Nhận thức của sinh viên về việc phát triển tư duy phản biện trong dạy học ngành Sư phạm Địa lí ở trường Đại học Cần Thơ

Tp chí Khoa hc Trường Đại hc Cn Thơ  
Tp 55, S1C (2019): 74-81  
DOI:10.22144/ctu.jvn.2019.010  
NHẬN THỨC CỦA SINH VIÊN VỀ VIỆC PHÁT TRIỂN TƯ DUY PHẢN BIỆN  
TRONG DẠY HỌC NGÀNH SƯ PHẠM ĐỊA LÍ Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ  
Trịnh Chí Thâm1* và Nguyễn Lệ Quyên2  
1Khoa Sư phm, Trường Đại hc Cn Thơ  
2Sinh viên Ngành Sư phm Địa lí, khóa 40, Trường Đại hc Cn Thơ  
*Người chu trách nhim viết bài: Trnh Chí Thâm (email: tctham@ctu.edu.vn)  
ABSTRACT  
Thông tin chung:  
Ngày nhn bài: 13/07/2018  
Ngày nhn bài sa: 27/09/2018  
Ngày duyt đăng: 27/02/2019  
This study was relied on mix-method in collecting and analyzing data.  
Through information collected from studying documents, doing survey,  
interviewing participants and observing classes, the research results  
showed that geography pedagogy students have obtained a basic  
background about critical thinking and their perceptions towards  
employing critical thinking in their field are quite possitive. In addition,  
this article also clarified some main difficulties that the students have  
faced in developing their critical thinking consisting of applying  
traditional teaching and learning methods regularly as well as lacking of  
specialist knowledge, teaching and learning material, and soft skills.  
Furthermore, the study has indicated some solutions that geography  
pedagogy learners proposed in order to better develop their mind  
critically such as improving their perceptions, adding more learning  
resources, creating good learning environment and improving soft skills.  
Title:  
Students’ perceptions towards  
implementing critical thinking  
in educating the geography  
pedagogy students at cantho  
university  
Tkhóa:  
Địa lí, nhn thc, Trường Đại  
hc Cn Thơ, tư duy phn bin  
TÓM TẮT  
Keywords:  
Can Tho University, critical  
thinking, Geography, percepti  
Nghiên cu này được da vào phương pháp tng hp (mixed method)  
trong vic thu thp và phân tích thông tin. Thông qua vic thu thp thông  
tin thot động nghiên cu tư liu, kho sát, phng vn và dgi, kết quả  
nghiên cu cho thy sinh viên (SV) có hiu biết nht định vtư duy phn  
bin (TDPB) và hnhn thc khá tích cc vvic vn dng TDPB trong  
dy hc chuyên ngành ca mình. Thêm vào đó, nghiên cu cũng làm rõ  
mt skhó khăn trong quá trình phát trin TDPB cho SV ngành Sư phm  
(SP) Địa lí bao gm vic vn dng phương pháp dy hc truyn thng còn  
phbiến, thiếu kiến thc chuyên ngành, hn chế tư liu hc tp và yếu về  
kĩ năng mm. Mt khác, bài viết cũng phân tích mt số đề xut ca SV về  
vic nâng cao nhn thc, bsung tư liu, to môi trường hc tp thun  
li và rèn luyn kĩ năm mm nhm giúp hcó thphát trin TDPB hiu  
quhơn.  
Trích dẫn: Trịnh Chí Thâm và Nguyễn Lệ Quyên, 2019. Nhận thức của sinh viên về việc phát triển tư duy  
phản biện trong dạy học ngành sư phạm địa lí ở Trường Đại học Cần Thơ. Tạp chí Khoa học Trường  
Đại học Cần Thơ. 55(1C): 74-81.  
học. TDPB giúp rèn luyện kỹ năng mềm giúp sinh  
1 ĐẶT VẤN ĐỀ  
viên (SV) giải quyết các vấn đề trong học tập và  
trong cuộc sống hiệu quả hơn. Đối với SV Sư phạm  
(SP) nói chung và SV ngành SP Địa lí nói riêng,  
Tư duy phản biện (TDPB) là một năng lực tư duy  
bậc cao có vai trò quan trọng trong giáo dục bậc đại  
74  
Tp chí Khoa hc Trường Đại hc Cn Thơ  
Tp 55, S1C (2019): 74-81  
nhiệm vụ trọng tâm trong nghề nghiệp tương lai của  
họ là truyền đạt kiến thức cho người học mà kiến  
thức thì biến đổi theo thời gian và được vận dụng  
linh hoạt trong những tình huống, bối cảnh khác  
nhau. Vì vậy, việc rèn luyện năng lực tư duy mang  
tính phản biện lại càng có vai trò quan trọng hơn.  
và tương tác với người khác (Fisher, 2001; Moore  
and Parker, 2007; Nosich, 2009; Rainbolt and  
Dwyer, 2012).  
Theo đó, trong quá trình tiếp nhận thông tin,  
người học luôn luôn đặt câu hỏi tại sao, như thế nào,  
điều đó có hợp lí hay chưa,… Một điều lưu ý rằng,  
tất cả những câu hỏi như vậy luôn được bản thân  
người hỏi tìm hướng giải đáp trước.  
Ở Việt Nam nói chung và ở Trường Đại học Cần  
Thơ (ĐHCT) nói riêng, SV ngành SP Địa lí chưa có  
nhiều điều kiện tốt để rèn luyện kỹ năng TDPB  
(Tham, 2015). Để phát triển được kỹ năng này, SV  
cần nhận thức đúng đắn về cơ sở lí luận và thực tiễn  
của việc phát triển TDPB. Vì thế, việc đánh giá nhận  
thức của SV về việc phát triển TDPB trong dạy học  
ngành SP Địa lí ở Trường ĐHCT là một điều cần  
thiết. Việc nghiên cứu này giúp chúng ta nhìn nhận  
đúng về nhận thức của SV nhằm định hướng về điều  
kiện và thủ thuật nhằm giúp cho việc phát triển  
TDPB được hiệu quả hơn.  
