Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường phổ thông dân tộc nội trú và phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0

Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CỦA CÁN BỘ QUẢN LÝ Ở CÁC  
TRƯỜNG PHỔ THÔNG DÂN TỘC NỘI TRÚ VÀ PHỔ THÔNG  
DÂN TỘC BÁN TRÚ, ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CÁCH MẠNG  
CÔNG NGHIỆP 4.0  
Ngô Viết Sơn(1)  
au khi làm rõ các thuật ngữ: Năng lực, cán bộ quản lý giáo dục, năng lực thực hiện nhiệm vụ  
S
chính của cán bộ quản lý giáo dục và điều kiện bảo đảm có một quyết định quản lý đúng, người  
viết muốn đề xuất các điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý  
giáo dục trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, trên cơ sở đó đưa ra quan điểm khi áp dụng với cán bộ  
quản lý ở các cơ sở giáo dục dành cho người dân tộc thiểu số.  
Từ khóa: Năng lực; cán bộ quản lý giáo dục; quyết định quản lý; dân tộc thiểu số.  
1. Mở đầu  
Năng lực của một người trước một nhiệm vụ phụ  
thuộc vào nhiều yếu tố, cả chủ quan và khách quan.  
Những yếu tố chủ quan thường được bàn đến là:  
Nhận thức (NT), kỹ năng (KN) và thái độ (TĐ) của  
người đó trước một nhiệm vụ được giao.  
Với cách hiểu từng khái niệm NT, KN và TĐ  
như sau:  
Nhận thức là quá trình phản ánh biện chứng hiện  
thực khách quan vào trong bộ óc của con người, bắt  
đầu từ việc sử dụng trực tiếp các giác quan để tìm  
hiểu sự vật hiện tượng đến việc tư duy lại để hình  
thành khái niệm, phán đoán và liên kết các phán  
đoán để rút ra kết luận mới, cuối cùng, kết luận mới  
đó được đem kiểm nghiệm và chứng minh trong  
thực tiễn.  
Mục tiêu tổng quát trong công cuộc đổi mới căn  
bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu  
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh  
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội  
nhập quốc tế ở Việt Nam đã được xác định: “Tạo  
chuyển biến căn bản, mạnh mẽ về chất lượng, hiệu  
quả giáo dục, đào tạo; đáp ứng ngày càng tốt hơn  
công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và nhu cầu  
học tập của nhân dân. Giáo dục con người Việt Nam  
phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng,  
khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; yêu gia đình,  
yêu Tổ quốc, yêu đồng bào; sống tốt và làm việc  
hiệu quả”.  
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 với đặc  
điểm là tận dụng triệt để sức mạnh lan tỏa của số hóa  
và công nghệ thông tin là thực trạng đang hiện hữu biết hay tri/kiến thức được sử dụng như từ đồng ng-  
trong xã hội Việt Nam và trên thế giới hiện nay. Ngày hĩa với nhận thức– Điều này lý giải tại sao người ta  
Trong ngôn ngữ thông thường khái niệm hiểu  
hay dùng từ kiến thức thay vì phải dùng từ nhận thức.  
Kỹ năng của con người là khả năng vận dụng tri/  
kiến thức (nhận thức trong ngôn ngữ thông thường)  
một cách thuần thục, do được lặp đi lặp lại sau một  
thời gian dài, một cách có ý thức hoặc vô ý thức, để  
giải quyết một nhiệm vụ cụ thể.  
Thái độ là một bộ phận hợp thành, một thuộc  
tính trọn vẹn của ý thức; qui định sẵn sàng hành  
động của con người đối với đối tượng theo một  
hướng nhất định, được bộc lộ ra bên ngoài thông  
qua hành vi, cử chỉ, nét mặt và lời nói của người đó  
trong những tình huống, điều kiện cụ thể.  
Để xem xét một cách toàn diện hơn về năng lực  
của một người trước một nhiệm vụ, người nghiên  
cứu cần phải bàn tới 2 yếu tố có liên quan đó là: Sức  
khỏe (SK) của người đó và môi trường (MT) trong  
quá trình người đó thực thi nhiệm vụ của mình.  
