửu Sơn Kỳ Hương hàm ẩn nhiều
điều ly kỳ, thú vị phản ánh tương đối rõ nét nếp sống, phong tục, tập quán, tín ngưỡng, tôn giáo… của
địa phương nhưng đáng tiếc không được sử sách ghi chép lại để lưu truyền hậu thế. Do vậy, trong bài
viết này, chúng tôi sẽ trình bày đôi nét về tiểu sử và làm rõ những điều bí ẩn trong cuộc đời của Đức sư
Cố Hà Minh Nhựt, đồng thời luận giải vai trò của ngài trong mối quan hệ với Phật thầy Tây An Đoàn
Minh Huyên với mục đích góp phần cung cấp thông tin xác đáng về một nhân vật văn hóa - lịch sử cho
nguồn tư liệu địa phương tỉnh An Giang.
Từ khóa: Đức sư Cố, Hà Minh Nhựt, Phật thầy Tây An, Bửu Sơn Kỳ Hương An Long cổ tự.
1. Đặt vấn đề
là trên bia mộ của Đức sư Cố; thứ hai là trong một
tập giấy mỏng (dày 7 trang) có tựa đề “Tiểu sử của
Đức sư Cố chùa An Long cổ tự” được các vị lão
niên trông coi ngôi chùa ngày trước chép và lưu
giữ lại để người sau tìm hiểu. Khi so sánh hai văn
bản này, chúng tôi phát hiện bản trên bia mộ thực
chất là bản tóm tắt từ tập giấy mỏng nên có thể nói
tập giấy đó là toàn bộ tài liệu quan trọng ban đầu
mà chúng tôi có được.
Đức sư Cố Hà Minh Nhựt là một nhân vật
có thật trong lịch sử văn hóa địa phương tỉnh An
Giang, sinh trưởng vào đầu thế kỷ XIX tại làng
Kiến Long (nay là xã Kiến An, huyện Chợ Mới)
trên cù lao Ông Chưởng. Những giai thoại về ngài
đều rất thú vị, dễ làm người nghe say mê và kính
phục. Qua lời kể dân gian, Đức sư Cố được hình
dung như một vị hòa thượng đức cao vọng trọng,
tinh thông Phật pháp, hết lòng chữa bệnh cứu người,
tiếng thơm nổi danh khắp vùng. Ngôi chùa do ngài
lập ra và đặt danh hiệu là An Long để chữa bệnh
và hoằng dương Phật pháp hiện nay vẫn hương
khói đều đặn, người dân trong vùng do kính nể
nên lấy đức danh dân gian của ngài đặt cho chùa
gọi là chùa Cố. Nếu xét đến sự linh ứng và những
công trạng mà ngài đã đem lại cho địa phương thì
Đức sư Cố xứng đáng là một nhân vật được sử
sách công nhận và trân trọng. Tuy nhiên, khi tra
cứu trong các quyển lịch sử, văn hóa địa phương
An Giang, đặc biệt là trong công trình đồ sộ Địa
chí An Giang, chúng tôi vẫn không thu thập được
bất kỳ thông tin nào nhắc đến tên tuổi của Đức sư
Cố. Nhận thấy tính cấp thiết của vấn đề, chúng tôi
tiến hành khảo sát chùaAn Long, nơi ghi nhận dấu
tích sâu đậm nhất về cuộc đời Đức sư Cố thì phát
hiện có hai chỗ ghi lại tiểu sử của ngài: thứ nhất
Do sách sử có ghi chép về Đức sư Cố quá ít
ỏi, chúng tôi tiếp tục thu thập thêm thông tin bằng
phương pháp phỏng vấn sâu các vị lão niên sinh
sống trong khu vực gần chùa An Long đã từng có
một khoảng thời gian làm việc trong chùa và ghi
chép những câu trả lời ấy thành nhật ký điền dã.
Điều đáng tiếc là những vị trong coi ngôi chùa lâu
năm có hiểu biết tường tận về tiểu sử của Đức sư
Cố đều đã qua đời, còn lại các thế hệ nối tiếp sau
thì sự am hiểu có chút mơ hồ và không nhất quán
nên thông tin thu thập bằng phương pháp phỏng
vấn sâu chỉ đạt độ tin cậy ở mức trung bình. Tuy
nhiên, trong quá trình phỏng vấn, chúng tôi vẫn tìm
được những thông tin chung, trùng khớp về Đức
sư Cố và may mắn nhìn ra được manh mối về mối
quan hệ giữa ngài và Phật thầy TâyAn nên tiếp tục
mở rộng tìm kiếm tư liệu trong các quyển sách đề
cập đến cuộc đời Phật thầy và thu thập được một ít
thông tin quan trọng, hé lộ thêm đức tính và nhân
cách của Đức sư Cố Hà Minh Nhựt.
(*) Trường Đại học An Giang.
