Thực trạng công tác tổ chức, quản lý hoạt động văn hóa cộng đồng ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa

NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
THỰC TRẠNG CÔNG TÁC TỔ CHỨC, QUẢN LÝ HOẠT ĐỘNG  
VĂN HÓA CỘNG ĐỒNG Ở CÁC HUYỆN MIỀN NÚI  
TỈNH THANH HÓA  
PGS.GVCC.TS Nguyễn Thị Thúy1  
ThS. Nguyễn Thị Thủy2  
Tóm tắt: Miền núi xứ Thanh với 11 huyện là khu vực rộng lớn chiếm ¾ diện tích toàn  
tỉnh và 1/3 dân số toàn tỉnh với 7 dân tộc thiểu số sinh sống; mật độ dân cư khá thưa thớt; đời  
sống kinh tế còn nhiều khó khăn; trình độ dân trí đang còn hạn chế. Với những đặc trưng  
riêng trong các phong tục, tập quán, lễ hội, dân ca, trò chơi... ở các huyện miền núi phong  
phú. Trong những năm gần đây hoạt động văn hóa cộng đồng này đã được quan tâm tuy  
nhiên chưa đem lại hiệu quả cao.  
Từ khóa: Công tác tổ chức; văn hóa cộng đồng; huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa.  
1. Vài nét về các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa  
Miền núi Thanh Hóa gồm 11 huyện: Như Thanh, Như Xuân, Thường Xuân, Ngọc Lặc,  
Cẩm Thủy, Thạch Thành, Lang Chánh, Bá Thước, Quan Hóa, Quan Sơn, Mường Lát với 196  
xã, thị trấn. Trong đó, khu vực miền núi chiếm ¾ diện tích toàn tỉnh và là địa bàn cư trú chủ  
yếu của đồng bào các dân tộc như Mường, Thái, Mông, Dao, Thổ, Khơ mú, Kinh... thuộc các  
nhóm ngôn ngữ: Việt - Mường, Môn - Khơ Me, Thái - Tày, Mông - Dao.  
Bảng 1.1: Dân số các tộc người thiểu số ở miền núi Thanh Hóa  
(Nguồn: Số liệu của Ban Dân tộc Thanh Hóa năm 2014)  
Dân tộc  
TT  
Huyện  
Mường  
681  
Thái  
Thổ  
Hmông  
11.562  
1.444  
832  
Dao  
546  
Khơ mú  
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Mường Lát  
Quan Hóa  
Quan Sơn  
13.621  
26.719  
27.321  
31.444  
22.578  
246  
642  
9.618  
1.046  
Bá Thước  
49.958  
13.087  
83.927  
3.075  
7
9
8
Lang Chánh  
Ngọc Lặc  
1.246  
1
Thường Xuân  
Như Xuân  
Như Thanh  
47.496  
22.505  
12.204  
12.260  
25  
10  
2
3.568  
9.251  
189  
17.259  
56.306  
68.342  
10 Cẩm Thuỷ  
11 Thạch Thành  
Tổng cộng  
3.213  
17  
2
14  
987.186 487.148 217.251 870.006  
576.459  
642  
1 Trường Đại học Hồng Đức  
2 Khoa Văn hóa - Thông tin, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa  
87  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Vùng này có vị trí địa lý độc đáo, phía Tây là nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào  
mà ranh giới tự nhiên phần lớn chạy qua những đỉnh núi cao trên 1000 m, phía Bắc là các tỉnh  
Sơn La, Hòa Bình, Ninh Bình, phía Nam là tỉnh Nghệ An, phía Đông là vùng đồng bằng và  
duyên hải.  
Đặc điểm địa hình rất đa dạng: có cảnh đồi núi thấy được phân bố trên một diện tích khá  
rộng thuộc các huyện Thường Xuân, Lang Chánh; cảnh địa hình đồi thấp xen bán bình  
nguyên cổ và thung lũng rộng tại các xã Minh Sơn, Ngọc Sơn, Ngọc Liên, Quang Trung….  
(huyện Ngọc Lặc) và Cẩm Châu, Cẩm Vân, Cẩm Tân (huyện Cẩm Thủy); cảnh thung lũng  
sông Âm tại Phùng Giáo (Ngọc Lặc), thung lũng sông Mã rộng lớn tại Bá Thước - Cẩm Thủy,  
thung lũng sông Luồng, thung lũng Nậm Kiệt…  
Các tộc người sống xen cài với nhau nhưng lại thuộc các vùng sinh thái tự nhiên khác  
nhau: Mường, Thái ở thung lũng, Thổ, Khơ Mú ở rẻo cao…, Mông ở sườn núi cao.  