Trong đó, hiểu môi trường là: “Bao gồm các yếu  
tố tự nhiên và các yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ  
mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh  
hưởng tới đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển  
04/5/2017, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã ban  
hành Chỉ thị số 16/CT-TTg về việc tăng cường năng  
lực tiếp cận Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4, trong  
đó có khẳng định nhiệm vụ cụ thể đối với Bộ Giáo  
dục và Đào tạo: “Thúc đẩy triển khai giáo dục về  
khoa học, công nghệ, kỹ thuật và toán học (STEM)  
trong chương trình giáo dục phổ thông; tổ chức thí  
điểm tại một số trường phổ thông ngay từ năm học  
2017-2018. Nâng cao năng lực nghiên cứu, giảng  
dạy trong các cơ sở giáo dục đại học; tăng cường  
giáo dục những kỹ năng, kiến thức cơ bản, tư duy  
sáng tạo, khả năng thích nghi với những yêu cầu của  
cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ 4”.  
Để đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào  
tạo trước bối cảnh của Việt Nam như đã trình bày ở  
trên, một yếu tố đột phá phải quan tâm đó là: Năng  
lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý  
giáo dục là gi? Với những điều kiện nào thì có thể  
phát triển được năng lực thực hiện nhiệm vụ chính  
của cán bộ quản lý giáo dục?  
2. Năng lực của một người trước một nhiệm vụ  
Ngày nhận bài: 13/1/2018; Ngày phản biện: 29/1/2018; Ngày duyệt đăng: 8/2/2018  
(1) Học viện Quản lý Giáo dục, e-mail: sdtlam@yahoo.com.vn  
57  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
thành công.  
của con người và tự nhiên”.  
Như vậy, khái niệm CBLĐ chỉ xuất hiện và  
chỉ ứng với một người khi đề cập tới một tập thể  
người cùng thực hiện một nhiệm vụ theo mục tiêu  
và nguyên tắc đã được thống nhất, những người còn  
lại trong tập thể đó, một cách khái quát, không kể  
đến mức độ ảnh hưởng, họ đều thực thi những quyết  
định quản lý của CBLĐ, có nghĩa là, một cách khái  
quát, ta có thể coi họ là những CBQL.  
Ta có thể thấy: Nhìn vào một tập thể/đơn vị/  
tổ chức được xã hội công nhận, ngoài một người  
được gọi là CBLĐ, thì các CBQL được chia làm  
hai nhóm:  
- Nhóm được hưởng “phụ cấp chức vụ lãnh đạo”.  
- Nhóm không được hưởng “phụ cấp chức vụ  
lãnh đạo”.  
Nhóm được hưởng “phụ cấp chức vụ lãnh đạo”  
không nhiều, bao gồm: Cấp phó của người đứng  
đầu; Người đứng đầu và cấp phó của họ trong một  
tập thể/đơn vị/tổ chức trực thuộc hay trong một tổ  
chức chính trị/tổ chức chính trị-xã hội/tổ chức xã  
hội đồng cấp hoặc trực thuộc.  
Tuy nhiên, hiện nay có sự không trùng khớp  
trong nhận thức giữa lý luận và thực tế về khái  
niệm CBQL. Trong thực tế, vẫn có người nghĩ,  
CBQL là những người được hưởng “phụ cấp chức  
vụ lãnh đạo” và nói đến CBQL là muốn ám chỉ  
người đứng đầu.  
CBQL giáo dục đề cập trong bài viết này được  
dẫn xuất từ cách hiểu thế nào là CBLĐ, thế nào là  
CBQL như đã trình bày ở trên. Tức là, khi đề cập đến  
CBQL giáo dục là đề cập đến CBLĐ hoặc CBQL hay  
cả hai khái niệm này đối với các cá nhân đang thực  
thi một nhiệm vụ cụ thể trong vai trò của một người  
lãnh đạo hay quản lý trong lĩnh vực giáo dục.  
CBQL giáo dục có các đặc điểm riêng đó là:  
Họ chủ yếu đối diện với các nhiệm vụ giáo dục và  
thường xuyên ở trong môi trường giáo dục.  
4. Năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của cán  
bộ quản lý giáo dục  
Năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của một  
CBLĐ/CBQL trước một nhiệm vụ cụ thể hay một  
đơn vị cụ thể, là năng lực đưa ra các quyết định  
quản lý (QĐQL) đúng khi tác động trực tiếp đến  
đối tượng quản lý thông qua bốn quá trình (còn  
được gọi là 4 chức năng quản lý): Lập kế hoạch, tổ  
chức, chỉ đạo và kiểm tra một cách có hướng đích,  
không vi phạm nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu  
đã được tập thể thống nhất.  