95
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 40 (10-2019)
Dựa trên tất cả thông tin có được từ việc tra nghe lời thân sinh đi coi chim giữ lúa, khi đi không
quên đem theo một bầu muối để dùng với cơm. Mặc
dù mang tiếng coi chim giữ lúa nhưng ngài không
bao giờ đuổi chúng đi, mặc tình để cho chim ăn lúa
thoải mái vì lúc ấy ngài chỉ chú tâm chơi trò nặn
đất sét với các bạn đồng niên, lạ một điều là thay
vì lấy bùn nắn thành cục đất chọi chim thì ngài lại
nắn thành cốt Phật theo trí tưởng tượng của mình
và tự hình dung ra nghi thức yên vị cho các tượng
Phật, kính cẩn để trên chòi canh. Khi cha Đức sư
Cố ra đồng thăm lúa, thấy lúa bị chim ăn gần hết
còn ngài thì mải mê nhìn ngắm tượng Phật nên ông
vô cùng giận dữ, lập tức về nhà đem theo một cái
thúng con rồi trở vô đồng gom tất cả tượng Phật
mà Đức sư Cố đã nắn bỏ vô thúng, đổ hết xuống
lòng (rạch) Ông Chưởng. Điều kỳ lạ là tất cả tượng
Phật đều nổi lên và trôi nhè nhẹ theo dòng nước
trước sự chứng kiến đầy ngạc nhiên của đông đảo
bà con lối xóm trong đó có thân sinh của Đức sư
Cố. Ngài vốn có tánh linh, đoán biết được sự việc
nên đã sớm chạy xuống phía dưới dòng chảy và
đón vớt tượng Phật lên hết. Mọi người trong xóm
bàn luận xôn xao trước sự linh thiêng của Đức sư
Cố, cha ngài từ đó cũng đồng ý cho ngài được tu
hành theo ý nguyện.
định tài liệu lịch sử, các văn bản lưu hành nội bộ
như sách chép về Phật thầy Tây An và bản thảo về
tiểu sử của Đức sư Cố cùng với những ghi chép
trong nhật ký điền dã, tất nhiên đây vốn dĩ là những
thông tin chưa được chứng thực nhưng vẫn có giá
trị nhất định nào đó đối với vấn đề nghiên cứu, đặc
biệt là về mảng văn hóa dân gian nên chúng tôi có
cơ sở đưa ra một số giả thuyết sau:
- Giai đoạn sinh thời của Đức sư Cố cũng là lúc
Nam Bộ bước vào thời kỳ đầu đón nhận hiện tượng
“ông Đạo”, mặc dù xuất thân là Phật tử nhưng với
những đặc điểm kỳ lạ có phần tương đồng, Đức sư
Cố có thể xem là một ông Đạo sơ khởi như những
ông Đạo sau này được chăng?
- Mối quan hệ giữa Đức sư Cố và Phật thầy
Tây An kỳ thực có ý nghĩa gì? Phải chăng chính
Đức sư Cố là người đã nhen nhóm ý tưởng cho
Phật thầy hoạt động tôn giáo và phái sinh ra tôn
giáo mới?
- Nguyên nhân nào khiến cho danh trạng của
Đức sư Cố không được sách sử ghi chép lại, có phải
vì sinh thời Đức sư Cố được người dân kính trọng
quá mức nên ra sức thêu dệt nên những công trạng
thần kỳ ấy chứ kỳ thực không có! Hay vì Đức sư
Cố chỉ hoạt động co cụm trong một phạm vi nhỏ
hạn chế, trong khi Phật thầy Tây An có phạm vi
hoạt động rộng hơn, còn khai sinh tôn giáo bản địa
đầu tiên của tỉnh An Giang nên dần dần hình ảnh
của Đức sư Cố trở nên nhỏ bé, bị phai mờ đi và bị
lịch sử lãng quên?
Lúc trước, chỗ nền chùa trũng thấp như lòng
chảo, vốn là mảnh đất của ông Hà Văn Hòa là người
trong thân tộc cúng dường cho Đức sư Cố cốt để
ngài dựng am tu hành, Đức sư Cố nảy ý cắm một
cái cây khô ngay giữa nền đất làm cái cọc tiêu. Ngài
nói nếu người nào ném trúng cái cọc tiêu ấy sẽ được
thưởng một trái chuối. Những đứa mục đồng ngày
nào đi ngang cũng nhặt đất mà chọi vào cái cọc
tiêu nhưng chẳng bao giờ trúng, lâu dần chỗ lòng
chảo được những cục đất chọi lấp đầy, Đức sư Cố
nhân đó san lại cho bằng phẳng để làm nền chùa.
Nhờ sự màu nhiệm đồn đại trên, bà con trong xóm
cùng giúp đỡ ngài cất tạm một cái am nhỏ bằng cây
tre, lợp tranh để cho Đức sư Cố có chỗ tu hành, thờ
Phật. Từ đó, ngài không còn theo đuổi việc đồng
áng nữa, hằng ngày quyết chí tu hành. Lúc bấy giờ
Đức sư Cố vẫn chỉ là một đứa trẻ.
