Tài liệu Chuyên đề Hội nhập kinh tế quốc tế - Bùi Huy Nhượng

BỘ KẾ HOẠCH VÀ ĐẦU TƢ  
CỤC PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP  
Chuyên đề  
HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ  
(Tài liệu dành cho đào tạo, bồi dƣỡng ngun nhân lc  
cho các doanh nghip nhvà va)  
Biên soạn: PGS.TS Bùi Huy Nhƣợng  
HÀ NỘI - 2012  
MỤC LỤC  
LỜI NÓI ĐẦU....................................................... Error! Bookmark not defined.  
CHƢƠNG 1  
TỔNG QUAN VỀ HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ  
1.1. Khái niệm hội nhập kinh tế quốc tế  
Thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế đƣợc sử dụng từ những năm giữa  
thập niên 1990 cùng với quá trình Việt Nam gia nhập ASEAN, tham gia Khu  
vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) và các thế chế kinh tế quốc tế khác.Đặc  
biệt, kế từ khi gia nhập WTO, cụm từ này đƣợc sử dụng ngày càng phổ biến  
hơn. Song song với thuật ngữ hội nhập kinh tế quốc tế, ngƣời ta thƣờng sử  
dụng kết hợp các cum từ nhƣ nhất thế hóa nền kinh tế thế giới, liên kết kinh tế  
quốc tế, toàn cầu hóa,...Sự khác biệt giữa chúng chủ yếu là phạm vi và nội  
dung hợp tác kinh tế giữa các nƣớc.  
Thuật ngữ liên kết kinh tế quc tế thƣờng đƣợc sử dụng khi nói vcác  
quan hệ kinh tế trên cơ sở tự do hóa mậu dịch giữa các nƣớc trong cùng khu  
vực nhƣ Cộng đồng Kinh tế châu Âu (EC), Liên minh châu Âu (EU), Hiệp  
hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA), Thị trƣờng chung Trung Mỹ (CACM),  
Cộng đồng Caribê và Thị trƣờng chung (CARICOM), Khu vực Mậu dịch tự  
do Bắc M(NAFTA), v.v... Có nhiều sách đồng nghĩa giữa hai khái niệm hội  
nhập kinh tế quốc tế và liên kết kinh tế quốc tế. Nhƣ vậy, có thể khẳng định  
hiện vẫn không có một định nghĩa chuẩn nào về khái niệm hội nhập kinh tế  
quốc tế .  
Hiện có hai cách hiếu khác nhau về hội nhập kinh tế quốc tế. Thứ nhất,  
hiểu theo nghĩa hẹp coi hội nhập kinh tế quốc tế là sự tham gia của các quốc  
gia vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Thứ hai, cách hiểu theo nghĩa rộng,  
hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình mở cửa nền kinh tế và tham gia vào mọi  
mặt của đời sống quốc tế; đối lập với tình trạng đóng cửa, cô lập hoặc ít giao  
lƣu quốc tế. Theo một cách chung nhất, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình  
các nƣớc tiến hành các hoạt động tăng cƣờng sự gắn kết giữa các nền kinh tế  
của các quốc gia với nhau dựa trên sự chia sẻ nguồn lực và lợi ích trên cơ sở  
1
   
tuân thủ các luật chơi chung trong khuôn khổ các định chế hoặc tổ chức quốc  
tế. Nhƣ vậy, kết quả của hội nhập là tính tụ- chủ về kinh tế của mỗi nƣớc sẽ bị  
giảm đi và sự phụ thuộc về kinh tế giữa các quốc gia ngày càng chặt chẽ hơn.  
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập hình thành nên các định chế và chủ thế mới  
Những chủ thể quốc tế mới này có thế dƣới dạng (i) hoặc là một tổ chức liên  
chính phủ (các thành viên vẫn giữ chủ quyền quốc gia trong việc định đoạt  
chính sách, chẳng hạn nhƣ tổ chức Liên hiệp quốc, ASEAN...), (ii) hoặc là  
một tố chức siêu quốc gia (các thành viên trao toàn bộ chủ quyền quốc gia  
cho một cơ cấu siêu quốc gia, hình thái này có thể giống nhƣ mô hình nhà  
nƣớc liên bang, chăng hạn nhƣ Hoa Kỳ, Canada..(iii) hoặc là một tổ chức lai  
ghép giữa hai hình thái trên (các thành viên trao một phân chủ quyền quc gia  
cho một cơ cấu siêu quốc gia và vẫn giữ một phần chủ quyền cho riêng mình,  
chẳng hạn nhƣ trƣờng hợp EU hiện nay).  
Chủ thế của hội nhập quốc tế trƣớc hết là các quốc gia, chủ thể chính của  
quan hệ quốc tế có đủ thẩm quyền và năng lực đàm phán, ký kết và thực hiện  
các cam kết quốc tế. Bên cạnh chủ thể chính này, các chủ thể khác cùng hợp  
thành lực lƣợng tổng hợp tham gia vào quá trình hội nhập quốc tế.  