Như vậy năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của  
CBQL giáo dục, cũng như năng lực thực hiện nhiệm  
vụ chính của CBLĐ/CBQL nói chung, đó là năng  
lực đưa ra các quyết định quản lý đúng khi tác động  
Tóm lại, năng lực của một con người trước một  
nhiệm vụ là toàn bộ khả năng của họ về mặt nhận  
thức, kỹ năng, thái độ và sức khỏe cũng như khả  
năng ứng xử của họ trước điều kiện môi trường  
nhằm đáp ứng theo một mức độ nhất định việc hoàn  
thành nhiệm vụ đó.  
Để khái quát cho dễ nhớ và để khẳng định năng  
lực của một người trước một nhiệm vụ luôn phụ  
thuộc vào sự biến động của 5 yếu tố, có thể mô  
phỏng “Năng lực” bởi “công thức”:  
y
= f(NT, KN, TĐ, SK, MT) hay NL = f(NT,  
KN, (TNLĐ) , SK, MT)  
(với NL: Năng lực; NT: Nhận thức; KN: Kỹ năng;  
TĐ: Thái độ; SK: Sức khỏe; MT: Môi trường)  
Trong đó 3 yếu tố chính cần xem xét là: Nhận  
thức, kỹ năng và thái độ.  
3. Cán bộ quản lý giáo dục  
Ta sẽ tiếp cận khái niệm cán bộ quản lý giáo  
dục theo góc độ: Hiểu khái niệm cán bộ lãnh đạo và  
khái niệm cán bộ quản lý ở góc độ chung sau đó đưa  
2 khái niệm này vào ngành giáo dục để hiểu về khái  
niệm cán bộ quản lý giáo dục.  
Trong nhiều trường hợp, chức năng, nhiệm vụ  
của “cán bộ lãnh đạo” và “cán bộ quản lý” trùng  
lặp nhau. Sự phân biệt hai khái niệm này chỉ có tính  
chất tương đối.  
Tính chất tương đối giữa hai khái niệm “cán bộ  
lãnh đạo” và “cán bộ quản lý” có thể mô tả như sau:  
Khi người cán bộ quản lý (CBQL) thực hiện một  
quyết định của người cán bộ lãnh đạo (CBLĐ), đến  
lượt mình, người cán bộ quản lý này trước nhiệm vụ  
cụ thể mà họ đảm nhận họ lại có thể đóng vai trò là  
người CBLĐ.  
Nói một cách đơn giản: Trong tập thể này họ là  
người CBLĐ, nhưng trong một tập thể khác họ chỉ  
là CBQL.  
Có thể vắn tắt để phân biệt về mặt hình thức hai  
khái niệm này như sau:  
“ “Cán bộ lãnh đạo” là chỉ những người đứng  
đầu, phụ trách một tổ chức, đơn vị, phong trào nào  
đó do bầu cử hoặc chỉ định…”.  
“ “Cán bộ quản lý” là người mà hoạt động nghề  
nghiệp của họ hoàn toàn hay chủ yếu gắn với việc  
thực hiện chức năng quản lý; là người điều hành,  
hướng dẫn và tổ chức thực hiện những quyết định  
của cán bộ lãnh đạo…”.  
Thực tế ta có thể hiểu: Một người trong một tập  
thể rất có thể trở thành người đứng đầu tập thể đó  
nếu xét về năng lực thực hiện nhiệm vụ, nói một  
cách khác, mọi người bình thường trong một tập  
thể đều có thể trở thành người CBLĐ tập thể đó.  
