Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội

Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm  
thành lập Trường ĐHVHHN  
MỘT SỐ TRAO ĐỔI VỀ ĐÀO TẠO NGUỒN NHÂN LỰC  
DU LỊCH Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HÓA HÀ NỘI  
NINH THỊ THƯƠNG  
Tóm tắt  
Đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở Trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã đi được chặng đường 25 năm,  
đây là dấu mốc ý nghĩa đối với giảng viên và sinh viên Khoa Du lịch, đồng thời cũng là thời điểm quan  
trọng để Trường và Khoa thực hiện việc đánh giá về hoạt động đào tạo để có thể nâng cao chất lượng  
đào tạo trong một bối cảnh mới. Bài viết đề cập khái quát về bối cảnh chung, phân tích điểm mạnh,  
điểm yếu, cơ hội và thách thức của đào tạo nhân lực ngành Du lịch tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội,  
góp phần xác lập định hướng chiến lược cho công tác đào tạo nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao  
đáp ứng nhu cầu xã hội.  
Từ khóa: Đại học Văn hóa Hà Nội, đào tạo, nguồn nhân lực, du lịch  
Abstract  
Training human resources on tourism at the Hanoi University of Culture has had a 25-year journey,  
this is a significant milestone for lecturers and students of Tourism Faculty, and it is also time for the  
University and Faculty to assess the training activities in order to improve the quality of training in  
a new context. The article provides an overview of the general context, analyzes the strengths,  
weaknesses, opportunities and threats of training human resources in the field of tourism at Hanoi  
University of Culture, contributing to establishing strategic directions for training high quality tourism  
human resources to meet social needs.  
Keywords: Hanoi University of Culture, training, human resources, tourism  
1. Bối cảnh chung  
iệt Nam là quốc gia có tiềm năng  
thể coi là kỳ tích tăng trưởng về tổng số khách  
quốc tế và mức tăng trưởng số lượng khách  
quốc tế trong một năm đạt 3 triệu lượt khách  
so với năm 2016 (7). Đến năm 2018, Du lịchViệt  
Nam đã có kết quả tăng trưởng vượt bậc, ước  
đón 15,6 triệu lượt khách quốc tế, phục vụ trên  
80 triệu lượt khách nội địa, tổng thu từ khách  
du lịch đạt hơn 620.000 tỷ đồng (8). Có thể  
thấy rằng, kết quả tăng trưởng này cùng với  
những tiềm năng mà du lịch đã mang lại cho  
sự phát triển đất nước thì Đảng, Nhà nước cần  
tiếp tục quan tâm, định hướng phát triển du  
lịch theo hướng bền vững để đến năm 2020,  
phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi  
nhọn, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong cơ  
cấu GDP, có tính chuyên nghiệp, có hệ thống  
du lịch phong phú và đa dạng, với  
hệ thống các di tích lịch sử - văn  
V
hóa, danh lam thắng cảnh, khu du lịch quốc  
gia,… trải dài trên khắp đất nước, đây là tiền  
đề quan trọng để du lịch - ngànhcông nghiệp  
không khói” phát triển mạnh mẽ. Và thực tế,  
du lịch đã có những đóng góp quan trọng cho  
sự phát triển kinh tế xã hội trong các năm gần  
đây. Năm 2017, ngành Du lịch đã đón 13 triệu  
lượt khách quốc tế, tăng 30% so với cùng kỳ  
năm 2016, phục vụ 73,2 triệu lượt khách nội  
địa, tổng thu từ khách du lịch đạt hơn 510.900  
tỷ đồng, tương đương 23 tỷ đô la Mỹ. Đây có  
NGHIÊN CỨU  
Số 27 - Tháng 3 - 2019  
121  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
cơ sở vật chất tương đối đồng bộ, hiện đại,  
sản phẩm du lịch có chất lượng cao, đa dạng,  
có thương hiệu, mang đậm bản sắc văn hóa  
dân tộc, cạnh tranh được với các nước trong  
khu vực và thế giới. Đến năm 2030, Việt Nam  
trở thành quốc gia có ngành du lịch phát triển  
(10). Để đạt được những mục tiêu trên thì vấn  
đề cần được quan tâm hiện nay là phải nâng  
cao chất lượng dịch vụ du lịch, môi trường du  
lịch nhân văn, bền vững, phát triển thị trường,  
xúc tiến quảng bá, xây dựng thương hiệu quốc  
gia về du lịch và đặc biệt là quan tâm đầu tư,  
phát triển nguồn nhân lực du lịch có chất  
lượng cao đáp ứng nhu cầu xã hội.  