Đây là vùng văn hóa đa tộc người, tuy nhiên trong đó tộc người Thái và Mường là tộc  
người chủ thể vùng, có số dân đông. Những nơi trung tâm cư trú của người Mường thì văn  
hóa Mường ảnh hưởng mạnh tới văn hóa Thái và ngược lại, những bộ phận nhỏ người Mường  
sống xen cư với Thái thì văn hóa Thái trở thành yếu tố chủ đạo. Do vậy, trong miền núi  
Thanh Hóa nổi trội sắc thái văn hóa Mường và văn hóa Thái.  
Đây là khu vực còn rất nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống văn hóa, giáo dục, y tế có  
nhiều hạn chế và cũng là những địa bàn khá phong phú về loại hình hoạt động văn hóa cộng  
đồng. Vì vậy, việc tổ chức cũng như quản lý các hoạt động văn hóa cộng đồng để bảo tồn,  
phát huy bản sắc dân tộc và bảo đảm an toàn xã hội ở những vùng như vậy là nhiệm vụ hoàn  
toàn không đơn giản.  
2. Vai trò của người dân và các hoạt động quản tổ chức văn hóa cộng đồng các  
huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa  
Người dân có vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quản lý, tổ chức văn hóa cộng  
đồng. Trong các hoạt động quản lý, tổ chức văn hóa cộng đồng nơi đây đều triển khai cho  
dân, người dân sẽ phối hợp cùng thực hiện.  
Trong quá trình tổ chức các hoạt động đều có sự tham gia, có sự giám sát, điều chỉnh  
của cộng đồng dân cư. Như đối với lễ hội, những nghi thức, nghi lễ chưa đúng sẽ được cộng  
đồng góp ý điều chỉnh, những thủ tục còn thiếu sẽ được bổ sung, từ đó các giá trị văn hoá  
truyền thống trong lễ hội được cộng đồng bảo tồn, gìn giữ.  
Vai trò của cộng đồng dân cư trong quản lý, tổ chức đã được chứng minh qua quá trình  
lịch sử. Việc đề cao vai trò của cộng đồng, của nhân dân địa phương trong tổ chức và quản lý  
văn hóa cộng đồng, đặc biệt đối với các lễ hội dân gian là hết sức cần thiết. Cộng đồng cần  
được tạo điều kiện tốt nhất để tham gia tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng ở địa  
phương mình, từ đó có điều kiện phát huy bản sắc, đặc trưng văn hóa, góp phần giới thiệu,  
quảng bá những nét đẹp về vùng đất, con người địa phương.  
88  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Sơ đồ1: Phân cấp quản lý, tổ chức các hoạt động văn hóa cộng đồng tại các xã  
miền núi tỉnh Thanh Hóa  
UBND TỈNH THANH HÓA  
Sở VH, TT&DL  
UBNDhuyện  
Phòng Văn hóa - Thông tin  
huyện  
UBND xã  
Ban Văn hóa - Xã hội xã  
- Tổ chức hoạt động thông tin tuyên truyền  
- Quản lý hoạt động tín ngưỡng lễ hội và giáo dục truyền thống.  
- Quản lý, tổ chức hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa  
cộng đồng.  
- Tổ chức hoạt động của các thiết chế nhà văn hóa cộng đồng.  
- Quản lý, tổ chức hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa cộng  
đồng, festival hoa, hội chợ thương mại, du lịch cộng đồng,  
karaoke, dịch vụ inetnet.  
Hoạt động quản lý được thực hiện theo các chính sách, chủ trương, thông tư triển khai  
các cấp từ trung ương đến tỉnh Thanh Hóa, ở các huyện miền núi cụ thể trên các lĩnh vực  
tuyên truyền cổ động; giáo dục truyền thống, tín ngưỡng lễ hội trong cộng đồng; Xây dựng  
nếp sống văn hóa cộng đồng; Tổ chức hoạt động của các thiết chế nhà văn hóa; quản lý, tổ  
chức hoạt động kinh doanh dịch vụ văn hóa cộng đồng như festival hoa, hội chợ thương mại,  
du lịch cộng đồng...  
3. Thực trạng tổ chức, quản lý hoạt động văn hóa cộng đồng ở các huyện miền núi  
tỉnh Thanh Hóa  
3.1. Tổ chức, quản lý hoạt động thông tin, tuyên truyền  
Công tác thông tin, tuyên truyền ở các huyện miền núi thời gian qua được Đảng ủy, Ủy  
ban Nhân dân, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội huyện, xã quan tâm chú trọng, đã  
và đang thực hiện bằng nhiều hình thức góp phần truyền tải những chủ trương, quy định của  
Đảng, Nhà nước đến với nhân dân.  