2.2 Những điều kiện cần thiết nhằm phát  
triển TDPB  
Theo Fisher (2001), việc phát triển TDPB nói  
chung và TDPB cho người học nói riêng cần những  
điều kiện sau đây:  
Quan điểm mở về việc dạy học;  
Văn hóa tiên tiến và có tính mở đối với việc  
học;  
Môi trường học tập thuận lợi về cơ sở vật  
chất và tư liệu học tập.  
Chương trình đào tạo ngành SP Địa lí của  
Trường ĐHCT với mục đích đào tạo SV trở thành  
giáo viên Địa lí có kiến thức và kỹ năng SP tốt, đáp  
ứng nhu cầu đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục  
Việt Nam; người công dân tốt, người giáo viên trung  
thực và sáng tạo, nhân ái và khoan dung, tận tụy vì  
sự nghiệp giáo dục thế hệ tương lai; sống gương  
mẫu, có ý thức trách nhiệm cao với bản thân, gia  
đình, tổ quốc và cộng đồng quốc tế; có bản lĩnh vững  
vàng trong một thế giới thay đổi từng ngày. SV tốt  
nghiệp ngành SP Địa lí có thể làm công tác giảng  
dạy, nghiên cứu và quản lý tại các trường học, các  
phòng giáo dục, các cơ sở giáo dục, các trung tâm,  
viện nghiên cứu (Mục tiêu đào tạo ngành SP Địa lí,  
website Trường ĐHCT).  
TDPB là một năng lực tư duy bậc cao cho phép  
người học dựa vào sự hiểu biết của mình để nhìn  
nhận và đánh giá vấn đề. Để có cơ sở cho các cuộc  
tranh luận hay quá trình tư duy mang tính phản biện,  
người học phải được tìm hiểu về vấn đề dựa trên  
nhiều nguồn thông tin khoa học khác nhau như sách,  
báo, tạp chí,… hoặc tìm hiểu từ người khác qua việc  
tương tác. Nói cách khác, tư liệu và cơ sở vật chất  
phục vụ việc học tập cần được trang bị đầy đủ.  
Trong một vài trường hợp, bản thân họ có thể dựa  
vào quan điểm cá nhân của mình để lập luận với điều  
kiện quan điểm ấy phải có tính thuyết phục và khoa  
học. Vì thế, quan điểm và văn hóa học tập cởi mở là  
điều kiện cần thiết của mục tiêu học tập định hướng  
phát triển TDPB.  
SV ngành SP Địa lí được tuyển vào Trường  
ĐHCT thông qua việc xét điểm kì thi Trung học Phổ  
thông Quốc gia với các môn học thuộc lĩnh vực  
Khoa học Xã hội. Thông thường, đặc điểm của SV  
ngành này là cần cù, chăm chỉ, có trí nhớ tốt và có  
kiến thức rộng về các lĩnh vực Khoa học Xã hội  
nhưng ngược lại những kỹ năng tính toán, tư duy lại  
khá hạn chế. Điều này đòi hỏi khi học tập ngành SP  
Địa lí SV phải được rèn luyện và trau dồi nhiều hơn  
kỹ năng TDPB. Với Chương trình đào tạo ngành SP  
Địa lí ở Trường ĐHCT là 4 năm, 140 tín chỉ đòi hỏi  
SV phải nắm vững kiến thức chuyên ngành và tiếp  
thu tốt những phương pháp dạy học tích cực. Điều  
này có thể được thực hiện dễ dàng hơn nếu SV được  
phát triển TDPB.  
2.3 Một số thủ thuật nhằm phát triển  
TDPB  
Qua những nghiên cứu của mình, Ten Dam and  
Volman (2004) đã đề xuất một số thủ thuật nhằm  
phát triển TDPB, cụ thể như sau:  
Các cuộc tranh luận cần được tạo ra thường  
xuyên.  
Theo đó, có thể thấy rằng, kết quả của việc học  
nhằm vận dụng và phát triển xã hội thông qua những  
việc làm cụ thể trên cơ sở vận dụng những gì được  
học. Vì thế, lớp học cần là một xã hội thu nhỏ với  
những bối cảnh hoặc tình huống khác nhau nhằm  
giúp người học kiểm chứng hoặc thực hành những  
kiến thức được học từ nhà trường.  
2 CƠ SỞ LÍ LUẬN VỀ TDPB  
2.1 Khái niệm  
Sự tương tác lẫn nhau trong lớp học là điều  
không thể thiếu.  
TDPB là năng lực tư duy bậc cao dựa trên những  
lập luận và lí lẽ có tính giải thích và đánh giá về  
những gì mà con người tiếp nhận thông qua giao tiếp  
Trong môi trường học tập hiện đại, giáo viên  
không còn đơn thuần là người truyền đạt kiến thức  
75  
Tp chí Khoa hc Trường Đại hc Cn Thơ  
Tp 55, S1C (2019): 74-81  
thông qua những phương tiện và phương pháp dạy  
học, họ cần là người “quản trò” nhằm tạo ra những  
tình huống học tập thông qua tranh luận. Trong  
những cuộc tranh luận đó, giáo viên trao cho học  
sinh quyền tự do để bày tỏ ý kiến của mình. Sự  
tương tác bao gồm việc lắng nghe, thảo luận và tiếp  
thu về những gì được lĩnh hội. Lúc đó, người dạy  
vừa là một thành viên của quá trình dạy học vừa là  
trọng tài của bất kì tình huống học tập nào vì họ có  
đủ khả năng để nhìn nhận và kết luận về những gì  
mà SV cần tiếp nhận.  
liệu cơ sở ban đầu trong việc tìm hiểu về đối tượng  
nghiên cứu.  