Và một điều đương nhiên nữa là: Một người bình trực tiếp đến đối tượng quản lý thông qua bốn quá  
thường khi nhận một nhiệm vụ và họ có một tập trình: Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo và kiểm tra một  
cách có hướng đích, không vi phạm nguyên tắc nhằm  
đạt được mục tiêu đã được tập thể thống nhất về các  
nội dung nhằm bảo đảm thực hiện đúng bản chất của  
giáo dục và trong một môi trường giáo dục,  
thể cùng hoạt động thì đương nhiên, họ là người  
CBLĐ trước nhiệm vụ đó hoặc khi một mình đảm  
nhận một nhiệm vụ cụ thể, người đó phải thể hiện  
được vai trò của người CBLĐ thì nhiệm vụ đó mới  
58  
Số 21 - Tháng 3 năm 2018  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
Trong đó, cần rõ một số thuật ngữ khi mô tả đơn vị; Bảo đảm cho hoạt động của đơn vị trước  
năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo sau như một, vận hành trên một quĩ đạo định trước  
dục như sau:  
Bản chất của giáo dục: Là sự truyền đạt và lĩnh  
nhằm đạt mục tiêu như đã dự kiến. Với vai trò: Là  
sự “khởi động” và bảo đảm cho các bộ phận trong  
đơn vị “vận hành” tốt; Bảo đảm các bộ phận có thể  
thiết lập được một mối liên hệ hợp lý nhằm phục vụ  
một yêu cầu thống nhất chung; Nhằm phòng ngừa  
và ngăn chặn các sai phạm có thể xảy ra. Nội dung  
cụ thể là:  
hội kinh nghiệm lịch sử-xã hội của các thế hệ loài  
người, với ý nghĩa giúp các thế hệ nối tiếp nhau kế  
thừa, bổ sung và phát triển các tinh hoa văn hóa dân  
tộc và nhân loại (người thầy khơi gợi người học phát  
hiện và đánh thức các tiềm năng sẵn có trong họ, tiếp  
đó là quá trình làm thay đổi các phẩm chất ấy).  
Môi trường giáo dục: Từ khái niệm môi trường  
và bản chất của giáo dục, môi trường giáo dục được  
i. Giao việc, hướng dẫn và bảo đảm các điều  
kiện để vận hành.  
ii. Bảo đảm thông suốt cho các mối liên hệ giữa  
hiểu như sau, bao gồm các yếu tố tự nhiên và các các bộ phận.  
yếu tố vật chất nhân tạo, quan hệ mật thiết với  
nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng sự truyền  
đạt và lĩnh hội kinh nghiệm lịch sử-xã hội của các  
thế hệ loài người, với ý nghĩa giúp các thế hệ nối  
tiếp nhau kế thừa, bổ sung và phát triển các tinh  
hoa văn hóa dân tộc và nhân loại, nhằm cải thiện tốt  
hơn đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con  
người và tự nhiên.  
Quá trình lập kế hoạch: Là quá trình từ các  
thông tin, ta dự đoán tình hình rồi xác định các  
nhiệm vụ cụ thể và các mục tiêu tương ứng, cuối  
cùng là hoạch định kế hoạch hành động nhằm thực  
hiện mục tiêu chung đã thống nhất. Với vai trò: Là  
điểm xuất phát là sự định hướng và là căn cứ cho  
các hoạt động thuộc các chức năng quản lý khác.  
Nội dung cụ thể là:  
iii. Xây dựng cơ chế động viên, khuyến khích  
nhằm tạo động lực.  
iv. Giám sát, đôn đốc (Phải thường xuyên trừ  
một số ít nhiệm vụ hoặc người thực hiện nhiệm vụ  
đặc biệt).  
v. Điều chỉnh nguồn lực và thời gian hoàn thành  
từng nhiệm vụ cụ thể nhằm đạt thời gian chung  
(Phải chú ý tới các hoạt động tuyển dụng/mua sắm/  
huy động; Sử dụng; Bồi dưỡng/bổ sung; Đánh giá).  
Quá trinh kiểm tra: Là quá trình đánh giá và rút  
ra bài học cho một chu kỳ quản lý khác. Với vai trò:  
Bảo đảm có minh chứng chính xác cho quá trình  
đánh giá. Nội dung cụ thể là:  
i. Điều chỉnh tiêu chuẩn (mục tiêu) nếu thấy cần.  
ii. Kiểm tra thực trạng.  
iii. So sánh với chuẩn đã thống nhất.  
i. Phân tích bối cảnh để xác định các nhiệm vụ  
cụ thể và các mục tiêu tương ứng (Dùng SWOT).  
ii. Xây dựng cấu trúc bản kế hoạch (Dùng ma  
trận cấp 2).  
iii. Viết nội dung bản kế hoạch (Dùng từ cốt lõi  
để ghi vào các ô của ma trận).  
iv. Xử lý (Khen, chê, điều chỉnh lại kế hoạch).  