89  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Vic phbiến, quán trit và tchc thc hin nghquyết các cấp được tchc  
nghiêm túc, đảm bo vni dung, nhn thc, trách nhim ca các cp ủy đảng, chính quyn,  
các ban, ngành, cán bộ, đảng viên và các tng lớp nhân dân đối vi công tác giảm nghèo đã có  
schuyn biến tích cc, to sự đồng thuận cao. Trên cơ sở tiềm năng, thế mnh của địa  
phương, các huyện đã la chọn được ni dung, giải pháp đột phá phù hợp để tchc thc  
hin. Kết quphát trin kinh tế - xã hi và thc hin công tác gim nghèo các huyn min  
núi bước đầu đã có sự chuyn biến rõ nét. Các huyn min núi đời sng vt cht, tinh thn ca  
đng bào các dân tc thiu số ngày càng được nâng lên. Đặc bit, tnh Thanh Hóa đẩy mnh  
công tác kết nghĩa, hợp tác gia các huyn min xuôi và các huyn min núi.  
Thông qua các hoạt động văn hóa nhằm chuyển tải chủ trương của Đảng, chính sách,  
pháp luật của Nhà nước về phát triển kinh tế, nhất là các chương trình, dự án phát triển kinh tế  
miền núi đã và đang được triển khai thực hiện; những thành tựu đạt được trong phát triển kinh  
tế, xây dựng các công trình giao thông, điện, thuỷ lợi, trường học, cơ sở y tế của tỉnh; đặc  
biệt, tuyên truyền để đồng bào các dân tộc vùng biên giới nhận thức rõ âm mưu "diễn biến  
hòa bình" bằng nhiều thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc lợi dụng vấn đề tôn giáo,  
dân tộc để xuyên tạc, lôi kéo, kích động, tìm mọi cách phá hoại đất nước ta, chia rẽ đoàn kết  
giữa các dân tộc, đi ngược lại lợi ích của nhân dân; tuyên truyền đồng bào không di cư tự do,  
không truyền đạo trái phép; tích cực tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm, nhất là tội  
phạm ma túy và buôn bán người.  
Giáo dục nâng cao tinh thần cảnh giác, đấu tranh với những thủ đoạn "ru ngủ" thông  
qua các hoạt động nhân đạo từ thiện, sự xâm nhập của văn hóa nước ngoài nhằm phá hoại an  
ninh và bản sắc văn hóa dân tộc, nhất là ở các bản người Mông (huyện Mường Lát) là một  
trong những nhiệm vụ và nội dung tuyên truyền trọng tâm và thường xuyên ở nơi đây. Do đó,  
các xã đã chỉ đạo tập trung tuyên truyền về bảo tồn và phát huy truyền thống văn hóa, phong  
tục tốt đẹp của đồng bào các dân tộc, những giá trị di sản văn hóa vật thể (nhà sàn, di tích,...)  
và phi vật thể (tri thức dân gian về lao động sản xuất, ẩm thực, chữa bệnh của người Thái,  
người Mông, người Dao; tiếng nói và các làn điệu hát ru,...); về xây dựng đời sống văn hoá ở  
bản, làng.  
Lực lượng chuyên trách và cộng tác viên làm công tác tuyên truyền đa số chưa có  
chuyên môn nghiệp vụ và chưa thường xuyên được đào tạo tại các lớp tập huấn, lại phải kiêm  
nhiệm nên việc tập trung và phát huy khả năng chuyên môn, nghiệp vụ còn những hạn chế  
nhất định trong việc đáp ứng với tình hình phát triển của đất nước.  
Cơ sở vật chất, trang thiết bị chuyên dùng trong công tác tuyên truyền vẫn còn thiếu, cũ,  
hư hỏng và lạc hậu, kinh phí hỗ trợ còn nhiều hạn hẹp chưa đáp ứng với yêu cầu tình hình  
hiện nay. Loa phát thanh chưa đầy đủ. Vì vậy, việc tuyên truyền càng khó khăn hơn.  
Công tác xã hội hóa hoạt động tuyên truyền tuy được các cấp, các ngành quan tâm  
nhưng chưa được đầu tư thỏa đáng, chưa có sự kết hợp hài hòa giữa công tác tuyên truyền với  
các hoạt động kinh doanh sinh lời khác nhằm đẩy mạnh tiến trình xã hội hóa hoạt động tuyên  
truyền. Hơn nữa kinh phí đầu tư cho công tác tuyên truyền còn thấp, chưa đáp ứng được nhu  
cầu hiện nay.  
90  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
Ở các huyện miền núi, một số bản còn chưa có điện, đường giao thông đi lại rất khó  
khăn, dân trí còn hạn chế. Vì vậy, công tác tuyên truyền cổ động vất vả, hiệu quả còn chưa  
cao, chủ trương chính sách, thông tin đến cộng đồng còn chậm và chưa kịp thời. Vì vậy, hiệu  
quản hoạt động văn hóa cộng đồng chưa cao.  