1.2. Hình thức hội nhập kinh tế quốc tế  
Nhƣ trên đã chỉ rõ, hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình gắn kết các nền  
kinh tế của từng nƣớc với kinh tế khu vực và thế giới thông qua các nỗ lực tự  
do hóa và mở cửa nền kinh tế theo những hình thức khác nhau, từ đơn phƣơng  
đến song phƣơng, tiểu khu vực/vùng, khu vực, liên khu vực và toàn cầu. Theo  
mức độ các cam kết mở cửa nền kinh tế trong quá trình hội nhập, hội nhập  
kinh tế quốc tế có thể diễn ra theo nhiều mức độ. Theo một số nhà kinh tế,  
tiến trình hội nhập kinh tế đƣợc chia thành năm mô hình cơ bản từ thấp đến  
cao nhƣ sau:  
Thỏa thuận thương mại ưu đãi (PTA): Đây là giai đoạn đầu tiên của quá  
trình hội nhập. Theo đó, các nƣớc thành viên dành cho nhau các ƣu đãi  
thƣơng mại trên cơ sở cắt giảm thuế quan, nhƣng còn hạn chê về phạm vi, thể  
2
 
hiện ở số lƣợng các quốc gia thành viên tham gia, số lƣợng các mặt hàng đƣa  
vào diện cắt giảm thuế quan và mức độ cắt giảm. Ví dụ hội nhập theo hình  
thức này có Hiệp định PTA của ASEAN năm 1977, Hiệp định Thƣơng mại  
song phƣơng Việt-Mỹ năm 2001, Hiệp định GATT năm 1947 và 1994,...  
Khu vực mậu dịch tự do (FTA): Theo hình thức này, tất cả các thành  
viên trong khối phải thực hiện việc cắt giảm và loại bỏ các hàng rào thuế quan  
và các hạn chế về định lƣợng (có thế bao gồm cả việc giảm và bỏ một số hàng  
rào phi thuế quan) trong quan hệ thƣơng mại hàng hóa khi buôn bán trao đổi  
với nhau trong khối, nhƣng vẫn duy trì chính sách thuế quan độc lập đối với  
các nƣớc ngoài khối đó. Nhƣ vậy, kết quả là các nƣớc thành viên mất quyền  
tự chủ về chính sách thƣơng mại khi buôn bán với nhau, nhƣng vẫn đƣợc tự  
chủ chính sách thƣơng mại ngoại khối. Ví dụ của hình thức này là Khu vực  
mậu dịch tự do Bắc Âu (EFTA), Khu vực mậu dịch tự do bắc Mỹ (NAFTA),  
Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA),... Những năm gần đây, phần lớn  
các hiệp định FTA mới có phạm vi lĩnh vực điều tiết rộng hơn nhiều. Ngoài  
lĩnh vực hàng hóa, các hiệp định này còn có những quy định tự do hóa đối với  
nhiều lĩnh vực khác nhƣ dịch vụ, đầu tƣ, sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ...  
Ví dụ: Hiệp định FTA giữa ASEAN với Úc-Niudilân (2009), Hiệp định Đối  
tác xuyên Thái Bình dƣơng (TPP- đang đàm phán).  
Liên minh thuế quan (CU): Đây là hình thức phát triển cao hơn của hình  
thức trên. Theo đó các nƣớc thành viên thống nhất ngoài việc cắt giảm và loại  
bỏ thuế quan trong thƣơng mại nội khối còn thống nhất thực hiện chính sách  
thuế quan chung đối với các nƣớc bên ngoài khối. Nhƣ vậy, kết quả là tất cả  
các nƣớc áp dụng chính sách thuế quan thống nhất. Ví dụ của hình thức này là  
nhóm ANDEAN và Liên minh thuế quan Nga-Bêlarút- Cadăcxtan.  
Thị trường chung (hay thị trƣờng duy nhất): Theo hình thức này, tất cả  
các nƣớc thành viên thống nhất ngoài việc loại bỏ thuế quan và hàng rào phi  
quan thuế trong thƣơng mại nội khối và có chính sách thuế quan chung đối  
với ngoài khối, các thành viên còn thống nhất xóa bỏ tất cả các hạn chế đối  
3
với việc lƣu thông các yếu tố sản xuất khác nhƣ vốn và lao động để tạo thành  
một thị trƣờng thống nhất (chung) cho tất cả các thành viên trong khối. Ví dụ  
của hình thức này nhƣ Liên minh châu Âu đã trải qua giai đoạn xây dựng thị  
trƣờng duy nhất (Thị trƣờng chung châu Âu) trƣớc khi trở thành một liên  
minh kinh tế.  
Liên minh kinh tế- tiền tệ Là hình thức hội nhập kinh tế ở giai đoạn cao  
nhất dựa trên cơ sở một thị trƣờng chung duy nhất cộng thêm với việc thực  
hiện chính sách kinh tế và tiền tệ chung. Điển hình là sử dụng một đồng tiền  
chung, ngân hàng trung ƣơng thống nhất của khối. Hiện nay trên thế giới chỉ  
có EU phát trin ở hình thức này.  
Đối với một nƣớc không nhất thiết phải tham gia vào tiến trình hội nhập  
theo một cách tuần tự nhƣ trên. Ngƣợc lại, tùy theo đặc điểm của mình, mỗi  
quốc gia có thể lựa chọn hình thức hội nhập cho phù hợp. Tuy nhiên, về cơ  
bản phải trải qua các bƣớc hội nhập từ thấp đến cao, việc đốt cháy giai đoạn  
chỉ có thể diễn ra trong những điều kiện đặc thù nhất định mà thôi. Hội nhập  
kinh tế là nền tảng hết sức quan trọng cho sự tồn tại bền vững của hội nhập  
trong các lĩnh vực khác, đặc biệt là hội nhập về chính trị và nhìn chung, đƣợc  
các nƣớc ƣu tiên thúc đẩy giống nhƣ một đòn bẩy cho hợp tác và phát triển  
trong bối cảnh toàn cầu hóa.  