Quyết định quản lý: Quyết định quản lý của chủ  
thể quản lý (CBLĐ trước một nhiệm vụ cụ thể hay  
trước một đơn vị cụ thể) chính là hành vi của chủ  
thể quản lý nhằm đạt mục tiêu chung, từ đơn giản  
đến phức tạp, bao gồm: Ở mức độ thấp, gồm các  
hành động tương tác có ý thức như: ánh mắt, lời  
nói, ngôn ngữ cơ thể hoặc phối hợp cả ba hành động  
trong cùng một lúc của chủ thể quản lý. Ở mức độ  
cao: gồm các hành động tạo nên sự nêu gương của  
chủ thể quản lý hoặc các văn bản do chủ thể quản  
lý ban hành.  
iv. Kiểm tra lại nội dung bản kế hoạch trước khi  
ban hành chính thức.  
Quá trình tổ chức: Là quá trình tiếp nhận và  
hiện thực hóa các mục tiêu cụ thể từ bản kế hoạch  
đã được ban hành gồm: Thiết lập hệ thống tổ chức  
trong đơn vị mình; tập hợp các nguồn lực và tạo ra  
sức mạnh mới của tổ chức. Với vai trò: Là chỗ dựa  
để các chức năng khác phát huy tác dụng. Nội dung  
cụ thể là:  
Có thể khái quát ý tưởng về mức độ hành vi của  
chủ thể quản lý bằng hình 1.1 sau  
i. Từ nội dung bản kế hoạch, lập cơ cấu tổ chức  
phù hợp với thực tế trong từng nhiệm vụ cụ thể  
(Dựa vào trải nghiệm của bản thân hay kinh nghiệm  
ở nơi khác).  
Hành động tạo nên sự nêu gương  
của chủ thể quản lý hoặc các văn  
bản do chủ thể quản lý ban hành  
Mức độ cao  
ii. Xây dựng chức năng, nhiệm vụ tương ứng với  
cơ cấu tổ chức đã thiết lập.  
iii. Xây dựng mối quan hệ phối hợp giữa các bộ  
phận (Biểu thị nó qua sơ đồ Găng).  
iv. Kiểm tra lại ba bước trên trước khi ban hành  
chính thức.  
Quá trình chỉ đạo: Là quá trình tác động làm ảnh  
hưởng tới hành vi và thái độ của những người khác  
nhằm thực hiện hóa các mục tiêu cụ thể; Giúp tạo ra  
động lực lao động tích cực của các thành viên trong  
Ánh mắt, lời nói, ngôn ngữ cơ  
thể của chủ thể quản lý  
Mức độ thấp  
Hình 1.1: Mức độ hành vi của chủ thể quản lý  
Tác động có hướng đích: Là sự điều chỉnh mối  
quan hệ giữa con người và con người trong hoạt  
động tập thể hướng tới mục tiêu chung của tập thể  
(Mục tiêu chung của tập thể là những kỳ vọng được  
thống nhất của tập thể đó trong một giai đoạn xác  
định nào đó).  
Số 21 - Tháng 3 năm 2018  
59  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
5. Điều kiện để bảo đảm có quyết định quản  
lý đúng  
Để có quyết định quản lý đúng, chủ thể quản lý  
phải thường xuyên rèn luyện các thao tác tư duy khi  
thực hiện chức năng quản lý của mình.  
đối với từng cấp, bậc học; chuẩn đối với từng cấp  
quản lý trong hệ thống giáo dục (Chính các chuẩn  
này kết hợp với các Điều lệ tương ứng đã có sẽ định  
hướng cho CBQL giáo dục phấn đấu để bảo đảm  
yếu tố thứ nhất: Yếu tố nhận thức).  
ii. Tuân thủ đúng các yêu cầu khi bổ nhiệm  
người đứng đầu một đơn vị/tổ chức hay khi giao  
trách nhiệm cho một người trước một nhiệm vụ cụ  
thể. Một yêu cầu trọng yếu trong điều kiện thứ 2  
này là: Người được giao nhiệm vụ đã thành công  
khi đóng vai trò là CBLĐ trong quá khứ chưa? Nói  
Thao tác tư duy của chủ thể quản lý khi thực hiện  
chức năng quản lý của mình được hiểu là: Chủ thể  
quản lý phải cân nhắc bốn điều kiện, đó là, Thông  
tin có xác thực không? Trong những điều kiện cụ  
thể nào? Phương pháp nào sẽ được áp dụng? Hành  
động sẽ thực hiện có vi phạm nguyên tắc không?  