2. Nội dung
2.1. Sơ lược tiểu sử của Đức sư Cố Hà
Minh Nhựt
Đức sư Cố Hà Minh Nhựt tên thật là Hà Văn
Dao, sinh năm 1802, không rõ tên tuổi ông bà thân
sinh, chỉ biết cha mẹ ngài là những người nông dân
chất phác, sinh quán tại thôn Kiến Long (xã Kiến
An, huyện Chợ Mới hiện nay). Đức sư Cố lúc nhỏ
tuy theo hướng canh điền, hàng ngày ở nơi đồng
ruộng nhưng sớm lộ khí chất là người có duyên
với nhà Phật vì chỉ ăn được cơm chay lạt, không
Vào khoảng năm 1810(1), sự đồn đãi về Đức
chịu được mùi cá mắm. Vào mùa lúa chín, lúc bấy sư Cố ngày càng lan rộng nên người sùng mộ đạo
Phật tới chiêm bái đông đảo, cái am lúc trước được
xây dựng lại thành một ngôi chùa cây rộng rãi hơn.
giờ xung quanh đất chùa có lúa sạ (còn gọi là lúa
sớm), tháng 10 là cắt không để cho chim ăn, ngài
96
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 40 (10-2019)
Tiếp đó, Đức sư Cố đốn cây cà dâm, tự tay ngài ngàn Phật tử, ngài tiếp tục trị bệnh và hành đạo
khắc cốt Phật khéo léo và một lần nữa theo tâm linh,
Đức sư Cố làm lễ an vị Đức Phật theo ngôi thứ để
cho bá tánh nhận diện, đồng thời đặt hiệu cho chùa
là An Long. Tại đây, ngài vừa tu hành vừa trị bệnh
cho dân chúng trong vùng, nhất là những bệnh tâm
trí cuồng loạn. Tương truyền, ngài dùng thuật ngữ
thuyết pháp cho người bệnh nghe, dần dần họ hết
bệnh và quay đầu tu hành. Phương pháp trị bệnh
của Đức sư Cố được lan truyền, dân chúng tới chùa
An Long dâng hương, chữa bệnh ngày càng nhiều,
ghe xuồng lúc nào cũng đậu kín hai bên rạch Ông
Chưởng, làm cho vùng này trở nên rất náo nhiệt.
Điều đặc biệt khiến cho dân chúng càng nể trọng
hơn là Đức sư Cố không chỉ chữa bệnh cứu người
mà ngài còn vừa dạy dân chúng tu hành, làm điều
thiện vừa nhắc nhở họ đừng quên bản thân phải có
bổn phận với quê hương, đất nước.
theo chân lý của Đức Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni.
Khoảng năm 1840, phu nhân quan Tổng trấn
An Giang mắc bệnh nặng đang trong cơn thập tử
nhất sinh, nhiều thầy thuốc được mời tới để cứu
chữa nhưng bệnh tình không những không thuyên
giảm mà ngày càng trầm trọng. Thấy vợ trong cơn
hấp hối, quan Tổng trấn nhớ đến Đức sư Cố đã
trở về chùa nên nhanh chóng đưa bà đến trị bệnh.
Theo lời người dân kể lại, ngài chỉ dùng thuật ngữ
thuyết giảng và cho bà uống nước lã, vài giờ sau
vị phu nhân bắt đầu tỉnh táo lại và dần dần khỏe
mạnh. Quan Tổng trấn hết lòng cảm kích, ông tiến
hành hợp thức hóa sắc phong Hòa Thượng và thành
tích đạo đạt tu hành cùng phương pháp trị bệnh của
Đức sư Cố đến triều đình. Triều đình sau đó ban
tứ một thanh gươm dài, lưỡi bằng vàng, cán khắc
chạm tứ quý và bản văn ấn khuyết ghi rõ sắc lệnh
sát tà trị bệnh, chứng minh Đức sư Cố là một vị
Hòa Thượng có đủ khả năng hành pháp hữu hiệu.
Tương truyền gươm báu này hiện đang ở dưới đáy
rạch Ông Chưởng, chưa ai tìm được.
Khoảng 15 năm sau, Đoàn Minh Huyên có
dịp ghé chùa An Long và gặp gỡ Đức sư Cố, trong
Sấm giảng Phật thầy Tây An có câu “Lại chùa sư
Nhựt ở rày hôm mai” như một chứng cớ hữu hiệu
cho sự gặp gỡ này(2). Lúc đàm đạo, Phật thầy xưng
hô danh nghĩa với Đức sư Cố bằng Ngài và tỏ ra ái
mộ sự tu hành trên nền tảng Chánh pháp. Trước khi
rời đi, Phật thầy có ký thác một tượng PhậtA-di-đà
bằng đồng cho nhà chùa.