3.2 Phương pháp nghiên cứu thực tế  
3.2.1 Phương pháp kho sát  
Việc khảo sát đã được tiến tiến hành một cách  
ngẫu nhiên và thu được 32 mẫu khảo sát. Khách thể  
nghiên cứu bao gồm SV các khóa 40, 41, 42 và 43  
(mỗi khóa 8 SV). Những SV này có độ tuổi từ 18  
đến 22, trong đó có 15 khách thể là nam và 17 khách  
thể là nữ. Thêm vào đó, 32 SV này có nhiều mức  
học lực và kiến thức chuyên môn khác nhau do khóa  
học của họ khác nhau. Việc lựa chọn ngẫu nhiên như  
vậy sẽ làm tăng độ tin cậy và tính khách quan của  
kết quả nghiên cứu. Sự khác nhau về niên khóa (độ  
tuổi, kiến thức chuyên ngành,…), giới tính, môi  
trường phát triển,… giúp thu được thông tin đa dạng  
để so sánh và kết luận cho những vấn đề quan trọng  
trong nghiên cứu này.  
Những phương pháp dạy học tích cực cần  
được vận dụng thường xuyên.  
Các phương pháp dạy học như thảo luận nhóm,  
báo cáo chuyên đề, dạy học nêu vấn đề, đóng vai,  
dạy học dự án,… cần được ứng dụng một cách  
thường xuyên trong quá trình phát triển TDPB cho  
người học. Những phương pháp dạy học nói trên có  
vai trò quan trọng trong việc cải thiện khả năng phản  
biện của tư duy vì chúng tạo ra nhiều cơ hội cho cả  
người dạy và người học tranh luận và học tập lẫn  
nhau trong một môi trường học tập tích cực và chủ  
động. Quá trình tiếp thu sẽ hiệu quả hơn nếu SV  
được trao đổi kiến thức và tự hệ thống lại những  
thông tin thu thập được theo cách của riêng mình.  
Thông qua việc khảo sát, những thông tin quan  
trọng và hữu ích cho nghiên cứu này đã được thu  
thập. Cụ thể, sự hiểu biết của SV về TDPB đã được  
làm rõ và đánh giá cụ thể. Bên cạnh đó, thông tin  
khảo sát cho thấy rằng SV có đang được phát triển  
TDPB hay không? Họ có ủng hộ việc phát triển  
TDPB trong dạy học chuyên ngành của mình hay  
không? Hơn nữa, việc khảo sát cũng cho thấy những  
khó khăn mà SV gặp phải trong quá trình học tập  
theo hướng phát triển TDPB.  
Tinh thần hợp tác trong quá trình dạy học là  
điều cần thiết.  
Tinh thần hợp tác là động cơ, là điều kiện giúp  
SV chấp nhận những ý kiến trái ngược hoặc chưa  
phù hợp với hiểu biết của mình. Khi họ có tinh thần  
hợp tác tốt, họ sẽ không ngần ngại để cùng nhau trao  
đổi và giải quyết vấn đề theo hướng chung nhất, phù  
hợp nhất với bối cảnh học tập và vì vậy tư duy sẽ  
được phát triển tốt hơn. Khi SV được trao quyền tự  
do để tiếp nhận và bày tỏ ý kiến, họ dần quen thuộc  
với cách lắng nghe và tiếp nhận những ý kiến khác  
biệt. Sau đó, người học cũng dần hình thành thói  
quen và tinh thần hợp tác vì chỉ khi hợp tác họ mới  
được bày tỏ và lắng nghe.  
3.2.2 Phương pháp phng vn  
Nhằm thu được những thông tin sâu sắc và cụ  
thể hơn về thái độ và hứng thú của SV đối với việc  
phát triển TDPB, việc phỏng vấn SV thuộc các khóa  
khác nhau đã được tiến hành. Cụ thể, khách thể được  
lựa chọn ngẫu nhiên nhằm thu thập được thông tin  
đa dạng và tin cậy. SV được phỏng vấn có độ tuổi  
từ 18 đến 22, gồm 3 SV mỗi khóa từ khóa 40 đến  
khóa 43. Trong đó, có 50 % khách thể phỏng vấn là  
nam và 50 % còn lại là nữ. Cụ thể, 12 mẫu phỏng  
vấn đã được thu thập để tiến hành xử lí và phân tích.  
3 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
3.1 Phương pháp nghiên cứu lí thuyết  
Thông tin phỏng vấn tập trung vào việc giải  
quyết các vấn đề như SV nhận thức như thế nào về  
TDPB? SV đang được phát triển TDPB như thế nào?  
SV đã khắc phục những khó khăn ra sao trong quá  
trình phát triển TDPB của bản thân?  
Để có được sự hiểu biết nền tảng về TDPB, một  
số tư liệu để đã được thu thập và nghiên cứu nhằm  
phân tích và nắm được một số vấn đề TDPB. Cụ thể,  
khái niệm TDPB, vai trò của TDPB trong việc dạy  
học bậc đại học, một số điều kiện và thủ thuật nhằm  
phát triển TDPB đã được tìm hiểu rất kỹ.  
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu còn quan sát và ghi  
nhận được những thông tin thực tế về nhận thức của  
SV ngành SP Địa lí đối với việc phát triển TDPB  
của họ. Có thể nói, vì trực tiếp tham gia vào quá trình  
dạy và học ngành SP Địa lí nên những thông tin thu  
thập được qua việc quan sát có giá trị và độ tin cậy  
cao. Đây cũng có thể được xem là hoạt động dự giờ  
không chính thống trong nghiên cứu khoa học.  
Bên cạnh đó, chương trình và mục tiêu đào tạo  
SV ngành SP Địa lí ở Trường ĐHCT cũng được  
nhóm nghiên cứu quan tâm và tìm hiểu. Thêm vào  
đó, đôi nét về khách thể nghiên cứu và môi trường  
học tập của họ của được phân tích nhằm làm rõ bản  
chất. Tất cả những điều đó nhằm cung cấp những tư  
76  
Tp chí Khoa hc Trường Đại hc Cn Thơ  
Tp 55, S1C (2019): 74-81  
4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN  
4.1 Nhận thức của SV về TDPB  
trong những tình huống thực tế liên quan đến tri thức  
Địa lí để có thể hiểu rõ vấn đề (Grant, 1997). Chẳng  
hạn, đối với học phần Địa Chất Đại cương SV không  
chỉ học thuộc các khái niệm hay miêu tả các quá  
trình hình thành mà còn phải nhận dạng các loại đá  
khi gặp ngoài thực tế thông qua các đặc tính, tính  
chất của nó. Muốn làm được như vậy, SV phải nắm  
được bản chất và sự khác biệt cả về hình thức và tính  
chất của những loại đá này. Như vậy, kết quả nghiên  
cứu cho thấy vẫn còn có SV chưa thực sự hiểu bản  
chất của TDPB, đặc biệt là trong việc học Địa lí và  
còn nhiều trong số họ chưa có TDPB.  