1.3. Tác động của hội nhập kinh tế quốc tế  
Khẳng định hội nhập quốc tế là một xu thế tất yếu lớn của thế giới  
cũng đồng thời chỉ ra đó là con đƣờng phát triển duy nhất đối với các nƣớc  
trong điều kiện toàn cầu hóa là tham gia hội nhập kinh tế quốc tế. Điều này  
đƣợc khẳng định bởi rất nhiều lợi ích mà hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra  
cho các nƣớc.  
1.3.1. Tác động tích cực của hội nhập kinh tế quốc tế  
Quá trình hội nhập giúp mở rộng thị trƣờng để thúc đẩy thƣơng mại và  
các quan hệ kinh tế quốc tế khác, từ đó thúc đẩy tăng trƣởng và phát triển  
kinh tế-xã hội. Hội nhập làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nƣớc  
4
   
tiếp cận thị trƣờng quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế.  
Hội nhập cũng tạo động lực cho các quốc gia thúc đấy quá trình chuyn  
dịch cơ cấu kinh tế, cải thiện môi trƣờng đầu tƣ và kinh doanh trong nƣớc, từ  
đó nâng cao hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, của các sản  
phẩm và doanh nghiệp; đồng thời, làm tăng khả năng thu hút đâu tƣ vào nên  
kinh tế.  
Hội nhập giúp nâng cao trình độ của nguồn nhân lực và nền khoa học  
công nghệ quốc gia, nhờ hợp tác giáo dục - đào tạo và nghiên cứu khoa học  
với các nƣớc và tiếp thu công nghệ mới thông qua đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài  
và chuyển giao công nghệ từ các nƣớc tiên tiến.  
Hội nhập tạo cơ hội cho ngƣời tiêu dùng lựa chọn các sản phẩm hàng  
hóa, dịch vụ đa dạng về chủng loại, mẫu mã và chất lƣợng với giá cạnh tranh  
hơn; đƣợc tiếp cận và giao lƣu nhiều hơn với các quốc gia khác; mở rộng cơ  
hội tìm kiếm việc làm cả ở trong lẫn ngoài nƣớc.  
Hội nhập tạo điều kiện đế các nhà hoạch định chính sách nắm bắt tốt hơn  
tình hình và xu thế phát triển của thế giới, từ đó có thể đề ra chính sách phát  
triển phù hợp hơn đối với tình hình của đất nƣớc.  
Hội nhập tạo điều kiện để mỗi nƣớc tìm cho mình một vị trí thích hợp  
trong trật tự quốc tế, giúp tăng cƣờng uy tín và vị thế quốc tế, cũng nhƣ khả  
năng duy trì an ninh, hòa bình và ổn định để phát triến.  
Hội nhập giúp duy trì hòa bình và ổn định khu vực và quốc tế để các  
nƣớc tập trung cho phát triển; đồng thời mở ra khả năng phối hợp các nỗ lực  
và nguồn lực của các nƣớc đế giải quyết những vân đề quan tâm chung của  
khu vực và thế giới .  
1.3.2. Tác động tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế  
Hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ đƣa lại những lợi ích mà còn gây ra  
những bất lợi và thách thức mà các nƣớc phải đối mặt, trong đó đặc biệt là:  
Hội nhập làm gia tăng cạnh tranh gay gắt khiến nhiều doanh nghiệp và  
ngành kinh tế gặp khó khăn, thậm chí là phá sản, từ đó gây nhiều hậu quả về  
5
 
mặt kinh tế - xã hội nhƣ nạn thất nghiệp gia tăng, tình trạng phân hóa giàu  
nghèo trong xã hội.  
Hội nhập làm tăng sự phụ thuộc của nền kinh tế mỗi quốc gia vào thị  
trƣờng bên ngoài và, do vậy, khiến nền kinh tế dễ bị tổn thƣơng trƣớc những  
biến động lớn của thị trƣờng quốc tế nhƣ tình trạng khủng hoảng, hay suy  
thoái kinh tế khu vực và thế gii.  
Trong quá trình hội nhập, các nƣớc đang phát triển khó chen chân đƣợc  
vào chuỗi giá trị toàn cầu trong sản xuất của các ngành công nghiệp then chốt.  
Do vậy, phải đối mặt với nguy cơ chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hƣớng tập  
trung vào các ngành sử dụng nhiều tài nguyên và lao động, nhƣng có giá trị  
gia tăng thấp, về dài hạn, các nƣớc này có thể trở thành bãi rác thải công  
nghiệp và công nghệ thấp, nguồn tài nguyên thiên nhiên bị cạn kiệt và tình  
trạng hủy hoại môi trƣờng.  
Hội nhập có thể tạo ra một số thách thức đối với vấn đề độc lập chủ  
quyền và an ninh quốc gia; mất văn hóa và bản sắc dân tộc và gái trị  
truyền thống.  
Hội nhập có thể đặt các nƣớc trƣớc nguy cơ gia tăng của tình trạng  
khủng bố quốc tế, buôn lậu, tội phạm xuyên quốc gia, dịch bệnh, nhập cƣ bất  
hợp pháp...  