3.2. Tổ chức, quản lý hoạt động tín ngưỡng lễ hội trong cộng đồng và giáo dục  
truyền thống  
Các lễ hội dân gian vùng dân tộc sau nhiều năm bị mai một đã từng bước được phục  
dựng nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa vùng miền, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa  
tâm linh lành mạnh của người dân, từng bước quảng bá, khai thác phục vụ phát triển du lịch,  
thúc đẩy sinh hoạt cộng đồng.  
Về lễ hội: Dân tộc Mường có lễ hội Pồn Pôông, Khai Hạ, lễ tục Làm vía kéo Xi, lễ  
Mừng cơm mới, Sắc bùa; Dân tộc Thái có lễ hội Kin chiêng boọc mạy; lễ hội Nàng Han; lễ  
hội Mường Khô; lễ hội Mường Ca Da, lễ hội Mường Piềng Muốp; lễ hội Mường Xia; lễ Cầu  
nước; lễ hội Căm mương; Dân tộc Thổ có lễ hội Đình Thi; Dân tộc Dao có lễ Cấp Sắc, Tết  
nhảy; Dân tộc Khơ Mú lễ Xên; Dân tộc Mông có lễ hội Tén Tằn …  
Về dân ca, dân vũ, nhạc cụ: Dân tộc Thái có khặp giao duyên, hát ru; nhạc cụ: khua  
luống, khèn bè, boong bu, sáo, trống chiêng, pí mốt; múa cá sa, múa trống chiêng, múa chá  
chiêng...; Dân tộc Thổ có hát trống chiêng, hát đối đáp, hát ru, hát giao duyên, hát chậm đò  
ho...; múa giã cồn, chậm đò ho...; Dân tộc Mông có múa ô, múa khèn, hát gâu plềnh...; nhạc  
cụ: sáo, khèn bè, đàn môi, khèn lá...; hát gầu, hát giao duyên; Dân tộc Dao có hát giao duyên,  
hát ru, hát chào hỏi- đối đáp; hát pả dung; múa chuông, múa rùa, hát múa trong nghi lễ; nhạc  
cụ: não bạt..; Dân tộc Khơ Mú có hát tơm; Dân tộc Mường có hát ru, hát giao duyên (xường  
trai gái), hát séc bùa, hát nghi lễ, diễn xướng mo Mường, múa Pồn pôông; nhạc cụ: cồng  
chiêng... đã bước đầu được khai thác và tham gia vào ngày hội văn hóa các dân tộc thiểu số  
toàn tỉnh hai năm tổ chức một lần, và các sinh hoạt cộng đồng tại các làng, bản. Các lễ hội  
được tổ chức quy , trang trọng về phần lễ, văn minh phần hội nhưng vẫn đảm bảo tính linh  
thiêng, truyền thống. Nhiều nghi thức lễ hội truyền thống được phục dựng, góp phần giữ gìn  
và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Các hoạt động văn hóa, trò chơi dân gian như thi đấu cờ  
người, bịt mắt đánh trống, đập niêu, kéo co, đẩy gậy, tung còn, múa Pồn pôông... được tổ  
chức đáp ứng đời sống tinh thần của nhân dân. Bên cạnh đó, các lễ hội đều đảm bảo an ninh  
trật tự, bố trí bãi đỗ xe hợp lý, tổ chức trông giữ phương tiện cho du khách... Tuy nhiên, nhìn  
dưới góc độ lễ hội dân gian của các dân tộc thiểu số được tổ chức hàng năm còn quá khiêm  
tốn, trong số 500 lễ hội được tổ chức ở Thanh Hóa, các dân tộc thiểu số chỉ có chừng 30 lễ hội  
(chưa được 10%). Thực tế này khiến chúng ta phải suy ngẫm và đặt ra câu hỏi.  
Lễ hội đã tạo được dấu ấn mạnh mẽ, đồng thời cổ vũ cho các hoạt động văn hóa - văn  
nghệ, thể dục - thể thao ở miền núi ngày phát triển. Những năm qua, các huyện miền núi đã  
rất nhiệt tình, sôi nổi trong công tác tập luyện và mang đến cho lễ hội những nhân tố mới, chất  
lượng phù hợp với tiêu chí các nội dung thi đấu, nhất là các nội dung liên quan đến văn hóa,  
lễ hội mang đậm bản sắc truyền thống của đồng bào trên toàn tỉnh. Lễ hội được xem là sự  
kiện chung quan trọng của đồng bào vùng cao, có tác động và tạo sự lan tỏa rộng khắp, toàn  
91  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
diện trong cộng đồng. Đây cũng là dịp tập hợp mọi tầng lớp nhân dân miền núi tham gia hoạt  
động văn hóa - thể thao ý nghĩa, góp phần rèn luyện và nâng cao sức khỏe, cũng như giới  
thiệu, quảng bá, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc trong cộng đồng  
các huyện miền núi của tỉnh Thanh.  