Kết quả khảo sát cho thấy 90,6 % SV cho rằng  
họ hiểu về TDPB và bản chất của TDPB. Tuy nhiên,  
kết quả phỏng vấn cho thấy SV chưa thực sự hiểu về  
bản chất của TDPB và không phải ai cũng hiểu đúng  
về TDPB. Đặc biệt, có 2/12 SV hiểu sai về bản chất  
của TDPB. Cụ thể, họ quan niệm TDPB là tranh cãi  
nhau để kết luận có một người đúng và môt người  
sai. Tuy nhiên, Fisher (2001) và Nosich (2009) kết  
luận rằng TDPB là tư duy tranh luận và phân tích sự  
hiểu biết của mình thông qua giao tiếp và hợp tác  
với mọi người. Nói cách khác, chúng ta không cần  
kết luận ai đúng ai sai mà chỉ cần nhìn nhận vấn đề  
một cách thấu đáo và đa chiều hơn dựa trên những  
lập luận khoa học và có tính logic.  
4.2 Nhận thức của SV về sự cần thiết của  
việc phát triển TDPB  
Kết quả nghiên cứu cho thấy sự cần thiết của  
việc phát triển TDPB được phản ánh ở 5 mức độ  
khác nhau gồm rất cần thiết, cần thiết, bình thường,  
không cần thiết và rất không cần thiết. Trong đó,  
không có SV nào đánh giá TDPB là rất không cần  
thiết trong dạy học chuyên ngành của họ.  
Kết quả khảo sát cũng cho thấy có 75 % SV cho  
rằng họ có kỹ năng TDPB và 25% SV nhận thấy bản  
thân chưa có TDPB. Khi được phỏng vấn, có 9/12  
SV nghĩ rằng bản thân có TDPB vì họ có tham gia  
phát biểu và thảo luận trong các buổi học. Ngược  
lại, có 3/12 SV tự nhận định họ thường ghi chép từ  
bài giảng của giảng viên. Tuy nhiên, người có tư duy  
mang tính phản biện thường đưa ra những luận  
chứng và lí lẻ giúp họ tranh luận và bảo vệ quan  
điểm của mình (Nosich, 2009). Vì vậy, việc cho ý  
kiến và thảo luận về nội dung bài học chưa thực sự  
minh chứng cho năng lực TDPB của SV. Thêm vào  
đó, trong các giờ học thì sự tương tác và thảo luận  
của những SV này lại chưa thể hiện rõ tính phản biện  
của tư duy. Cụ thể, những SV này ít tranh luận trong  
nhóm mà chỉ đồng tình và ủng hộ ý kiến của những  
SV khác.  
Hình 1: Mức độ cần thiết của việc phát triển  
TDPB  
(Ngun: Kết qukho sát (tháng 11, năm 2017), n=32)  
Khi hỏi về TDPB trong việc học Địa lí đa phần  
SV đều nhận định TDPB là sử dụng tư duy của bản  
thân để giải quyết và thảo luận các vấn đề liên quan  
đến kiến thức Địa lí. Cụ thể, SV TTD (lớp SP Địa lí  
khóa 40) cho biết “Khi hc về Địa lí tnhiên, tôi  
không chỉ đọc khái nim Địa lí tgiáo trình hay  
sách giáo khoa mà còn phân tích, chng minh để  
hiu rõ bn cht ca nhng khái nim đó”. Có thể  
hiểu TDPB trong dạy học Địa lí là việc người học  
sử dụng tư duy để nhận xét, phân tích, lí giải, tranh  
luận một vấn đề hoặc một hiện tượng Địa lí. Đó  
không chỉ đơn thuần là việc phân tích lí thuyết mà  
đôi lúc là sự vận dụng kiến thức được học vào thực  
tế thông qua năng lực TDPB. Tuy nhiên, một số SV  
lại cho rằng chỉ cần học thuộc bài và không nhất  
thiết phải rèn luyện TDPB. Cụ thể, một SV khóa 43  
cho biết “Tôi đang sp thi hc phn Địa cht Đại  
cương và tôi nghĩ rng tôi chcn hc thuc bài là  
có thlàm bài thi tt”. Điều SV này nghĩ là không  
đúng vì việc học thuộc chỉ là điều kiện cần thiết. Nói  
cách khác, SV cần tìm hiểu, phân tích và giải thích  
Biểu đồ cho thấy có 21,9 % SV cho rằng việc  
phát triển TDPB là rất cần thiết và có đến 62,5 %  
SV nhận thấy việc phát triển TDPB là cần thiết.  
Những SV lí giải rằng TDPB giúp SV tiếp thu tốt  
kiến thức và ghi nhớ sâu kiến thức chuyên ngành.  
Cụ thể, SV Bùi TTQ (lớp SP Địa lí khóa 40) cho biết  
“TDPB giúp tôi không chkhc sâu kiến thc mà  
còn phát trin kĩ năng giao tiếp, lp lun và trình  
bày vn đề. Nói cách khác, một SV ngành khác có  
thể họ chỉ biết được nước biển mặn, Mặt Trời mọc  
ở hướng Đông nhưng SV ngành SP Địa lí có thể lí  
giải chi tiết được nội dung nếu như họ có TDPB. Tri  
thức Địa lí không phải là bất biến theo thời gian và  
không gian nên SV cần vận dụng chúng một cách  
linh hoạt và có tư duy trong những tình huống cụ  
thể. Để chứng minh một hiện tượng Địa lí, SV cần  
hiểu và phân tích để đưa ra những lập luận với  
những luận cứ chặt chẽ nhằm chứng minh vấn đề.  