Nhƣ vậy, hội nhập kinh tế quốc tế có tính hai mặt. Việc khai thác và phát  
huy lợi ích đến đâu và hạn chế các bất lợi nhƣ thế nào phụ thuộc rất lớn vào  
chính sách của mỗi nƣớc. Thực tế, nhiều nƣớc đã khai thác rất tốt các cơ hội  
và lợi ích của hội nhập để đạt đƣợc tăng trƣởng và phát triển kinh tế-xã hội  
cao, n định trong nhiều năm liên tục, nhanh chóng vƣơn lên hàng các nƣớc  
công nghiệp mới và tạo dựng đƣợc vị thế quốc tế đáng nể, đồng thời xử lý khá  
thành công các bất lợi và thách thức của quá trình hội nhập, đó là trƣờng hợp  
Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore, Trung Quốc, Malaixia, Mêhicô,  
Braxin... Một số nƣớc tuy vẫn gặt hái đƣợc nhiều lợi ích từ hội nhập, song xử  
lý chƣa tốt mặt trái của quá trình này, nên phải đối mặt với nhiều khó khăn,  
6
thách thức lớn, có thể kể tới trƣờng họp Thái Lan, Phi-líp-pin, Inđônêxia, Việt  
Nam, Hy Lạp, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha... Nhƣng xét một cách chung nhất,  
trong điều kiện hiện nay hội nhập quốc tế trở thành lựa chọn chính sách của  
hầu hết các nƣớc trên thế giới.  
1.4. Nhân tố thác đẩy quá trình hội nhập KTQT  
Trải qua quá trình phát triển lâu dài, quan hệ kinh tế giữa các nƣớc ngày  
càng trở nên phổ biến, bao quát nhiều lĩnh vực với nhiều hình thức khác nhau  
rất phong phú và đa dạng. Đặc biệt, trong vài thập kỷ gần đây xuất hiện  
những yếu tố kinh tế kỹ thuật rất mới dẫn đến bƣớc phát triển nhảy vọt của  
toàn cầu hoá các quan hệ kinh tế. Một số yếu tố cơ bản thúc đẩy quá trình hội  
nhập KTQT bao gồm:  
Sự phát triển ngày càng cao của khoa học công nghệ  
Quá trình công nghiệp hóa và sự phát triển của nền kinh tế tri thức đang  
trở thành xu thế pho biến ở các quốc gia, điều này đƣợc thế hiện rõ ở các quốc  
gia phát triến. Đối với các nƣớc đang phát triển cũng đã kết hợp bƣớc chuyển  
đổi từ nền kinh tế nông nghiệp sang công nghiệp. Tất cả đó là thành tựu của  
khoa học công nghệ. Sự phát triển của kinh tế tri thức dự trên các công nghệ  
có hàm lƣợng khoa học kỹ thuật cao, nhất là công nghệ thông tin, công nghệ  
vận tải,... đã mở ra điều kiện thuận lợi cho quá trình hội nhập. Chính sự phát  
triển nhƣ vũ bảo của khoa học kỹ thuật đã làm phá vỡ hàng rào ngăn cách địa  
giới trong giao dịch của con ngƣời trên tất cả các mặt giầu các quốc gia. Các  
quốc gia dù muốn hay không đều chịu tác động của của quá trình toàn cầu hoá  
và đƣơng nhiên để tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện này không thể  
không tham gia quá trình toàn cầu hoá, tức là hội nhập quốc tế.  
Sự chuyển đổi trong chính sách phát triển kinh tế của các nƣớc  
Toàn cầu hoá là một xu thế tất yếu song tốc độ của toàn cầu hoá phụ  
thuộc rất nhiều vào chính sách mở cửa của các quốc gia. Quá trình hội nhập  
chính là kết quả của việc các quốc gia trên thế giới đều tiến hành cải cách mở  
cửa, thực hiện tƣ nhân hoá và tự do lƣu thông hàng hóa, dịch vụ, vốn và sức  
7
 
lao động.  
Lịch sử phát triển đã khẳng định để tạo ra bƣớc đột phá trong phát triển  
kinh tế, các quốc gia buộc phải mở cửa và áp dụng chính sách hƣớng ngoại.  
Để thực hiện chính sách này đòi hỏi các quốc gia phải thực hiện chuyển dịch  
cơ cấu kinh tế, phải coi thị trƣờng quốc tế là cơ sở của quá trình sản xuất sản  
phẩm và dịch vụ phù hợp với yêu cầu chuẩn mực của thị trƣờng quốc tế.  
Muốn vậy đòi hỏi các quốc gia phải mở cửa nền kinh tế, cho nhập các thành  
tựu công nghệ, thu hút vốn đầu tƣ để xây dựng và phát triển một cơ cấu ngành  
kinh tế phù hợp. Nhƣ vậy với chiến lƣợc hƣớng về xuất khẩu, trên thực tế đã  
đẩy đến xu thế gắn bó phụ thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia, giữa các nền  
kinh tế thông qua thực hiện phân công lao động quốc tế dựa trên thế mạnh của  
từng nền kinh tế dân tộc.  
Sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu đòi hỏi các quốc gia phải cùng  
hợp tác giải quyết.  
Khi nền kinh tế càng phát triển sẽ càng phát sinh nhiều vấn đề mang tính  
toàn cầu, phổ biến ở các quốc gia đòi hỏi phải có sự phối hợp để giải quyết.  
Những vấn đề mang tính chất toàn cầu đó là sự phân hoá giàu nghèo, sự ô  
nhiễm môi trƣờng, dịch bệnh, vấn đề biến đổi khí hậu, ...Những vấn đề này  
liên quan đến mọi quốc gia, có tác động trên phạm vi toàn thế giới, nó quyết  
định sự phát triển tồn vong của toà thể cộng đồng nhân loại.  
Để giải quyết các vấn đề mang tính chất toàn cầu nói trên đòi hỏi không  
chỉ phải có sự gắng nỗ lực của bản thân mỗi quốc gia, mà cần có sự phối hợp  
của các nƣớc trong khi giải quyết các vấn đề đó. Bản thân mỗi quốc gia, cho  
dù là quốc gia phát triển hay chậm phát triển cũng thể tự mình giải quyết triệt  
đế các vấn đề liên quan đến toàn thế giới.  