Danh trạng của Đức sư Cố ngày càng lan rộng,
quan Tổng trấn trực tiếp ủng hộ trùng tu chùa An
Long cho rộng rãi để bá tánh khắp nơi đến làm lễ
bái, tu hành, nghỉ ngơi. Dân chúng dâng công bồi
đắp xây cất ngôi chùa cột tràm lợp bằng tranh rộng
rãi với nghi thức trang nghiêm và phương tiện đầy
đủ. Đức sư Cố lúc nào cũng giữ một tình bác ái vị
tha, luôn gióng tiếng chuông giáo pháp để mở rộng
kiến thức cho hàng vạn Phật tử.
Thời bấy giờ triều đình nhà Nguyễn có nhiều
vị rất sùng kính đạo Phật nên mấy năm sau quan
Tổng trấn An Giang mời các nhà sư trong tỉnh,
trong đó có Đức sư Cố đến Tỉnh đường làm lễ đăng
đàn thuyết kinh, Đức sư Cố thuyết kinh rất lưu loát
trước đại chúng. Sau sự kiện đó, vì mến mộ đức
hạnh của ngài, quan Tổng trấn khuyên Đức sư Cố
đến gặp Hòa Thượng Tổ ở Cái Bè (Tiền Giang) để
học và tầm chánh lý. Đức sư Cố vâng theo lệnh
tìm đến nơi, ngài được Hòa Thượng Tổ tiếp đón rất
niềm nở và thuyết giảng giáo lý, học đến đâu Đức
sư Cố đều thông suốt đến đó, trong một thời gian
ngắn đã thấu đạt mọi chân lý. Ngài Hòa Thượng
Tổ cho rằng sự sáng suốt thiên tính của Đức sư
Cố xứng đáng là bậc dẫn đạo và đổi danh ngài từ
Hà Văn Dao thành Hà Minh Nhựt có ý nghĩa trí
tuệ sáng suốt như mặt trời và truy phong sắc Hòa
Thượng cho ngài. Sau đó, Đức sư Cố trở về chùa
An Long trong sự chào đón nồng nhiệt của hàng
Đức sư Cố Hà Minh Nhựt tịch diệt năm 1877,
hưởng thọ 75 tuổi. Hòa Thượng Ký Trang và những
vị khác lần lượt trở thành trụ trì của chùaAn Long,
họ đều là những vị thông đạt chân lý, nối theo chí
Đức sư Cố, tiếp tục pháp môn của ngài.
2.2. Mối liên hệ giữa Đức sư Cố và Phật
thầy Tây An Đoàn Minh Huyên
Theo tư liệu dân gian ghi chép lại và thông tin
truyền miệng được trích trong nhật ký điền dã của
chúng tôi, nhân vật quan trọng từng có mối liên hệ
với Đức sư Cố là Đức Phật thầy TâyAn Đoàn Minh
Huyên (gọi tắt là Phật thầy). Ngày nay, danh tiếng
của Phật thầy vượt xa Đức sư Cố nhưng trong quá
khứ, trước khi nổi danh thì ông đã từng có duyên
97
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 40 (10-2019)
gặp gỡ và đàm đạo với Đức sư Cố khi ấy đã là 5 tuổi, từ nhỏ Đức sư Cố đã nổi tiếng là người có
một vị tăng nhân vô cùng nổi danh trong khu vực.
Để có thể lý giải luận điểm Đức sư Cố có phải là
nhân vật quan trọng ảnh hưởng đến tư tưởng và
hành động của Phật thầy hay không, chúng tôi bắt
đầu bằng việc sơ lược tiểu sử của Phật thầy và so
sánh với hành trạng của Đức sư Cố ở những thời
điểm quan trọng.