Ví dụ, SV LHN (lớp SP Địa lí khóa 41) cho rằng  
“Trong hc phn Địa lí kinh tế - xã hi Vit Nam,  
để chng minh dân snước ta đông tôi cn đưa ra  
77  
Tp chí Khoa hc Trường Đại hc Cn Thơ  
Tp 55, S1C (2019): 74-81  
sliu cthể để lp lun và dn chng. Tuy nhiên,  
dân smi năm đều có sbiến động đòi hi tôi phi  
luôn cp nht và so sánh vi dân scác nước khác.  
Điều đó có nghĩa là đối tượng Địa lí bị biến đổi hoặc  
mang tính đặc thù cao nên việc nhìn nhận vấn đề  
theo nhiều góc độ với tư duy mang tính phản biện là  
điều cần thiết. Như Mendelman (2007) đã kết luận,  
TDPB hỗ trợ người học tiếp cận và xem xét vấn đề  
từ mức độ đơn giản và trên bề mặt đến phức tạp và  
bản chất bên trong, và vì thế kiến thức được khắc  
sâu và toàn diện hơn.  
truyền thống ở các bậc học trước đó làm ảnh hưởng  
đến cách tư duy của họ. Cụ thể, SV TTNY (lớp SP  
Địa lí khóa 43) cho biết “Ttrước đến gi, tôi đã  
quen vi vic ghi chép hoc lng nghe nhng gì  
được truyn đạt nên tôi rt bngkhi phi nhn xét  
và phân tích mt vn đề. Còn khó khăn hơn na khi  
tôi phi đưa ra ý kiến để phn bin li các bn cùng  
lp”. Một SV khác cũng chia sẻ “Lng nghe và ghi  
chép bài tgiáo viên đã trthành thói quen nên tôi  
rt thụ động khi hyêu cu tôi phi đưa ra ý kiến và  
gii thích hay chng minh nhn định ca mình”. Ở  
bậc Trung học Phổ thông, một số giáo viên vẫn còn  
đọc cho học sinh chép lại, sau đó học sinh học thuộc  
bài để làm bài kiểm tra. Khi vào học chuyên ngành  
SP Địa lí, một số người học vẫn quen theo phương  
pháp cũ nên việc tiếp thu và tư duy còn thiếu tính  
phản biện. Như vậy, phương pháp dạy học truyền  
thống ảnh hưởng đến năng lực TDPB của SV ngành  
SP Địa lí.  
Bên cạnh đó, có 12,5 % SV cho rằng việc phát  
triển TDPB là bình thường và có 3,1 % SV nghĩ rằng  
việc phát triển TDPB là không cần thiết trong  
chuyên ngành SP Địa lí và không có khách thể nào  
cho rằng TDPB là rất không cần thiết đối với việc  
học tập của họ. Đây là nhìn nhận khách quan của  
một bộ phận SV về việc phát triển TDPB trong  
chuyên ngành SP Địa lí. Ngược lại với điều đó,  
nhiều SV lại cho rằng TDPB giúp họ không chỉ học  
tốt kiến thức mà còn giải quyết những công việc  
khác trong cuộc sống. Không thể phủ nhận rằng bất  
cứ tình huống nào cũng đòi hỏi chúng ta tư duy sâu  
sắc, đa chiều và có lập luận chặt chẽ. Ví dụ, trong  
kinh doanh muốn bán được hàng hóa chúng ta cần  
thuyết phục khách hàng bằng năng lực thương  
thuyết. Trong dạy học, muốn học sinh hiểu bài giáo  
viên phải có kiến thức và khả năng tư duy tốt để  
cung cấp kiến thức cho học sinh một cách sâu rộng  
nhất. Những năng lực như thương thuyết, trình bày  
và diễn đạt đều là thuộc tính bản chất của một tư duy  
mang tính phản biện (Mendelman, 2007).  
4.3.2 Kiến thc chuyên môn còn hn chế và  
thiếu ngun tư liu để tham kho  
Kết quả phỏng vấn cho thấy có 10/12 SV cho  
rằng kiến thức chuyên môn còn hạn chế đã ảnh  
hưởng đến việc phát triển TDPB của họ. Những SV  
này cho biết họ đã quen với việc giảng viên dạy gì  
thì SV học cái ấy nên họ ít tìm hiểu và đọc thêm các  
tài liệu tham khảo. Cụ thể, SV TTD (lớp SP Địa lí  
khóa 40) cho biết “Trong nhiu trường hp, khi  
trình bày quan đim ca mình và được giáo viên  
hoc SV khác hi ti sao, tôi và nhiu bn không  
biết gii thích thế nào. Thực tế cho thấy, việc phát  
triển TDPB đòi hỏi người học phải chứng minh,  
phân tích về một vấn đề nào đó thông qua cách lập  
luận chặt chẽ. Theo Fisher (2001), Moore and  
Parker (2007), Rainbolt and Dwyer (2012), TDPB  
là kĩ năng tư duy bậc cao bao gồm việc giải thích và  
đánh giá về những điều được bàn luận thông qua  
việc tương tác với người khác. Tuy nhiên, nhiều SV  
còn hạn chế về chuyên môn nên họ gặp khó khăn  
trong việc làm sáng tỏ ý kiến của bản thân.  
Như vậy, phát triển TDPB cho SV là cần thiết vì  
điều này không chỉ giúp cho người học có thể học  
tốt mà còn hỗ trợ họ hoàn thành tốt những công việc  
khác trong học tập cũng như trong cuộc sống.  
Leicester (2010) đã nhấn mạnh TDPB là điều kiện  
cần thiết cho mọi thành tựu giáo dục và là công cụ  
quan trọng cho mục tiêu học tập suốt đời. Kết quả  
nghiên cứu cho thấy mặc dù SV có nhiều cách lí giải  
khác nhau nhưng về cơ bản nhiều SV nắm được sự  
cần thiết của việc phát triển năng lực tư duy này.  