(có thể nói vắn tắt, 4 điều kiện là: “Thông, Điều, một cách khác, sự từng trải của họ trong lĩnh vực  
Phương, Nguyên“).  
mà cấp có thẩm quyền định giao cho họ cụ thể ra  
sao? (Chính yêu cầu này sẽ khuyến khích và định  
hướng cho CBQL giáo dục tự rèn luyện khả năng  
của bản thân để những khả năng sẵn có trong họ  
hoặc họ tiếp nhận được trong thực tế cuộc sống trở  
thành kỹ năng của bản thân. Rèn luyện các thao  
tác tư duy trước khi đưa ra một quyết định quản  
lý chính là điều kiện tiên quyết để trở thành một  
CBQL/CBLĐ thành công).  
iii. Thái độ khi thực hiện nhiệm vụ của người sẽ  
được giao nhiệm vụ là một thách thức đối với các  
cấp có thẩm quyền. Đây là một điều kiện quan trọng  
nhưng khó nhận dạng chính xác ngay được; Hơn  
nữa, để phát triển được thái độ tích cực của một  
con người phải là một quá trình, không thể trong  
một thời gian ngắn. Từ khái niệm thái độ, có thể  
hình dung việc đánh giá về thái độ của một người  
trước một nhiệm vụ cụ thể là sự sẵn sàng của người  
đó trước nhiệm vụ theo một hướng nhất định trong  
một quá trình thực thi nhiệm vụ đó, nó được bộc lộ  
ra bên ngoài thông qua hành vi, cử chỉ, nét mặt và  
lời nói của người đó trong những tình huống, điều  
kiện cụ thể (Đó chính là những biểu hiện cấp thấp  
của quyết định quản lý).  
Trong đó  
o Thông tin xác thực: Được hiểu là những thông  
tin đã được chứng minh thông qua những kết quả,  
những hành động cụ thể đã có.  
o Điều kiện cụ thể: Phải xem xét trên cả hai mặt.  
Một là, mục tiêu của chủ thể quản lý lúc đó là gì;  
Hai là, môi trường cụ thể lúc đó ra sao.  
o Phương pháp phù hợp: Trong quản lý, có rất  
nhiều phương pháp. Bằng cách khái quát vĩ mô, có  
3 phương pháp cơ bản: Phương pháp tổ chức, hành  
chính; Phương pháp tâm lý, xã hội và phương pháp  
kinh tế. Tuy nhiên, phương pháp phù hợp được áp  
dụng để xử lý trong những tình huống cụ thể khi  
chủ thể quản lý thực thi các chức năng quản lý lại  
phụ thuộc phần lớn vào sự từng trải của chủ thể  
quản lý...  
o Không vi phạm nguyên tắc: Được hiểu là không  
vi phạm các quy định còn có hiệu lực đã được công  
bố chính thức của người có thẩm quyền.  
Nói tóm lại, nếu chủ thể quản lý đưa ra một quyết  
định quản lý trong quá trình thực hiện chức năng  
quản lý của mình bị vi phạm một trong bốn điều kiện  
cần “Thông, Điều, Phương, Nguyên“ trong thao tác  
tư duy thì quyết định quản lý đó không đáp ứng được  
mục tiêu chung và quyết định quản lý đó không được  
đời sống thực tế chấp nhận.  
iv. Một điều hiển nhiên, điều kiện không thể  
thiếu để phát triển năng lực thực hiện một nhiệm  
vụ là sức khỏe của người được trao nhiệm vụ trước  
các sức ép về kinh tế, xã hội, tâm lý trong quá trình  
thực thi nhiệm vụ.  
6. Điều kiện để phát triển năng lực thực hiện  
nhiệm vụ chính của cán bộ quản lý giáo dục  
trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam  
v. Điều kiện tối thiểu cuối cùng là phải có môi  
trường phù hợp. Thực tế đã cho thấy, để có một môi  
trường phù hợp không giản đơn và yếu tố này đang là  
điểm yếu trong thực tế ở Việt Nam. Môi trường phù  
hợp có ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thành công  
một nhiệm vụ. Làm sao có thể thành công khi bất ngờ  
gặp “thiên tai, địch họa”? Làm sao thể hiện được khả  
năng trước một nhiệm vụ nếu thường xuyên chỉ “ở  
hàng dự bị”? Làm sao thể hiện được khả năng giảng  
dạy hay quản lý một cách nhanh chóng, hợp lý trong  
hoàn cảnh phải tận dụng triệt để sức mạnh lan tỏa của  
số hóa và công nghệ thông tin khi mà các điều kiện  
về cơ sở vật chất thiếu thốn, khi ta không có đủ lượng  
thông tin cần thiết? Làm sao thực hiện được nhiệm  
vụ khi quá trình thực hiện không có nguyên tắc hay  
nguyên tắc đưa ra một cách tùy tiện?...  