căn cốt Phật học với nhiều câu chuyện thú vị nêu
trên. Khoảng độ mười chín hai mươi tuổi thì Đức
sư Cố bắt đầu trị bệnh cho dân chúng bằng thuyết
pháp và nước lã, đặc biệt là những bệnh tâm cuồng
trí loạn. Đây là chi tiết đầu mối vì từ nhỏ đến lớn,
Đức sư Cố chỉ tu hành tại quê nhà, hoạt động tôn
giáo trong khu vực nơi mình sinh sống và chưa
hề vân du đến xứ khác, cũng không thấy ghi ghép
nào hay truyền tụng gì của dân gian nói rằng ngài
đã từng học cách chữa bệnh này từ ai khác. Qua
những chi tiết này, có thể xác định cách chữa bệnh
bằng thuyết pháp và nước lã do Đức sư Cố tự nghĩ
ra và thực hiện, thời gian đó vào khoảng năm 1822
Phật thầy Tây An tên thật là Đoàn Minh
Huyên, sinh năm 1807 tại Tòng Sơn, tổngAn Định,
huyện Vĩnh An, trấn Vĩnh Thanh (nay xã Mỹ An
Hưng A, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp). Trong
các tài liệu có liên quan đến Phật thầy Tây An mà
chúng tôi nghiên cứu, thì hầu hết đều thống nhất
ghi chép từ lúc ra đời cho đến năm 41 tuổi, không trở đi, cho đến năm 1840 đánh dấu mốc quan trọng
ai rõ Đoàn Minh Huyên sinh trưởng thế nào, có
hoạt động gì, chỉ biết khi năm 1849, ông trở lại quê
cũ làng Tòng Sơn. Từ đó dân làng mới tìm hiểu và
biết được trước khi về đây, ông đã đi khắp các tỉnh
Gò Công, Bến Tre, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau,
Rạch Giá, An Giang và đến Thất Sơn. Sau khi trở
về quê hương, ông sống cô độc, nghèo nàn, tạm
trú dưới mái hiên ngôi đình làng. Thái độ của ông
khác thường, như ngây như tỉnh, lời nói hư hư thực
thực, hành động có vẻ bí hiểm khó hiểu. Cũng trong
năm ấy, nạn dịch tả hoành hành dữ dội, người chết
như rạ, dân làng lo sợ, Hương chức trong làng lo
lập đàn cúng vái ôn thần và tống gió. Nhưng Đoàn
Minh Huyên bác bỏ, cho rằng đó là điều mê tín dị
đoan, cho nên ông bị Hương chức đuổi khỏi mái
hiên đình. Sau khi từ giã dân làng và họ hàng, ông
đi đến nhiều nơi khác, vừa giảng đạo khuyến tu,
vừa chữa bệnh cứu người. Theo truyền miệng dân
chúng, ông chỉ dùng nước lạnh, giấy vàng mà ngăn
được dịch tả đang hoành hành khắp vùng này một
cách lạ kỳ, khiến dân chúng vô cùng thán phục. Từ
đó, họ đồn đãi rằng ông là Phật thầy giáng phàm cứu
dân. Dân chúng các vùng chung quanh kéo đến, ông
vừa trị bệnh cho họ vừa giảng về đạo Phật, khuyến
khích họ tu hành. Cũng vào năm 1949, tại cốc Ông
Đạo Kiến (xã Long Giang, huyện Chợ Mới) ông
phái sinh ra đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, tôn giáo bản
địa đầu tiên ở Nam Bộ [1, tr. 25-30].
vì ngài cũng chữa bệnh cho phu nhân quan Tổng
trấn An Giang theo cách riêng của mình. Trong
sách sử và các tài liệu lưu hành nội bộ viết về Phật
thầy Tây An thì mãi đến năm 1849, hành trạng của
ông mới được ghi chép rõ ràng, đặc biệt có đề cập
nhiều đến cách chữa bệnh tương tự như Đức sư
Cố từng thực hiện. Những chi tiết này đồng nghĩa
với việc Đức sư Cố đã chữa bệnh cứu người theo
cách thuyết pháp và dùng nước lã trước khi Phật
thầy Tây An chữa bệnh và khai đạo. Hơn nữa tại
quê hương, Đức sư Cố vừa chữa bệnh vừa dạy dân
chúng lo tu hành và nhắc họ đừng quên bổn phận
với quê hương đất nước. Hoạt động này cũng lặp
lại khi Phật thầy bắt đầu chữa bệnh và khuyến tu
cho bá tánh vào năm 1949.
Theo ghi chép của chùa An Long, 15 năm
sau khi chùa An Long được đặt danh hiệu (1837)
là thời gian đánh dấu cơ duyên gặp gỡ giữa Đức
sư Cố và Đoàn Minh Huyên, trùng hợp là trong
Sấm giảng cũng có ghi một dòng ngắn ngủi về sự
kiện này, nhưng cũng đủ khẳng định cuộc gặp gỡ
này là có thật:
“Rùng rùng thiên hạ tới lui
Về chùa Sư Nhựt ở rày hôm mai” [2, tr. 61].