Tuy vậy, vẫn còn một tỉ lệ nhỏ SV chưa hiểu đúng  
về tầm quan trọng của TDPB trong việc học ngành  
SP Địa lí.  
Thêm vào đó, những SV trên cũng chia sẻ việc  
tìm kiếm nguồn tư liệu tham khảo trong chuyên  
ngành SP Địa lí cũng khá khó khăn. Không thể phủ  
nhận rằng, dù Địa lí là một trong những ngành khoa  
học đầu tiên của nhân loại nhưng việc nghiên cứu  
lĩnh vực này không được toàn diện. Bên cạnh đó, do  
khả năng ngoại ngữ và công nghệ thông tin còn hạn  
chế nên SV ngành SP Địa lí ở Trường ĐHCT cũng  
ít có khả năng tiếp cận nguồn tư liệu nước ngoài. Cụ  
thể, việc đọc hiểu tài liệu chuyên môn bằng tiếng  
Anh là một khó khăn lớn của những SV này. Như  
vậy, thiếu nguồn tư liệu tham khảo cản trở lớn đến  
việc nâng cao kiến thức nói chung và việc phát triển  
TDPB nói riêng.  
4.3 Một số khó khăn trong việc phát triển  
TDPB của SV  
4.3.1 Phương pháp dy hc truyn thng nh  
hưởng đến sphát trin ca tư duy  
Từ kết quả khảo sát, 100 % SV cho rằng họ gặp  
khó khăn trong việc phát triển TDPB vì ảnh hưởng  
của những phương pháp dạy học truyền thống. Khi  
được phỏng vấn, có 6/12 SV cho biết cách dạy học  
78  
Tp chí Khoa hc Trường Đại hc Cn Thơ  
Tp 55, S1C (2019): 74-81  
4.3.3 Mt skĩ năng mm vn còn thiếu  
lí, việc bổ sung và cập nhật tư liệu là điều thiết yếu  
vì kiến thức Địa lí có phạm vi rộng bao gồm nhiều  
lĩnh vực và biến động theo không gian và thời gian.  
Điều này cũng được Frijters et al. (2008) đúc kết  
trong nghiên cứu của họ rằng để phát triển TDPB  
lập luận và quan điểm của người học cần được dựa  
trên nhiều nguồn tư liệu khác nhau, có như vậy thì  
độ tin cậy của nó mới cao. Vì vậy, để quá trình phát  
triển tư duy theo hướng phản biện được diễn ra  
thuận lợi và nhanh chóng nhà trường cần hoàn thiện  
hệ thống học liệu cho SV.  
Có 7 trong số 12 SV cho rằng họ gặp khó khăn  
trong việc phát triển TDPB do họ còn thiếu một số  
kĩ năng mềm như làm việc nhóm, thuyết trình trước  
đám đông, lập luận, giao tiếp, hợp tác,... Cụ thể, một  
SV lớp SP Địa lí khóa 41 cho biết, “Tôi đã không  
được đim cao trong bài báo cáo gia kì vchủ đề  
ASEAN do tôi không có khnăng trình bày trước  
đám đông. Khi các bn phn bin tôi không trli  
được mc dù trước đó tôi nm rt rõ vn đề này”.  
Trong việc phát triển TDPB, kỹ năng mềm đóng vai  
trò rất quan trọng vì Rainbolt and Dwyer (2012) đã  
kết luận trong nghiên cứu của họ rằng khi người học  
tương tác với các đối tác có liên quan trong quá trình  
dạy học thì TDPB mới được hình thành và phát  
triển. Sự tương tác được biểu hiện dưới nhiều hình  
thức khác nhau như làm việc chung để giải quyết  
vấn đề, tranh luận, trình bày, thảo luận,... Vì vậy, sự  
hạn chế về kỹ năng mềm là một khó khăn lớn cho  
quá trình phát triển TDPB.  
4.4.3 To môi trường hc tp thun li  
Thông qua kết quả phỏng vấn, có 7/12 SV cho  
rằng tạo môi trường học tập thuận lợi góp phần phát  
triển TDPB. Cụ thể, môi trường học tập thuận lợi  
bao hàm những yếu tố như sau:  
a. Quan hthy – trò  
Qua trao đổi, SV cho biết mối quan hệ thầy-trò  
có vai trò quan trọng trong việc tạo tâm lí cởi mở và  
sự trao đổi thoải mái giữa SV với nhau và giữa SV  
với giảng viên. Cụ thể, cần xóa bỏ khoảng cách  
truyền thống trong mối quan hệ thầy và trò để SV có  
thể trao đổi, phản biện với người dạy một cách cởi  
mở và hiệu quả. Như SV TPDH (lớp SP Đia lí khóa  
41) đã nhận thấy, “Trong các bui phn bin có  
nhiu câu hi khó mà tôi và bn bè không thgii  
quyết được nhưng tôi rt ngi trao đổi vi ging  
viên. Vì vy, tôi nghĩ cn rút ngn khong cách gia  
người dy và người hc để giúp tôi có thêm cơ hi  
trong vic giao tiếp và làm vic vi thy/cô ca  
mình. Có thể thấy, đó là nhận định đúng vì trong  
văn hóa trường học của nước ta, giữa thầy và trò  
luôn có một khoảng cách nhất định. Đối với những  
người có tư duy truyền thống thì khoảng cách này  
lại càng lớn. Vì thế, việc hiện đại hóa cách nhìn nhận  
về mối quan hệ thầy-trò trong việc phát triển TDPB  
là điều cần thiết để có thể phát triển tư duy của SV  
theo hướng phản biện.  