Sự lớn mạnh của các công ty xuyên quốc gia về hệ thống sản xuất và  
phân phối trên phạm vi toàn cầu.  
Với tiềm lực về vốn và công nghệ của mình, các công ty xuyên và đa  
quốc gia giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu. Chính sự phát triển  
8
mạnh mẽ của các công ty xuyên quốc gia trên phạm vi toàn cầu đã tạo ra tính  
liên kết và phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Mỗi quốc gia có thể tham  
gia vào một công đoạn trong dây chuyền sản xuất quốc tế và cũng vì vậy mối  
quan hệ phụ thuộc lẫn nhau gia tăng.  
Các công ty đa và xuyên quốc gia đã đóng vai trò rất to lớn trong việc  
tăng gái trị xuất khẩu, gia tăng mạnh mẽ vốn đầu tƣ trực tiếp nƣớc ngoài vào  
các nƣớc đang phát triển đẩy mạnh tiến trình hội nhập của nền kinh tế này vào  
nền kinh tế thế giới nói chung. Vì vậy, có thể nói chính sự bành trƣớng của  
các công ty xuyên quốc gia vào các quốc gia khác đã tạo ra sợi dây liên hệ và  
phụ thuộc giữa các nền kinh tế, giảm bớt sự ngăn cách trong phát triến của  
nhiều quốc gia trên thế giới.  
Sự ra đòi và phát triển của các định chế quốc tế mang tính khu vực  
và toàn cầu.  
Trên thế giới có rất nhiều các định chế và tổ chức quốc tế đƣợc hình  
thành và có ảnh hƣởng lớn tới quá trình toàn cầu hoá và khu vực hoá. Trong  
số đó điển hình là WTO, IMF, WB và các tổ chức khu vực khác nhƣ EU,  
NAFTA, APEC... Hầu hết mục tiêu và chức năng của các tổ chức này là nhằm  
thúc đẩy quá trình hợp tác kinh tế giữa các nƣớc thành viên.  
Tất cả các định chế và các tổ chức quốc tế đều hƣớng tới việc cắt giảm,  
tiến tới việc xóa bỏ các rào cản về thƣơng mại và đầu tƣ giữa các nƣớc; thúc  
đẩy quá trình hợp tác song phƣơng và đa phƣơng đã làm tăng lên sự gắn bó  
tuỳ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế, thực chất nó đã thúc đẩy phân công  
lao động quốc tế ngày càng sâu sắc trong nội bộ tổ chức. Kết quả của quá  
trình cắt giảm là tiến đến hình thành một thị trƣờng thống nhất trong khu vực.  
9
CHƢƠNG 2  
CAN THIỆP CỦA CHÍNH PHỦ VÀO THƢƠNG MẠI QUỐC TẾ  
2.1 Thuế quan và hạn ngạch xuất, nhập khẩu  
2.1.1. Thuế xuất, nhập khẩu  
Hầu hết các quốc gia trên thế giới đều áp dụng công cụ thuế quan, hay  
còn gọi là thuế xuất, nhập khẩu để quản lý hoạt động XNK của mình.  
Thuế quan là loại thuế đánh vào hàng hóa khi tham gia vào quá trình  
xuất nhập khẩu. Mức thuế quan có thể dao động từ mức thấp nhất là 0% cho  
đến mức cao nhất, tùy theo quy định của mỗi nƣớc. Nếu chính phủ đánh thuế  
thấp đồng nghĩa với việc Chính phủ khuyến khích việc xuất, nhập khẩu hàng  
hóa, hay nhóm mặt hàng đó. Ngƣợc lại, nếu chính phủ đánh thuế cao đồng  
nghĩa với việc Chính phủ hạn chế việc xuất, nhập khẩu hàng hóa, hay nhóm  
mặt hàng đó.  
Ƣu điểm của công cụ thuế quan là dễ áp dụng, có thể áp dụng ở hầu hết  
các mặt hàng, tạo ra sự bình đẳng cho tất cả doanh nghiệp tham gia vào quá  
trình XNK, tăng nguồn thu cho ngân sách,... Tuy nhiên, khó khăn khi áp dụng  
công cụ này là xác định mức thuế quan tối ƣu để vừa đảm bảo nguồn thu cho  
ngân sách, vừa quản lý đƣợc hoạt động XNK mà lại tránh đƣợc tình trạng  
buôn lậu. Trong xu thế hội nhập hiện nay, với các cam kết quốc tế thì chính  
phủ các nƣớc đang mất dần quyền chủ động trong việc đề ra chính sách thuế  
quan nhập khấu.  
2.1.2. Hạn ngạch (quotas)  
Hạn ngạch là quy định hạn chế về số lƣợng hoặc trị giá một mặt hàng  
nào đó đƣợc phép xuất hoặc nhập khẩu.. Có nhiều loại hạn ngạch khác nhau  
nhƣ: hạn ngạch áp dụng đối với tất cả các nƣớc, hay một nhóm nƣớc nào đó;  
hạn ngạch song phƣơng, hạn ngạch theo sản phẩm, hạn ngạch xuất khẩu; hạn  
ngạch thuế quan,.. .Các quy định của WTO không cho phép các thành viên áp  
dụng biện pháp hạn ngạch. Tuy nhiên, trong một số trƣờng hợp đặc biệt, hạn  
10  
         
ngạch có thể đƣợc áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử nhƣ: Đƣợc áp  
dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan hiếm lƣơng thực,  
thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác;  
Việc sử dụng công cụ hạn ngạch nhập khấu có thể gây ra tình trạng khan  
hiếm hàng hoá trong nƣớc, sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp đƣợc  
phân bổ hạn ngạch; khó khăn trong việc lựa chọn tiêu chí phân bổ hạn  
ngạch,...  