Tuy trong Sấm giảng không nói thêm gì nhiều
nhưng bản thảo lưu giữ tại chùa An Long lại có
miêu tả sơ lược tính chất của cuộc gặp gỡ này như
Trình bày đến đây, chúng tôi nhận thấy nhiều sau: “Lúc đàm thoại, Đức Phật thầy Tây An xưng
điểm quan trọng cần lý giải: theo tiểu sử thì Đức
sư Cố ra đời năm 1802, lớn hơn Đoàn Minh Huyên
hô danh nghĩa với Đức sư Cố bằng “Ngài” và tỏ ra
ái mộ sự tu hành trên nền tảng Chánh pháp. Đức
98
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 40 (10-2019)
2.3. Một số nhận định
Phật thầy có ký thác một tượng Phật A-di-đà bằng
đồng cho nhà chùa trước khi rời đi” [7, tr. 3]. Nếu
đây đúng thật là năm 1837, lúc đó Đức sư Cố 35
tuổi còn Đoàn Minh Huyên 30 tuổi thì lúc này ông
vẫn chưa thuyết pháp và chữa bệnh cứu người, nên
không thể có danh xưng Phật thầy, hoặc giả nếu
ông đã là Phật thầy nổi danh vang dội thì đáng lẽ
ra ghi chép phải miêu tả ngược lại là “Đức sư Cố
phải kính cẩn và ái mộ Phật thầy mới đúng” bởi
vì danh xưng Phật thầy Tây An là một hình thái
vô cùng tôn quý, được mọi người rất mực ngưỡng
mộ. Do vậy, chúng tôi phỏng đoán Đoàn Minh
Huyên vào thời điểm này đơn giản là một tín đồ
ái mộ danh tiếng của Đức sư Cố nên ghé thăm với
mục đích gặp gỡ và đàm đạo với ngài mà thôi. Chi
tiết Đoàn Minh Huyên gọi Đức sư Cố là “Ngài”
càng chứng tỏ Đức sư Cố là một người được ông
đặc biệt coi trọng và mến mộ. Đối với ông, Đức
sư Cố không đơn giản là một vị tu sĩ lớn tuổi hơn
mình mà còn là một vị chân tu với tư tưởng và
cách hành đạo cao thâm rất đáng học hỏi. Có thể
trong khoảng thời gian ở lại chùaAn Long và đàm
đạo với Đức sư Cố, Đoàn Minh Huyên đã tận mắt
chứng kiến cảnh chữa bệnh cứu người huyền diệu
của ngài, cũng như chứng kiến việc Đức sư Cố
dạy dân chúng tu hành, làm điều thiện và hết lòng
khuyên nhủ Phật tử đừng quên mình phải có bổn
phận với quê hương, đất nước. Phải chăng những
tác động chân thực đó tạo tiền đề để Đoàn Minh
Huyên khởi phát nhiều điều chuẩn bị hoàn thiện
con đường hành đạo riêng của mình. Rất rõ ràng
sau này khi Đoàn Minh Huyên bắt đầu trị bệnh,
cách cứu chữa lặp lại y như khuôn mẫu của Đức sư
Cố lúc trước nên chúng tôi càng tin tưởng vào giả
thuyết có một nhân vật trước cả Phật thầy Tây An
đã sử dụng phương pháp chữa bệnh bằng thuyết
pháp và nước lã, hướng dẫn dân chúng tu hành và
khuyến dạy đạo đức cho họ phải có bổn phận với
quê hương, đất nước tạo nên căn gốc học Phật tu
Nhân của giáo lý Bửu Sơn Kỳ Hương. Tóm lại,
qua những phân tích và lý lẽ trình bày phía trên,
Qua những nội dung đã trình bày, chúng tôi
tạm đưa ra một số nhận định sau đây:
Thứ nhất, giai thoại về Đức sư Cố góp phần
chứng minh sự phát triển của đạo Phật thời bấy giờ
tại khu vực xã Kiến An trên cù lao Ông Chưởng,
đồng thời cũng đánh dấu thời kỳ đầu manh nha
hiện tượng ông Đạo đặc trưng ở Nam Bộ. Do vậy,
chúng tôi thấy hoạt động của Đức sư Cố có phần
liên quan đến Phật giáo, có phần mang đặc điểm
của một “ông đạo” dân gian thời kỳ đầu, tuy nhiên
yếu tố Phật giáo vẫn lấn át hơn, Đức sư Cố vẫn là
một vị hòa thượng lập nhiều công đức hơn là một
ông Đạo dù có chút ít đặc điểm tương đồng với
hàng ngũ ông Đạo như dùng nước lã và thuật ngữ
để trị bệnh.
Thứ hai, nguyên nhân khiến cho tiếng tăm của
Đức sư Cố bị phai mờ là do sự nổi tiếng của Phật
thầy TâyAn lấn át danh tiếng của ngài. Đoàn Minh
Huyên dù (có thể là không) học tập và ngộ ra chân
lý về sự hành đạo từ Đức sư Cố nhưng vì bản thân
Đức sư Cố không hề đưa ra một triết thuyết riêng
để rao giảng, kêu gọi quần chúng còn Phật thầy thì
có. Đoàn Minh Huyên khai sinh đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương vô cùng hợp thời với rất nhiều hành động
thiết thực như chiêu mộ tín đồ, thu nhận đệ tử là
những nhân vật có hào khí anh hùng, nghĩa cử cao
đẹp như Quản cơ Trần Văn Thành, Đình Tây, Tăng
Chủ… trong khi không khí chống Pháp đang sôi
sục tại vùng Thất Sơn. Ngoài ra, Đoàn Minh Huyên
còn có đầu óc chiến lược khi lập các trại ruộng,
đánh vào tâm lý người nông dân cần đất canh tác
sản xuất, ổn định đời sống và an tâm tu hành, hơn
nữa không gian lại vươn đến miền Thất Sơn vốn
dĩ mang màu sắc linh dị, tôn giáo của ông có điều
kiện thuận lợi hòa nhập và thấm sâu vào đời sống
tinh thần của người dân nên rất được coi trọng. Từ
tôn giáo này lần lượt xuất hiện hai tôn giáo khác là
Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật giáo Hòa Hảo mà lượng
tín đồ của Phật giáo Hòa Hảo ngày càng lớn và áp
chúng tôi có thêm chứng cớ để khẳng định Đức đảo (đặc biệt là ở cù lao Phú Tân, rất gần với cù
sư Cố Hà Minh Nhựt chính là nhân vật chủ chốt lao Ông Chưởng) cho đến ngày nay. Do vậy, khi
truyền giao tư tưởng nền tảng chánh pháp sơ khởi
để Đoàn Minh Huyên phát khởi một tôn giáo cứu
thế rộng khắp vùng Thất Sơn của tỉnh An Giang.