3.3. Tổ chức, quản lý hoạt động xây dựng nếp sống văn hóa cộng đồng  
Hàng năm, Ban Thường vụ huyện ủy các huyện miền núi đã chỉ đạo tất cả các ngành,  
đoàn thể, cơ quan, đơn vị và địa phương xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực  
hiện Chỉ thị 27. Một số địa phương đã xây dựng và ban hành các văn bản, đề án lành mạnh  
hóa việc cưới, việc tang, lễ hội gắn với xây dựng làng, bản văn hóa. Đồng thời, các huyện đã  
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện nếp sống văn hóa gắn với việc  
thực hiện phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; phong trào xây dựng  
thôn, làng, cơ quan, đơn vị văn hóa... Ngoài ra, phòng Văn hóa - Thông tin đã xây dựng kế  
hoạch cụ thể theo từng giai đoạn để nhân dân triển khai; phối hợp với phòng Tư pháp hướng  
dẫn các địa phương xây dựng và chỉnh sửa quy ước, hương ước thôn, bản phù hợp với tiêu chí  
xây dựng nông thôn mới; lấy các nội quy làm cơ sở tiêu chuẩn bình xét các danh hiệu gia đình  
văn hóa, làng văn hóa; tổ chức cho nhân dân đăng ký, ký cam kết thực hiện nếp sống văn  
minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Nhờ đó, hình thành môi trường văn hóa lành mạnh,  
phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện kinh tế của mỗi gia đình và các giá trị văn hóa truyền thống  
của địa phương.  
Thông qua công tác tuyên truyền, vận động, việc cưới đã được tổ chức văn minh, lịch  
sự, tiết kiệm, phù hợp với hoàn cảnh, điều kiện thực tế của từng gia đình; giảm tình trạng tảo  
hôn, ép cưới. Nam nữ đều tự nguyện kết hôn, cùng nhau thực hiện tốt Luật Hôn nhân gia  
đình. Một số hủ tục lạc hậu, nghi thức thách cưới rườm rà đã được loại bỏ, người dân tự giác  
tổ chức cưới lành mạnh không ăn uống linh đình, mở loa đài quá công suất, đơn giản nhưng  
vẫn giữ bản sắc dân tộc. Một số vùng đồng bào dân tộc như Mường - Dao đã bỏ hẳn lễ thách  
cưới, không tổ chức ăn uống dài ngày gây lãng phí thời gian và tiền của. Điển hình như xã  
Cẩm Phú, Cẩm Bình, Cẩm Quý, Cẩm Châu, Cẩm Tâm trước đây dân tộc Mường từ khi ăn hỏi  
đến khi thách cưới phải sắm đủ lễ vật cho nhà gái (trị giá ước tính hàng chục triệu đồng) nay  
chỉ còn khoảng vài trăm ngàn đồng cho việc sắm lễ vật, các thủ tục gọn nhẹ không còn rườm  
rà như trước. Cẩm Vân đã triển khai khắp các thôn việc không tổ chức ăn uống đông người,  
không hút thuốc lá tại các đám cưới, nhiều thôn đám cưới được tổ chức theo nếp sống mới tại  
nhà văn hoá thôn do đoàn Thanh niên đứng ra tổ chức.  
Về tổ chức lễ hội được thực hiện theo hướng vừa văn minh, vừa giữ gìn và phát huy bản  
sắc văn hóa dân tộc. Trong lễ hội chú trọng phần lễ nhằm tôn vinh các anh hùng dân tộc,  
thành hoàng làng, qua đó giáo dục truyền thống đoàn kết, xây dựng, bảo vệ đất nước cho nhân  
dân. Phần hội được tổ chức vui tươi, lành mạnh, kết hợp biểu diễn văn hóa, văn nghệ với tổ  
chức các trò chơi dân gian, thi đấu các môn thể thao, như: kéo co, đẩy gậy, ném còn, chơi  
đu...; không có hiện tượng lợi dụng lễ hội để hoạt động mê tín dị đoan, bói toán.  
Để phong trào thực hiện nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang, lễ hội có sức lan  
tỏa, thời gian tới các huyện miền núi tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền nhằm tạo sự  
92  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
đồng thuận trong nhân dân về việc thực hiện nếp sống mới; sửa đổi, bổ sung hương ước, quy  
ước làng về nếp sống văn hóa nhằm điều chỉnh hành vi ứng xử của mỗi người dân; đồng thời  
bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Cùng với đó tập trung chỉ đạo, triển khai  
các giải pháp để nâng cao chất lượng hoạt động của phong trào xây dựng gia đình văn hóa,  
làng văn hóa; cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa.  