4.4 Đề xuất của SV nhằm phát triển TDPB  
4.4.1 Nâng cao nhn thc ca SV  
Khi được phỏng vấn, có 5/12 SV đề xuất giải  
pháp nhằm nâng cao nhận thức của SV trong việc  
phát triển TDPB. SV TTNY cho biết “Tôi không  
hiểu rõ về TDPB cũng như cách thức để phát triển  
kỹ năng này nên tôi vẫn nghĩ mình có thể học như  
cách truyền thống. Vì thế, cá nhân tôi nhận thấy để  
phát triển được TDPB tôi cần hiểu rõ bản chất của  
kỹ năng tư duy bậc cao này, nắm rõ vai trò và cách  
thức để vận dụng nó vào việc học tập chuyên  
ngành”. Có thể thấy đó là một nhìn nhận hợp lí trong  
trường hợp này. Trước hết, SV cần hiểu rõ bản chất  
của TDPB và sau đó học cách áp dụng vào chuyên  
ngành cho phù hợp. Từ đó, nhận thức của SV sẽ dần  
dần thay đổi để dẫn đến sự chuyển biến tích cực  
trong hành động mà cụ thể là việc vận dụng TDPB  
trong quá trình học tập của họ.  
4.4.2 Bsung ngun tư liu hc tp  
b. Không gian thc, tnghiên cu  
Thông qua kết quả phỏng vấn, hầu hết SV đều  
mong muốn nguồn tư liệu học tập được bổ sung và  
cải thiện để góp phần phát triển TDPB được hiệu  
quả hơn. Một SV ngành SP Địa lí khóa 40 cho biết  
“Tôi nghĩ rng vic bsung ngun tài liu hc tp  
cho chuyên ngành SP Địa lí là điu cn thiết nhm  
giúp SV tiếp cn thông tin đa dng tnhiu ngun  
nhng góc độ khác nhau”. Có thể nói rằng  
trong học tập hay nghiên cứu bất cứ lĩnh vực nào  
cũng cần nguồn tư liệu đa dạng và phong phú. Tư  
liệu học tập là công cụ để cải thiện tri thức của mỗi  
cá nhân và phát triển TDPB vì nó giúp người học có  
được sự hiểu biết sâu rộng về vấn đề để có thể bảo  
vệ quan điểm, tranh luận với người khác hoặc đưa  
ra đầy đủ lập luận khoa học. Đối với ngành SP Địa  
Ngoài việc tạo mối quan hệ thầy – trò cởi mở,  
SV còn cho biết môi trường thuận lợi còn bao gồm  
không gian tự học, tự nghiên cứu để góp phần phát  
triển TDPB. Cụ thể, SV NTN (lớp SP Địa lí khóa  
40) chia sẻ, “Theo tôi, để phát trin TDPB nhà  
trường cn to ra nhiu không gian thc và nghiên  
cu cho SV như phòng đọc sách, phòng tho lun,  
phòng nghe nhìn, phòng thc….. Thực tế,  
Trường ĐHCT và Khoa SP đã bố trí được một số  
không gian tự học như trên, tuy nhiên không thể phủ  
nhận rằng với nhu cầu về việc tự học và nghiên cứu  
nhằm phát triển TDPB tốt hơn thì việc hoàn thiện  
không gian tự học, tự nghiên cứu như kiến nghị của  
SV là điều cần thiết.  
79  
Tp chí Khoa hc Trường Đại hc Cn Thơ  
Tp 55, S1C (2019): 74-81  
c. Không khí lp hc  
nâng cao nhận thức của SV ngành SP Địa lí ở  
Trường ĐHCT, cụ thể như sau:  
Bên cạnh đó, SV cũng nhận định rằng việc tạo  
không khí thoải mái và môi trường học tập năng  
động có thể góp phần tạo điều kiện cho TDPB được  
hình thành và phát triển tốt. Cụ thể, SV LHN (lớp  
SP Địa lí khóa 41) chia sẻ “Trên lp, giáo viên cn  
khuyến khích, to điu kin cho SV tho lun, đóng  
góp và phn hi ý kiến để giúp httin bày tquan  
đim và phn bin ln nhau. Trong trường hp đặc  
bit, ging viên phi dùng ththut để kích ng SV  
tư duy theo hướng có tính phn bin”. Thật vậy,  
không khí và môi trường học tập trong lớp là một  
trong những giải pháp giúp phát triển TDPB hiệu  
quả vì SV có thể đưa ra ý kiến cá nhân về những gì  
được đề cập hoặc những nhiệm vụ học tập cụ thể.  
Khi một vấn đề được đưa ra, mọi người cùng nhau  
trao đổi với tinh thần học hỏi và tiếp thu. Nói cách  
khác, một cá nhân không thể tự mình giải quyết vấn  
đề nhưng một tập thể sẽ dễ dàng làm việc đó.  
5.1 Kết luận  
TDPB là một kỹ năng quan trọng trong việc  
học tập của SV, đặc biệt đối với SV ngành SP Địa lí  
nhưng không phải ai cũng có nhận thức đúng đắn và  
tích cực về kỹ năng tư duy bậc cao này;  
SV ngành SP Địa lí ở Trường ĐHCT có nhận  
thức khá tích cực về tầm quan trọng của việc vận  
dụng TDPB trong dạy học chuyên ngành của họ;  
Trong quá trình phát triển TDPB, SV ngành  
SP Địa lí gặp phải một số khó khăn và với sự hiểu  
biết, quan điểm cá nhân của mình họ đã đề xuất một  
số giải pháp để giải quyết những khó khăn đó.  