Tìm điều kiện để phát triển năng lực thực hiện  
nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục chính là việc  
tìm điều kiện để phát triển năng lực đưa ra các quyết  
định quản lý đúng, kịp thời trước những tình huống  
cụ thể, khi bản thân người CBQL giáo dục đang  
đóng vai trò là một CBLĐ đối với tình huống đó.  
Xuất phát từ khái niệm năng lực của một con  
người trước một nhiệm vụ, trong bối cảnh mục tiêu  
tổng quát của công cuộc đổi mới căn bản, toàn diện  
giáo dục và đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp  
hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường  
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế ở  
Việt Nam đã được xác định và yêu cầu tăng cường  
năng lực tiếp cận Cách mạng Công nghiệp lần thứ  
4, để phát triển năng lực của CBQL giáo dục, cần  
phải có tối thiểu các điều sau:  
7. Kết luận  
Muốn hoàn thành một nhiệm vụ và phát triển  
i. Thống nhất và công bố công khai các chuẩn  
60  
Số 21 - Tháng 3 năm 2018  
Tạp chí Nghiên cứu Dân tộc  
KHOA HỌC, GIÁO DỤC VÀ CÔNG NGHỆ  
năng lực này trong bối cảnh hiện nay ở Việt Nam, nhân dẫn đến những hạn chế, bất cập khi thực hiện  
mỗi CBQL giáo dục phải nhận dạng đúng các yếu việc giao trách nhiệm cụ thể về lĩnh vực giáo dục  
tố tạo nên năng lực thực hiện nhiệm vụ và phải hiểu  
rõ vai trò của một người CBQL giáo dục để từ đó  
có định hướng cho mình trong quá trình hoàn thiện  
bản thân.  
Năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL  
giáo dục chính là năng lực đưa ra các quyết định  
quản lý đúng khi tác động trực tiếp đến đối tượng  
quản lý thông qua bốn quá trình (còn được gọi là 4  
chức năng quản lý): Lập kế hoạch, tổ chức, chỉ đạo  
và kiểm tra một cách có hướng đích, không vi phạm  
nguyên tắc nhằm đạt được mục tiêu đã được tập  
thể thống nhất về các nội dung nhằm bảo đảm thực  
hiện đúng bản chất của giáo dục và trong một môi  
trường giáo dục.  
Để có những QĐQL đúng, mỗi CBQL giáo dục  
phải hiểu rõ các biểu hiện của QĐQL, nó bao gồm  
cả các hành động tương tác có ý thức, các hành  
động tạo nên sự nêu gương của bản thân hoặc các  
văn bản do mình ban hành. Một điều vô cùng quan  
trọng là: Mỗi CBQL phải thường xuyên rèn luyện  
các thao tác tư duy trước khi bản thân đưa ra một  
QĐQL nào đó.  
Những điều kiện để phát triển năng lực thực  
hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục trong bối  
cảnh hiện nay ở Việt Nam đã đề cập là những điều  
kiện tối thiểu để phát huy tốt được 5 yếu tố (NT,  
KN, TĐ, SK và MT) cấu thành năng lực thực hiện  
nhiệm vụ chính của một người bình thường. Khi là  
một CBQL giáo dục trong bối cảnh hiện nay, 5 điều  
kiện trên càng trở nên quan trọng đối với các cấp có  
thẩm quyền và đối với mỗi cá nhân thực hiện các  
nhiệm vụ giáo dục. Điều kiện thứ nhất và thứ hai  
phụ thuộc phần lớn vào vai trò, trách nhiệm của các  
cấp quản lý giáo dục có thẩm quyền. Điều kiện thứ  
ba và thứ tư lại phụ thuộc phần lớn vào vai trò, trách  
nhiệm của cá nhân khi nhận một nhiệm vụ giáo dục  
nào đó. Để có được điều kiện thứ năm thì không  
phải trách nhiệm của riêng ai với sự dẫn dắt, gương  
mẫu từ các CBLĐ/CBQL các cấp.  
cho một cá nhân ở Việt Nam, mà hơn nữa, người  
viết muốn chỉ ra vai trò, trách nhiệm của các cá  
nhân/tập thể trong việc tạo ra các điều kiện tối thiểu  
để phát triển được năng lực thực hiện nhiệm vụ  
chính của CBQL giáo dục trong bối cảnh hiện nay  
ở Việt Nam.  