Các địa phương, thôn, bản cụ thể hóa nội dung tổ chức tang ma theo nếp sống mới trong  
quy ước, hương ước xây dựng làng, bản văn hóa, gia đình văn hóa. Do vậy, đã chuyển hóa  
nhận thức thành hành động và đạt được kết quả bước đầu.  
Đối với việc tang, các hủ tục được xóa bỏ triệt để, không còn tình trạng tổ chức ăn uống  
linh đình, gọi hồn, bắt vía, mở trống kèn quá công suất, quá giờ quy định, khóc mướn, rải tiền,  
vàng mã trên đường đi. Tiêu biểu như xã Lương Sơn, trước đây mỗi khi gia đình nào có người  
mất thì cả làng đến ăn cỗ linh đình trong 3 ngày, tình trạng khóc mướn, rải vàng mã diễn ra  
khá phổ biến. Nhưng nhờ cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể đẩy mạnh tuyên truyền, nên  
nhiều năm nay nhân dân đã tự giác tổ chức đám tang theo hình thức văn minh, tiết kiệm.  
Trong giai đoạn 2016 - 2020, mục tiêu là 100% số thôn, bản hoàn thành việc xây dựng  
nghĩa trang tập trung, có đường giao thông từ bản ra nghĩa trang, đám tang của đồng bào  
Mông thực hiện đúng quy định tại Thông tư 04/2011/TT-BVHTTDL và 100% số bản đạt  
danh hiệu bản văn hóa, gia đình văn hóa. Với nguồn kinh phí hơn 400 triệu đồng chủ yếu  
phân bổ cho công tác tuyên truyền cho nên khả năng nhân rộng thực hiện tang lễ theo nếp  
sống mới gặp khó khăn. Đáng nói là, việc không còn nguồn hỗ trợ gia đình có người quá cố  
mua quan tài và hỗ trợ 41 bản quy hoạch đất xây dựng, hoàn chỉnh nghĩa trang cho nên tục  
không quàn người quá cố vào quan tài, hung táng phân tán vẫn diễn ra ở nhiều bản có các  
dòng họ, số đông đồng bào Mông sinh sống ở vùng thượng du Thanh Hóa. Trong tổ chức tang  
lễ, số lượng đám tang thực hiện hỏa táng đang ngày càng tăng, hiện chiếm khoảng 10%. Năm  
2016, Chủ tịch UBND tỉnh đã ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ, khuyến khích sử dụng hình  
thức hỏa táng trên địa bàn tỉnh, nhờ đó hình thức hỏa táng ngày càng được các gia đình lựa  
chọn nhiều hơn. Các hủ tục lạc hậu, mê tín dị đoan trong việc tang ở vùng đồng bào dân tộc  
thiểu số ngày càng giảm đáng kể, tiêu biểu là ở c huyện Quan Sơn, Mường Lát... nhất là ở  
vùng đồng bào dân tộc Mông, với đề án “Tuyên truyền thực hiện nếp sống văn hóa trong tang  
lễ vùng đồng bào dân tộc Mông tỉnh Thanh Hóa đến năm 2020”.  
Có thể nói, những kết quả trong việc thực hiện nếp sống văn hoá, văn minh trong việc  
cưới, việc tang và lễ hội trên địa bàn một số huyện miền núi thời gian qua rất đáng ghi nhận.  
Với sự vào cuộc tích cực của các xã, thị trấn, sự tham gia ủng hộ của người dân, việc thực  
hiện nếp sống văn hoá, văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội đã đi vào chiều sâu, xây  
dựng đời sống tinh thần tốt đẹp hơn trong cộng đồng dân cư, góp phần thúc đẩy kinh tế - xã  
hội ở địa phương phát triển. Để việc thực hiện nếp sống văn hoá, văn minh ngày càng lan toả,  
tạo sự chuyển biến thực chất, rõ nét hơn trong các cơ quan, đơn vị, địa phương tiếp tục xây  
dựng chuẩn mực về nếp sống văn hoá, văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội tại thôn  
(làng, bản, khu phố), tổ dân và trong cộng đồng dân cư trên địa bàn toàn 11 huyện miền núi.  
93  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
3.4. Tổ chức, quản lý các thiết chế văn hóa cơ sở  
Hàng năm, Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch phối hợp các ngành chức năng của tỉnh  
thường xuyên tổ chức nhiều lớp tập huấn chuyên môn, định hướng nội dung nhằm không  
ngừng nâng cao chất lượng hoạt động của thiết chế văn hóa xã. Ở cấp huyện, Trung tâm Văn  
hóa Thông tin các huyện đã tổ chức nhiều hoạt động văn hóa thông tin phong phú, quy mô  
hoành tráng phục vụ nhân dân vào những dịp lễ hội, mừng Đảng, mừng Xuân, kỷ niệm các  
ngày lễ lớn. Bởi vậy chất lượng phong trào văn hóa văn nghệ, thể dục thể thao ở cơ sở từng  
bước được nâng lên.  