truy nguyên về nguồn gốc thì Đoàn Minh Huyên
được xem là ông tổ của cả 3 đạo này, tiểu sử và
hành trạng của ông theo đó mà được ghi chép tường
99
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 40 (10-2019)
tận, tín đồ khắp nơi đều biết. Trái lại, Đức sư Cố Giang biết đến. Bên cạnh đó, Đức sư Cố có thể là
vốn gốc Phật tử, là trụ trì của một ngôi chùa làng, nhân vật kết nối, dẫn dắt Đoàn Minh Huyên tìm ra
không tranh đua với đời, không vân du xa xôi mà hướng đi trong con đường sáng lập đạo Bửu Sơn
chỉ hành đạo trong một khu vực hạn chế, co cụm Kỳ Hương sau này, ở một chừng mực nào đó, “vị
về mặt không gian địa lý và cũng không phái sinh sư Nhựt” mà Sấm giảng nhắc tới phải được tín đồ
một tôn giáo riêng trong thời buổi loạn lạc, tiểu sử Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và Phật
mặc dù có ghi chép lại nhưng không được truyền giáo Hòa Hảo biết đến. Suy cho cùng, mặc dù cứ
bá rộng rãi nên dần dần hình ảnh của Đức sư Cố liệu lịch sử không nhiều, nguồn tư liệu văn hóa dân
chìm vào quá khứ trước cái bóng quá lớn của Phật gian cũng có đôi chỗ chưa thật sự hợp lý, vì tiểu
thầy Tây An. Người địa phương biết đến ông vì lẽ sử của Đức sư Cố được bao phủ bởi giai thoại mà
gần gũi, người ở phương xa nghe tiếng ông cũng giai thoại lúc nào cũng ít nhiều xa rời với lịch sử.
chỉ ngờ ngợ trong Sấm giảng của Phật thầy có một Tuy nhiên, dựa vào những thông tin thu thập được
dòng duy nhất nhắc đến tên ông: “Ghé chùa sư Nhựt trong quá trình điền dã, chúng tôi đã có thể bước
ở rày hôm mai”! Tóm lại, về mối liên hệ giữa Đức đầu khẳng định về sự tồn tại độc lập của nhân vật
sư Cố và Phật thầy Tây An, chúng tôi chưa dám Đức sư Cố Hà Minh Nhựt trong lịch sử. Sự tồn tại
khẳng định mà chỉ tạm thời đưa ra giả thuyết Đức không thể phủ nhận của ngôi An Long cổ tự, sự
sư Cố chính là nhân vật trung tâm có tác động đến kính trọng và tận tâm chiêm bái của tín đồ trong
tư tưởng của Phật thầy TâyAn. Mọi bằng chứng đều khu vực cùng với sự lưu truyền về tiểu sử và những
khá ít và còn mơ hồ, cần phải nhờ các chuyên gia giai thoại liên quan đến Đức sư Cố Hà Minh Nhựt
có quan tâm tìm hiểu và tra định để tìm ra sự nhất chứng tỏ ngài là một nhân vật đặc biệt có tầm ảnh
quán, để một nhân vật quan trọng của địa phương hưởng lớn đến đời sống văn hóa của cư dân trong
không bị lịch sử lãng quên.
khu vực. Do vậy, chúng tôi hy vọng qua bài viết
này, nhân vật Đức sư Cố Hà Minh Nhựt sẽ được
lịch sử trân trọng và ghi nhận./.