Hạn ngạch thuế quan (Tariff Rate Quota-TRQ) biện pháp hạn chế  
khối lƣợng nhập khẩu đƣợc kết hợp với việc áp đặt mức thuế quan khác nhau.  
Theo đó hàng nhập khẩu trong hạn ngạch sẽ áp mức thuế quan nhập khẩu  
bình thƣờng; hàng hoá ngoài hạn ngạch sẽ chịu mức thuế quan rất cao.. Nhƣ  
vậy, đế đƣợc tiêu dùng hàng hoá nhập khấu, ngƣời tiêu dùng phải trả mức giá  
rất cao.  
2.2. Cấm xuất khẩu, nhập khẩu và giấy phép nhập khẩu  
2.2.1. Cấm xuất, nhập khẩu  
Cấm xuất khẩu, nhập khẩu là biện pháp bảo hộ cao nhất, triệt tiêu hoạt  
động trao đổi thƣơng mại giữa các nƣớc. Trong thực tiễn thƣơng mại quốc tế  
thƣờng có các trƣờng hợp cấm nhập khẩu theo quốc gia, cấm theo thời gian,  
cấm theo mặt hàng; hoặc tạm dừng cấp phép nhập khẩu... Theo quy định của  
WTO, các nƣớc thành viên không dƣợc phép áp dụng biện pháp này nếu  
không có lý do chính đáng. Tuy nhiên, các thành viên có thể thi hành các biện  
pháp cấm xuất khẩu, nhập khẩu trong một số trƣờng hợp ngoại lệ sau nhƣ  
(i)cần thiết để đảm bảo an ninh quốc gia, (ii) cần thiết để bảo vệ đạo đức xã  
hội; bảo vệ con ngƣời, động vật và thực vật; bảo vệ các tài nguyên thiên nhiên  
khan… hay (iii) áp dụng một cách tạm thời để ngăn cản hay giảm bớt sự khan  
hiếm lƣơng thực, thực phẩm hay các sản phẩm thiết yếu khác; cần thiết để áp  
dụng các tiêu chuẩn hay quy định để phân loại, xếp hạng hay tiếp thị các sản  
phẩm trong thƣơng mại quốc tế.  
Danh mục hàng cấm nhập khẩu của Việt Nam hiện nay bao gồm vũ khí,  
11  
   
đạn dƣợc, vật liệu nổ, hoá chất độc; pháo các loại; và một số chất cấm theo  
điều ƣớc quốc tế, ... Ngoài ra, còn một số mặt hàng mang tính đặc thù của  
từng chuyên ngành cũng bị cấm nhập khẩu nhằm đảm bảo các quy định về  
bảo vệ môi trƣờng, an toàn thực phẩm, thú y và vấn đề đảm bảo an ninh quốc  
phòng,... Ví dụ, có quy định về cấm, hạn chế nhập khẩu các loài động thực vật  
quý hiếm, giống cây trồng, vật nuôi; các loại phế thải, phế liệu, hoá chất độc  
hại theo công ƣớc BASEL....  
222. Giấy phép nhập khẩu (import licences)  
Giấy phép nhập khẩu thủ tục cho phép một doanh nghiệp đƣợc tham gia  
vào hoạt động xuất nhập khẩu một hay nhiều mặt hàng. Ƣu điểm của công cụ  
này là giúp các cơ quan chức năng kiểm soát hoạt động xuất nhập khẩu đối  
với những mặt hàng nhạy cảm mà nhà nƣớc cần kiếm soát. Tuy nhiên, sử  
dụng công cụ này có thể gây méo mó trong thƣơng mại. Những khó khăn khi  
áp dụng công cụ này là công khai các tiêu chí đƣợc cấp giấy phép ; quy trình  
và thời hạn cấp giấy phép; các điều kiện và thủ tục cấp phép. Nếu thủ tục  
hành chính quá phiền hà và phức tạp dễ gây hiện tƣợng tiêu cực và các cơ hội  
kinh doanh bị bỏ lỡ..  
Cấp phép nhập khẩu tự động: khi tất cả đơn đều đƣợc chấp thuận, không  
hạn chế khối lƣợng nhập khẩu trong phạm vi điều chỉnh, không đặt ra hạn chế  
với nhà nhập khẩu, đƣợc chấp thuận trong vòng 10 ngày.  
cấp phép nhập khẩu không tự động, là thủ tục cấp phép không phải là  
cấp phép tự động. Theo đó các đơn vị xin cấp phép phải đảm bảo các điều  
kiện nhất định. Tuy nhiên, các thủ tục cấp phép không tự động cần phải tƣơng  
ứng về phạm vi và thời hạn với biện pháp mà chúng đƣợc sử dụng để thực  
hiện, và sẽ không đặt ra những gánh nặng hành chính hơn mức cần thiết để  
quản lý biện pháp đó. Trong trƣờng hợp đòi hỏi cấp phép không vì mục đích  
quản lý số lƣợng, các thành viên phải công bố đầy đủ thông tin về cơ sở để  
cấp phép.  