Từ ngày xây dựng nông thôn mới, cùng với sự hỗ trợ của nhà nước, xã, nhân dân cùng  
chung tay để xây dựng lại hệ thống thiết chế văn hóa đồng bộ, vừa có chỗ sinh hoạt văn hóa  
cộng đồng, tổ chức hội họp dân, vừa có sân bóng chuyền, bóng bàn, cầu lông... cho thanh  
niên, người cao tuổi, các cháu thiếu nhi vui chơi, giải trí. Những hoạt động này đã giúp cho  
người dân thêm gần gũi, gắn bó, tình làng, nghĩa xóm thêm bền chặt. Một trong những hiệu  
quả rõ nét là hoạt động của hệ thống thiết chế văn hóa truyền thống tại một số địa phương đã  
vừa đáp ứng nhu cầu sinh hoạt văn hóa tâm linh cho nhân dân, vừa góp phần giáo dục truyền  
thống lịch sử, truyền thống cách mạng, nâng cao ý thức bảo tồn, phát huy bản sắc văn hóa  
truyền thống các dân tộc.  
Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực đã đạt được thì vẫn còn không ít nhà văn hóa  
hoạt động kém hiệu quả, hoặc xây rồi bỏ không, thậm chí có thiết chế văn hóa nhưng lại  
không có trang thiết bị… Một số xã không còn mặn mà, quan tâm xây nhà văn hóa.  
Các xã đạt chuẩn nông thôn mới đều có đầy đủ các công trình văn hóa theo quy định.  
Ngoài việc tu sửa, cải tạo, mở rộng khuôn viên, một số địa phương còn đầu tư xây mới các  
công trình. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động lại không cao như kết quả đầu tư. Mặc dù, trung  
tâm văn hóa xã được đầu tư khá hoành tráng và quy mô nhưng hầu như số lần được sử dụng  
rất ít, chủ yếu chỉ mở cửa khi tổ chức các sự kiện lớn của xã như đại hội thể dục thể thao và  
một vài hoạt động khác... còn hầu như chỉ đóng cửa cả ngày.  
Nhà văn hóa thôn ở các xã đạt chuẩn nông thôn mới cơ bản đã đáp ứng được về diện  
tích cũng như trang thiết bị nhưng đa số chỉ dùng để hội họp, rất ít khi tổ chức các hoạt động  
khác. Nhiều nhà văn hóa có tủ sách, báo, song cũng không thu hút được người dân đến mượn.  
Hiện nay, cái khó khăn lớn nhất trong hoạt động của nhà văn hóa cộng đồng là nguồn  
lực tài chính. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm giảm đi công năng của nhà  
văn hóa cộng đồng cũng như kéo theo một loạt hệ lụy, yếu kém khác. Do vậy, cần thiết phải  
xây dựng và ban hành một nghị quyết chuyên đề về nhà văn hóa cộng đồng; trong đó cần bảo  
đảm các nội dung: quan điểm sử dụng, kinh phí đầu tư xây dựng, kinh phí hoạt động thường  
xuyên được phân bổ hằng năm và kinh phí phụ cấp cho ban chủ nhiệm, công tác tập huấn  
chuyên môn nghiệp vụ cho ban chủ nhiệm và các cộng tác viên của nhà văn hóa cộng đồng...  
Các thiết chế văn hóa “có vỏ, rỗng ruột”, nếu không kịp thời tìm được lời giải thì bài  
toán hoạt động không hiệu quả của hệ thống này sẽ vẫn tồn tại như những thách thức. Nhấn  
mạnh thiết chế văn hóa là một chỉnh thể hội tụ đầy đủ bốn yếu tố: Cơ sở vật chất, bộ máy tổ  
chức, quy chế hoạt động, nguồn kinh phí, chỉ riêng ngôi nhà hoặc công trình văn hóa chưa đủ  
94  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
để gọi là thiết chế văn hóa. Yếu kém ở một khâu cũng dẫn đến sự thiếu hiệu quả trong hoạt  
động của mỗi thiết chế văn hóa nói riêng và toàn hệ thống nói chung.  
Thực tiễn, hoạt động văn hóa cộng đồng các dân tộc miền núi Thanh Hóa chỉ diễn ra  
tương đối đều đặn ở những trung tâm huyện lỵ, và một vài địa phương hội đủ các điều kiện:  
tài chính, nhân sự và sự ủng hộ của cộng đồng. Còn lại, đa phần hoạt động văn hóa cộng đồng  
đang ngày càng “lép vế” trước các hoạt động kinh doanh văn hóa của các hộ gia đình tư nhân.  