3. Kết luận
Cuộc đời của Đức sư Cố Hà Minh Nhựt có liên
quan đến diện mạo văn hóa vùng đất cù lao Ông
Chưởng với những tính chất, đặc điểm rất đáng chú
ý, rất đáng được trân trọng. Trước hết, Đức sư Cố là
tấm gương của sự hiếu học, hiện thân của cái thiện,
góp phần hun đúc thêm cho tinh thần nhập thế của
Phật giáo. Đối với cuộc đời, ông hòa nhập vào dân
chúng, cứu chữa người bệnh, khuyên dạy họ vừa
tu hành vừa có bổn phận với quê hương đất nước,
tinh thần nhập thế ấy vốn là đặc trưng của các vị
thiền sư nước ta đã có từ rất lâu trong lịch sử, nay
như được hiển hiện trong con người của Đức sư
Cố - nhân vật xuất hiện vào đầu thế kỷ XIX. Chính
vì lẽ đó mà cho đến ngày nay, ngài vẫn là nhân vật
xứng đáng được người dân khu vực kính phục mỗi
khi nhắc đến và càng xứng đáng để người dân trên
toàn khu vực cù lao Ông Chưởng và cả tỉnh An
-------------
Chú thích:
(1) Chúng tôi đặt nghi vấn về số năm, theo ghi
khắc của cổng chùaAn Long thì chùa chính thức đặt
danh hiệu vào năm 1822, với lại nếu là năm 1810,
Đức sư Cố chỉ có 8 tuổi, e là chưa hợp lý, vì vậy
chúng tôi thống nhất đưa năm 1822 là năm dựng
thành chùa An Long và cũng là mốc thời gian Đức
sư Cố bắt đầu chữa bệnh cứu người.
(2) Chúng tôi cho rằng đây là 15 năm sau của
năm 1822 tức là năm 1837, lúc này Đoàn Minh
Huyên chưa nổi danh, chưa được gọi là Phật thầy
Tây An. Do đây là văn bản ghi chép lại, nên chiếu
theo cách gọi của người đời sau, nếu đúng phải ghi
là Đoàn Minh Huyên.
Tài liệu tham khảo
[1]. Nguyễn Văn Hầu (Biên khảo, phiên âm, chú thích) (1973), Sấm truyền Đức Phật thầy Tây
An (Bản điện tử), Ban Quản tự Tòng Sơn cổ tự và Ban Chẩn tế Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo xuất bản.
[2]. Nguyễn Văn Hầu (phiên âm, viết tựa), Nguyễn Hữu Hiệp (sưu tầm, chú thích) (1974), Bửu Sơn
Kỳ Hương - Tiền giảng Đức Phật thầy Tây An (Bản điện tử), Diễm Chi xuất bản, Châu Đốc.
100
TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP
Tap chí Khoa hoc so 40 (10-2019)
[3]. Nguyễn Văn Hầu, (2000), Nửa tháng trong miền Thất Sơn, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
[4]. Nguyễn Hữu Hiệp (2007), An Giang, đặc trưng vùng đất bán sơn địa, NXB Phương Đông,
An Giang.
[5]. Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa, NXB Tôn giáo, Hà Nội.
[6]. Sơn Nam (2009), Tìm hiểu đất Hậu Giang và lịch sử đất An Giang, NXB Trẻ, Thành phố Hồ
Chí Minh.
[7]. Nhiều tác giả, Tiểu sử Đức sư Cố An Long cổ tự (bản in), lưu hành nội bộ.
[8]. Tạ Chí Đại Trường (2006), Thần Người và Đất Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
[9]. Ủy ban Nhân dân tỉnh An Giang (2013), Địa chí An Giang, Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy An Giang
xuất bản, An Giang.
[10]. Lê Thu Vân (2015), “Nhật ký điền dã của tác giả, phỏng vấn năm 2015”.
A STUDY ON THE GRAND MONK HA MINH NHUT
Summary
Ong Chuong islet in Cho Moi district, An Giang province has its developmental history of
almost 320 years (1700 - 2019) with many unique cultural aspects. One of them is the anecdotes about
historical figures. On its first days of residence, the celebrated Nguyen Huu Canh was a highly influential
figure all over Ong Chuong islet. Later in the first half of the 19th century, in the small area of Kien An
commune, there was another figure revered and respectedly called The Grand Monk Ha Minh Nhut by
the local people. His life, merit and relationship with the head of Buu Son Ky Huong religion contain
many sensational, interesting things that reflect relatively clearly the lifestyle, customs, beliefs, religion
and so on of the local residence, but unfortunately these were not recorded in writing to pass on to their
descendants. Therefore, in this article, we will give a brief presentation on biography and clarify the
mysteries in the life of The Grand Monk Ha Minh Nhut, and at the same time explain his role in the
relationship with The Buddhist Master Tay An Doan Minh Huyen, as such contributing to providing
precise information about a cultural-historical character for the local resource of An Giang province.
Keywords: The Grand Monk, Ha Minh Nhut, The Buddhist Master Tay An, Buu Son Ky Huong,
An Long Pagoda.
Ngày nhận bài: 21/6/2019; Ngày nhận lại: 14/10/2019; Ngày duyệt đăng: 16/10/2019.
101
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu nhân vật Đức Sư Cố Hà Minh Nhựt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tim_hieu_nhan_vat_duc_su_co_ha_minh_nhut.pdf