Điều kiện để phát triển năng lực thực hiện nhiệm  
vụ chính của CBQL ở các cơ sở giáo dục dành cho  
người dân tộc thiểu số đáp ứng yêu cầu cách mạng  
công nghiệp 4.0 cũng chính là các điều kiện để phát  
triển năng lực thực hiện nhiệm vụ chính của CBQL  
giáo dục nói chung đã được đề cập trong mục 6 ở  
trên nhưng với cách tiếp cận “vừa sức và phù hợp  
với thực tiễn”, trong đó phải đề cao tính minh bạch  
khi thực hiện một hoạt động nào đó và sự trải ng-  
hiệm của cá nhân khi được giao một nhiệm vụ.  
Tài liệu tham khảo  
[1] Ban chấp hành Trung ương, (2013), Nghị  
quyết TW8, ĐH XI, về đổi mới căn bản, toàn diện  
Giáo dục và Đào tạo. NQ số 29-NQTW;  
[2] Chính phủ, (2017), Về việc tăng cường năng  
lực tiếp cận Cách mạng Công nghiệp lần thứ 4.  
Chỉ thị 16-CT/TTg, ngày 04/5/2017 của Thủ tướng  
Chính phủ;  
[3] Vũ Hữu Ngoạn, (2001), Tìm hiểu một số khái  
niệm trong văn kiện đại hội IX của Đảng, NXB.  
Chính trị Quốc gia;  
[4] Ngô Viết Sơn, (2013), Phát triển năng lực  
nghiên cứu khoa học cho sinh viên Học viện Quản  
lý giáo dục. Báo cáo tổng kết đề tài KH&CN cấp  
Bộ, mã số B2009 -29.36;  
[5] Ngô Viết Sơn, (2014), Dùng định nghĩa thao  
tác để tìm hiểu khái niệm quản lý và lợi ích khi sử  
dụng cách định nghĩa này, Tạp chí Giáo dục, số  
374, kỳ 1, tháng 12-2014;  
[6] Ngô Viết Sơn, (2015), Một cách tiếp cận để  
tìm bản chất của quản lý giáo dục. Tạp chí Khoa  
học Quản lý Giáo dục. Số 4, tháng 8-2015;  
[7] Từ điển thuật ngữ lý luận và phương pháp  
dạy học. Đại học giáo dục. Dự án KHCN đặc biệt  
của Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. Chủ nhiệm Dự  
án: GS.TS. Nguyễn Thị Mỹ Lộc.  
Trong khuôn khổ bài viết này, người viết đã đưa  
cách tiếp cận dưới góc độ quản lý về năng lực thực  
hiện nhiệm vụ chính của CBQL giáo dục, với hy  
vọng: Không những gián tiếp chỉ ra những nguyên  
DEVELOPING CAPACITY OF EDUCATION MANAGERS IN ETHNIC MINORITY BOARDING  
SCHOOL MEETING THE INDUSTRIAL NETWORK REQUIREMENTS 4.0  
Ngo Viet Son  
Abstract: After clarifying the terms: Capacity, educational administrators, the ability to perform the  
primary task of education administrators and assurance conditions have a correct management decision,  
the writer would like to propose The conditions for developing the capacity to perform the main task of  
educational administrators in the current context in Vietnam are based on that point of view when applied  
to management staff at educational institutions. for ethnic minorities.  
Keyword: Capacity; education managers; management decisions; ethnic minorities.  
Số 21 - Tháng 3 năm 2018  
61  
pdf 5 trang yennguyen 16/04/2022 1540
Bạn đang xem tài liệu "Phát triển năng lực của cán bộ quản lý ở các trường phổ thông dân tộc nội trú và phổ thông dân tộc bán trú, đáp ứng yêu cầu cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphat_trien_nang_luc_cua_can_bo_quan_ly_o_cac_truong_pho_thon.pdf