12  
 
2.3. Các rào cản kỹ thuật đối với thƣơng mại  
Hiệp định về các hàng rào kỹ thuật đối với thƣơng mại (TBTs) trong  
WTO quy định việc lập ra và áp dụng các quy định về tiêu chuẩn kỹ thuật đối  
với các loại hàng hoá nhằm bảo vệ sức khoẻ và sự an toàn của con ngƣời, các  
loại động thực vật và môi trƣờng. Mục đích chủ yếu của Hiệp định này là  
nhằm giảm thiểu tác động của các quy định kỹ thuật trong phạm vi quốc gia,  
các thủ tục về đánh giá trong tiêu chuẩn và hợp chuẩn đến thƣơng mại quốc  
tế. Hiệp định này quy định rõ ràng các tiêu chuẩn kỹ thuật - bao gồm các tiêu  
chuẩn quy định đối với việc đóng gói, quảng bá sản phẩm và các yêu cầu về  
nhãn mác hàng hoá - không đƣợc phép gây nên các tác động hạn chế thƣơng  
mại lớn hơn sự cần thiết đạt đƣợc các mục tiêu chính đáng của Chính phủ,  
đồng thời cũng cần phải chú ý tới việc nếu đặt ra các tiêu chuẩn kỹ thuật quá  
cao thì có thế các công ty hay các đối tác kinh doanh sẽ không thể thực hiện  
đƣợc các tiêu chuẩn này và điều đó sẽ gây ra các tác động hạn chế thƣơng mại  
vô hình..  
2.3.1. Các quy định kỹ thuật (techical requirements) tiêu chuẩn  
(standards) và thủ tục xác định sự phù hợp  
Quy định kỹ thuật và tiêu chun: Tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật đều  
đặt ra các yêu cầu cụ thể về tính chất vật lý đối với sản phẩm. Các yêu cầu  
này bao gồm (i) quy định về kích thƣớc, hình dáng, thiết kế, độ dài và các  
chức năng của sản phẩm ; (ii) quy định về nhãn mác, đóng gói, ký hiệu sản  
phẩm và mở rộng tới các quy trình và phƣơng pháp sản phẩm liên quan tới  
sản phẩm. Tuy nhiên, điểm khác biệt cơ bản giữa tiêu chuẩn và quy định kỹ  
thuật là bắt buộc. Ở các nƣớc phát triển, nếu một sản phẩm nhập khẩu không  
đáp ứng các yêu cầu của quy định kỹ thuật thì nó sẽ không đƣợc phép bán ra  
thị trƣờng. Còn đối với tiêu chuẩn, nếu hàng nhập khẩu không tuân thủ các  
yêu cầu của tiêu chuẩn đặt ra thì vẫn đƣợc phép bán ra thị trƣờng, mặc dù có  
thế bị ngƣời tiêu dùng tay chay.  
Mục đích của các quy định kỹ thuật và tiêu chuân là bảo vệ an toàn, sức  
13  
   
khoẻ của con ngƣời, động thực vật, bảo vệ môi trƣờng, ngăn chặn các hành vi  
lừa dối. Các tiêu chuẩn và quy định liên quan đến kỹ thuật là một trong những  
cản trở lớn nhất đối với việc tiếp cận các thị trƣờng nƣớc ngoài của các nƣớc  
đang và kém phát triển vì những nƣớc này chƣa có đủ trình độ và kỹ năng về  
công nghệ sản xuất, chế biến cũng nhƣ công nghệ bảo quản độ an toàn cho  
các sản phẩm hàng hoá, nhất là các loại lƣơng thực, thực phẩm. Các nƣớc  
phát triển thƣờng yêu cầu các nƣớc đang và kém phát triển phải thực hiện các  
quy định rất chặt chẽ liên quan tới môi trƣờng và nhiều khi còn yêu cầu các  
nƣớc này phải xuất trình trƣớc các sản phẩm mẫu để họ kiểm tra, thử  
nghiệm... Điều này đã làm phức tạp thêm rất nhiều các thủ tục kiểm tra và  
chứng nhận sản phẩm xuất khẩu.  
2.3.2. Các thủ tục đánh giá sự phù hợp  
Để có cơ sở khẳng định hàng nhập khẩu đáp ứng các tiêu chuẩn của  
nƣớc nhập khẩu đề ra, nƣớc nhập khẩu áp dụng các biện pháp nhƣ xét  
nghiệm, thẩm tra xác thực, kiểm định chứng nhận - đƣợc sử dụng để đảm bảo  
rằng các sản phẩm nhập khẩu có đáp ứng các yêu cầu kỹ thuật do các quy  
định kỹ thuật và tiêu chuẩn của nƣớc nhập khẩu đặt ra hay không. Tuy nhiên,  
do điều kiện và trình độ phát triển của các quốc gia hiện không đồng đều nên  
khi đánh giá sự phù hợp với các quy định kỹ thuật và tiêu chuẩn này không  
đƣợc tạo ra các trở ngại không cần thiết đối với thƣơng mại quốc tế, phải đảm  
bảo nguyên tắc không phân biệt đối xử và đối xử quốc gia, phải minh bạch và  
tiến tới hài hoà hoá. Mặt khác, các thành viên không không thể đƣa ra các  
biện pháp đó không đƣợc áp dụng theo cách thức tạo ra sự phân biệt đối xử  
tuỳ tiện, hay hạn chế vô lý đối với thƣơng mại quốc tế.  
2.3.3.Kiểm dịch động thực vật và vệ sinh an toàn thực phẩm  
(Sanitary and Phytosanitary).  
Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp Kiểm dịch động thực vật và vệ  
sinh an toàn thực phẩm (SPS) bao gồm các biện pháp nhằm bảo vệ cuộc sống,  
sức khoẻ của con ngƣời, động vật và môi trƣờng. Trong các quy định của  
14  
   
Hiệp định này, có cả các quy định nhằm phòng tránh những rủi ro về vệ sinh  
của hàng hoá có thể phát sinh từ các chất phụ gia, các chất gây độc tố và chất  
có hại đối với cơ thể con ngƣời có trong các loại lƣơng thực, thực phẩm và đồ  
uống. Hiệp định cũng đƣa ra các quy định về việc ngăn chặn sự lây lan của  
các loại thực phẩm có hại... Các biện pháp đƣợc quy định trong Hiệp định  
SPS cũng nhằm mục đích đảm bảo rằng các quy định về an toàn và sức khoẻ  
không có những ảnh hƣởng quá mức đến thƣơng mại quốc tế.  
Nội dung chính của Hiệp định SPS là  
-Khuyến khích các nƣớc áp dụng tiêu chuẩn quốc tế, khu vực; hài hoà  
hoá các thủ tục, quy định; trong trƣờng hợp áp dụng cao hơn thì phải dựa trên  
cơ sở không phân biệt đối xử, có bằng chứng khoa học và phải có các đánh  
giá rủi ro;  
- Các biện pháp đƣa vào áp dụng không đƣợc có các tác động hạn chế  
thƣơng mại nhiều hơn mức độ bắt buộc và cần thiết phải hạn chế ;  
- Các thành viên WTO có trách nhiệm thông báo cho ủy ban chức năng  
có liên quan của WTO các biện pháp SPS đang áp dụng mà có các ảnh hƣởng  
đến thƣơng mại, đồng thời phải thành lập các cơ quan Quốc gia có chức năng  
kiểm tra các biện pháp này và chịu trách nhiệm trong việc cung cấp thông tin  
của thành viên đó.  
Nhìn chung, các biện pháp kiểm dịch động thực vật là nhằm mục đích phát  
hiện ra dƣ lƣợng độc tố (kháng sinh, hoá chất) và dƣ lƣợng vi sinh (nấm, côn  
trùng) có trong sản phẩm. HACCP là một trong những biện pháp thƣờng đƣợc  
một số nƣớc áp dụng trong thƣơng mại quốc tế đế kiếm soát chất lƣợng của hàng  
thuỷ sản và thịt. Ở nhiều nƣớc phát triển, các quy định về SPS bao gồm :  
(i) Các luật, Nghị định, quy định, yêu cầu và thủ tục liên quan nhƣ: các  
tiêu chuẩn đối với sản phẩm cuối cùng; các phƣơng pháp sản xuất và chế  
biến; các thủ tục xét nghiệm, giám định, chứng nhận và chấp thuận;  
(ii)Quy định về những biện pháp cách ly bao gồm các yêu cầu liên quan  
tới việc vận chuyển cây trồng và vật nuôi, hay các chất nuôi dƣỡng chúng  
15  
trong quá trình vận chuyển;  
(iii) Quy định về các phƣơng pháp thống kê, thủ tục chọn mẫu và các  
phƣơng pháp thống kê, thủ tục chọn mẫu và các phƣơng pháp đánh giá rủi ro  
liên quan; các yêu cầu về đóng gói và nhãn mác liên quan trực tiếp tới an toàn  
thực phẩm.  
2.3.4.Thủ tục về đóng gói sản phẩm  
Quy định đóng gói bao gồm những quy định liên quan đến nguyên vật  
liệu đóng gói, những quy định về tái sinh, những quy định về xử lý và thu  
gom sau quá trình sử dụng... Những tiêu chuẩn và quy định liên quan đến  
những đặc tính tự nhiên của sản phẩm và nguyên liệu đóng gói đòi hỏi việc  
đóng gói phải phù họp với việc tái sinh hoặc dùng lại. Những quy định không  
phù hợp có thể bị thị trƣờng từ chối cả nguyên liệu đóng gói và sản phẩm  
chứa trong bao bì.  
Các quy định này thƣờng ảnh hƣởng đến việc xuất khấu của các nƣớc  
đang và kém phát triển (LDCs) sang thị trƣờng của các nƣớc đang phát triển  
vì các nƣớc nhập khẩu nhiều khi không tin tƣởng vào quá trình bao gói sản  
phẩm của các nƣớc LDCs, mặt khác nhiều nƣớc phát triển cho rằng các loại  
bao, gói sản phẩm từ các nƣớc đang phát triển không có khả năng tái chế  
đƣợc sau khi sử dụng vì thế sẽ gây ảnh hƣởng trong công tác xử lý chất thải  
của nƣớc nhập khẩu.  
Chẳng hạn, Liên bang Đức từ chối nhập khấu các sản phẩm của  
Indonesia đƣợc đóng gói bằng bì gai là loại không có dụng cụ phân huỷ ở  
Đức. Việc sử dụng các tiêu chuẩn về bao bì và đóng gói trong nhiều trƣờng  
hợp sẽ ảnh hƣởng đến cạnh tranh thƣơng mại quốc tế. Điều này bắt nguồn  
từ sự khác nhau về các tiêu chuẩn và quy định, về chi phí sản xuất bao bì,  
các nguyên liệu dùng đế sản xuất bao bì và khả năng tái chế ở các nƣớc  
khác nhau.  
2.3.5. Yêu cầu về dán nhãn sinh thái  
Dán nhãn sinh thái có nghĩa là các nƣớc nhập khấu yêu cầu các nƣớc  
16  
   
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 93 trang yennguyen 18/04/2022 1640
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tài liệu Chuyên đề Hội nhập kinh tế quốc tế - Bùi Huy Nhượng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdftai_lieu_chuyen_de_hoi_nhap_kinh_te_quoc_te_bui_huy_nhuong.pdf