Đa phần các địa phương chưa tổ chức được những hoạt động văn hóa cộng đồng có giá trị  
tinh thần đúng nghĩa, vắng bóng các khu vui chơi, sinh hoạt tập thể, nhất là các hoạt động vui  
chơi, sinh hoạt tập thể cho thanh thiếu niên. Việc tận dụng và phát huy công dụng của nhà văn  
hóa hay các trung tâm học tập cộng đồng chưa thực sự hiệu quả. Nhiều địa phương có cơ sở  
khang trang cũng khó có thể tổ chức các hoạt động bởi thiếu nhân sự, kinh phí và một số hoạt  
động lễ hội truyền thống có nguy cơ bị mai một hoặc biến tướng, gây bức xúc trước dư luận  
xã hội.  
4. Kết luận  
Trong bối cảnh các hoạt động văn hóa cộng đồng dân tộc miền núi Thanh Hóa luôn  
đóng vai trò quan trọng cần có những giải pháp tổ chức phù hợp và các phương thức quản lý  
hữu hiệu. Bởi hoạt động văn hóa cộng đồng chính là sợi dây mềm dẻo, linh hoạt, bền chặt để  
gắn kết con người với con người; con người với cộng đồng; cộng đồng với cộng đồng; cộng  
đồng với quốc gia dân tộc, tạo nên một tinh thần đoàn kết, cố kết cộng đồng tồn tại bền chặt  
hơn. Hoạt động văn hóa cộng đồng tạo ra môi trường cho mỗi cá nhân phát triển lành mạnh cả  
thể chất lẫn tâm hồn. Mỗi cá nhân sẽ sống, làm việc vì cộng đồng, vì sự tiến bộ xã hội nhiều  
hơn. Tuy nhiên, đây là khu vực còn rất nhiều khó khăn về kinh tế và đời sống văn hóa, giáo  
dục, y tế và trình độ của người dân có nhiều hạn chế và cũng là những địa bàn khá phong phú  
về loại hình hoạt động văn hóa cộng đồng. Vì vậy, việc tổ chức cũng như quản lý các hoạt  
động văn hóa cộng đồng để bảo tồn, phát huy bản sắc dân tộc và bảo đảm an toàn xã hội ở  
những vùng như vậy là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài.  
Tài liệu tham khảo  
[1]. Huyện uỷ, HĐND, UBND huyện Lang Chánh, tỉnh Thanh Hóa (2009), Địa chí  
huyện Lang Chánh, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.  
[2]. Nguyễn Kim Liên (2008), Giáo trình phát triển cộng đồng, Nxb Lao động Xã hội.  
[3]. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Thanh Hóa (2000), Địa chí Thanh Hóa (Lịch sử và  
Địa lý), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.  
[4]. Tỉnh uỷ, HĐND, UBND tỉnh Thanh Hóa (2004), Địa chí Thanh Hóa (Văn hóa - Xã  
hội), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.  
[5]. Hoàng Minh Tường (2009), Văn hóa dân gian dân tộc Thổ ở làng Sẹt, Hội Văn hóa  
Nghệ thuật các dân tộc thiểu số Việt Nam, Chi hội Thanh Hóa phát hành.  
[6]. Ngô Đức Thịnh (2006), Văn hóa, văn hóa tộc người và văn hóa Việt Nam, Nxb  
Khoa học Xã hội, Hà Nội.  
95  
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI  
THE CURRENT SITUATION OF ORGANIZING AND MANAGING  
COMMUNITY CULTURAL ACTIVITIES IN MOUNTAINOUS  
DISTRICTS OF THANH HOA PROVINCE  
Assoc. Prof. Dr. Nguyen Thi Thuy  
Nguyen Thi Thuy, M.A  
Abstract: The eleven mountainous districts in Thanh Hoa has formed a large area  
accounting for a quarter of the total province and one third of the provincial population in  
which seven ethnic minorities occupy. The population density is quite sparse. The economic  
life still faces many difficulties. The intellectual level is limited. With specific characteristics  
in the customs, festivals, folk songs, games... community cultural activities in the mountainous  
districts are very rich. However, in recent years, these community cultural activities have not  
gained high efficiency.  
Keywords: organization; community culture; mountainous districts in Thanh Hoa.  
Người phản biện: PGS. TS Trần Văn Thức (ngày nhận bài 08/8/2019; ngày gửi phản biện  
10/8/2019; ngày duyệt đăng 30/9/2019).  
96  
pdf 10 trang yennguyen 21/04/2022 660
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng công tác tổ chức, quản lý hoạt động văn hóa cộng đồng ở các huyện miền núi tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_cong_tac_to_chuc_quan_ly_hoat_dong_van_hoa_cong_d.pdf