5.2 Đề xuất  
5.2.1 Đối vi nhà trường  
Lãnh đạo nhà trường cần tạo môi trường học tập  
thuận lợi nhằm giúp SV phát triển TDPB, cụ thể nhà  
trường cần:  
4.4.4 Rèn luyn kĩ năng cho SV  
Có 100% SV quan niệm rằng để phát triển TDPB  
cần nâng cao kỹ năng giao tiếp, rèn luyện sự tự tin  
thông qua việc tham gia các lớp tập huấn về kĩ năng  
mềm hoặc hoạt động xã hội, các buổi học qua trải  
nghiệm thực tế, tọa đàm,... Nhiều SV cho biết một  
số học phần đã được lồng ghép việc rèn luyện kỹ  
năng TDPB vào các buổi học. SV TTD đã chia sẻ  
“Trong hc phn Tp Ging tôi đã không xlí tt  
tình hung SP và không truyn đạt tt kiến thc do  
shn chế vknăng gii quyết tình hung và thiếu  
ttin. Vì vy, tôi nghĩ rng để phát trin TDPB  
trong dy hc Địa lí SV cn rèn luyn các knăng  
trong đó có knăng gii quyết tình hung và trình  
bày mt vn đề trước đám đông. Một số SV khác  
cho biết họ được học tập qua trải nghiệm thực tế ở  
các học phần như Kỹ thuật dạy học Địa lí, Địa lí kinh  
tế - xã hội Việt Nam, Địa danh Việt Nam,… nên  
điều đó đã giúp họ có tư duy sâu sắc về đối tượng  
Địa lí theo hướng phản biện và thực tế. Ten Dam  
and Volman (2004) đã đề xuất ý kiến cho việc phát  
triển tư duy của người học theo hướng phản biện và  
thực tiễn rằng hãy biến lớp học thành một xã hội thu  
nhỏ nơi có đầy đủ tình huống giúp người học được  
trải nghiệm, thể hiện và chiêm nghiệm. Và tất nhiên,  
các kĩ năng như giao tiếp, hợp tác, tự nghiên cứu,  
giải quyết tình huống,… là yếu tố cần thiết để giúp  
người học trải nghiệm trong môi trường học tập như  
vậy. Qua đó cho thấy để SV rèn luyện hiệu quả kỹ  
năng TDPB cần nâng cao kiến thức chuyên môn cho  
SV kết hợp với việc rèn luyện các kỹ năng cần thiết.  
Hoàn thiện hơn cơ sở vật chất, đặc biệt là cơ  
sở vật chất liên quan đến việc đào tạo và phát triển  
TDPB cho SV ngành SP Địa lí như phòng tự học,  
phòng thảo luận, phòng nghe nhìn,…;  
Bổ sung các nguồn tư liệu học tập chuyên  
ngành SP Đia lí, đặc biệt là các nguồn tư liệu mới  
cập nhật và tư liệu nước ngoài;  
Đưa vào chương trình đào tạo mục tiêu phát  
triển TDPB cho SV ngành SP Địa lí.  
5.2.2 Đối vi ging viên  
Giảng viên ngành SP Địa lí phải là những người  
vừa truyền đạt kiến thức vừa tạo mọi điều kiện để  
SV phát triển TDPB. Để làm được điều đó, người  
dạy cần sử dụng những phương pháp dạy học hiện  
đại có lồng ghép những thủ thuật nhằm giúp SV phát  
triển TDPB.  
Thêm vào đó, trong quá trình phát triển TDPB  
cho SV nếu giáo viên gặp những khó khăn và cần sự  
hỗ trợ họ cũng cần kiến nghị với lãnh đạo Khoa SP  
và Trường ĐHCT để có cách khắc phục kịp thời.  
5.2.3 Đối vi SV  
SV ngành SP Địa lí cần tìm hiểu về bản chất của  
TDPB và vai trò của nó đối với việc học chuyên  
ngành của mình. Đồng thời, họ cần chủ động rèn  
luyện kỹ năng mềm và không ngừng nâng cao kiến  
thức chuyên môn vì đó là những điều kiện tiên quyết  
để phát triển tư duy bậc cao này.  
5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT  
Để nâng cao nhận thức của SV về việc phát triển  
TDPB trong học tập ngành SP Địa lí, một số giải  
pháp được đề xuất như sau:  
Từ việc phân tích kết quả nghiên cứu, nhóm  
nghiên cứu có một số kết luận và kiến nghị nhằm  
80  
Tp chí Khoa hc Trường Đại hc Cn Thơ  
Tp 55, S1C (2019): 74-81  
Leicester, M., 2010. Teaching critical thinking skills.  
Continuum Press. New York, 121 pages.  
Thứ nhất, mở các lớp tập huấn, hội thảo hoặc  
mời chuyên gia về trình bày về TDPB và phát triển  
TDPB cho SV ngành SP Địa lí.  
Mendelman, L., 2007. Critical thinking and reading.  
Journal of Adolescent and Adult Literacy. 51(4):  
300 - 304.  
Thứ hai, tổ chức các buổi tọa đàm, giao lưu  
giữa các khóa và các hoạt động xã hội để thu hút SV  
tham và cải thiện những kĩ năng cần thiết.  
Moore, B. N., and Parker, R.,2007. Critical thinking  
(8th ed.). McGraw Hill Pres. Boston, 545 pages.  
Thứ ba, đòi hỏi SV chủ động tìm hiểu về việc  
phát triển TDPB và áp dụng vào chuyên ngành của  
mình một cách hợp lí và đúng cách.  
Nosich, G. M.,2009. Learning to think things  
through: A guide to critical thinking across the  
curriculum (3rd ed.). Pearson Prentice Hall  
Press. New Jersey, 197 pages.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
Rainbolt, G. W., and Dwyer, S., 2012. Critical  
thinking: the art of argument. Wadsworth  
Cengage Learning Press. Boston, 465 pages.  
Fisher, A.,2001. Critical thinking: An introduction.  
Cambridge University Press. Cambridge – UK,  
295 pages.  
Ten Dam, G., and Volman, M., 2004. Critical thinking  
as a citizenship competence: Teaching strategies.  
Learning and Instruction. 14(4): 359-379.  
Frijters, S., ten Dam, G., and Rijlaarsdam, G., 2008.  
Effects of dialogic learning on value-loaded  
critical thinking. Learning and Instruction. 18(1):  
66 – 82.  
Tham, T.C., 2015. Lecturers’ perceptions about  
employing critical thinking in educating  
geography pedagogy students at Can Tho  
University, Vietnam. Can Tho University Journal  
of Science. 1: 96-109.  
Grant, R.,1997. A claim for the case method in the  
teaching of geography. Journal of Geography in  
Higher Education. 21(2):171 - 185.  
81  
pdf 8 trang yennguyen 16/04/2022 2940
Bạn đang xem tài liệu "Nhận thức của sinh viên về việc phát triển tư duy phản biện trong dạy học ngành Sư phạm Địa lí ở trường Đại học Cần Thơ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfnhan_thuc_cua_sinh_vien_ve_viec_phat_trien_tu_duy_phan_bien.pdf