do các cơ sở đào tạo cung cấp cho thị trường  
vẫn còn thiếu so với thực tế và chưa đáp ứng  
được yêu cầu của nhà tuyển dụng, nhất là  
nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Thậm  
chí, khi tiếp nhận các sinh viên tốt nghiệp  
ngành Du lịch về làm việc, các cơ quan, doanh  
nghiệp vẫn phải mất thời gian đào tạo lại bởi  
thiếu sự chuyên nghiệp về kỹ năng và kiến  
thức thực tế. Đặc biệt, điểm yếu lớn của nguồn  
nhân lực du lịch Việt Nam là trình độ ngoại ngữ  
và tin học.  
Chính vì vậy, công tác đào tạo nguồn lực  
du lịch cần phải được chú trọng, đặc biệt là  
nguồn nhân lực du lịch chất lượng cao. Đây là  
nhiệm vụ trọng tâm của các cơ sở đào tạo du  
lịch. Công văn số 4929/BGDĐT-GDĐH ngày 20  
tháng 10 năm 2017 của Bộ Giáo dục và Đào  
tạo về việc áp dụng cơ chế đặc thù các ngành  
về du lịch cũng đã định hướng cho các trường  
là “phải điều chỉnh chương trình đào tạo theo  
hướng mở, dễ dàng chuyển đổi, liên thông;  
bao gồm các học phần cốt lõi và các học phần  
tự chọn. Trong đó, các học phần cốt lõi nhằm  
cung cấp kiến thức, kỹ năng nền tảng của  
ngành đào tạo, còn các học phần tự chọn tập  
trung theo hướng chuyên sâu về các lĩnh vực  
du lịch theo vùng miền, khu vực địa lý, loại hình  
du lịch... Rút ngắn thời gian đào tạo phù hợp  
với Khung cơ cấu hệ thống giáo dục quốc dân.  
Tăng thời gian đào tạo thực hành, thực tập tại  
doanh nghiệp. Cơ sở đào tạo tự chủ lựa chọn  
doanh nghiệp đối tác; chịu trách nhiệm trong  
việc kiểm tra điều kiện đảm bảo chất lượng và  
năng lực tham gia đào tạo của doanh nghiệp  
đối tác trong quá trình phối hợp đào tạo và tổ  
chức cho sinh viên thực hành, thực tập…; phối  
hợp xây dựng nguồn học liệu dùng chung đặc  
biệt là nguồn học liệu điện tử. Nghiên cứu việc  
công nhận một số học phần mà người học tích  
lũy được từ các khóa đào tạo cấp chứng chỉ  
về nghiệp vụ du lịch tương đương với một số  
môn học, tín chỉ trong chương trình đào tạo  
đại học thông qua quy trình đánh giá và công  
nhận tín chỉ của các cơ sở đào tạo” (3). Sự thay  
đổi trong đào tạo nhằm cung cấp được nguồn  
Theo thống kê của Vụ Đào tạo, Bộ Văn  
hóa, Thể thao và Du lịch, tính đến năm 2016,  
cả nước có khoảng 156 cơ sở tham gia đào  
tạo nhân lực du lịch ở trình độ đại học, cao  
đẳng, trung cấp và đào tạo ngắn hạn, gồm: 48  
trường đại học; 43 trường cao đẳng (trong đó  
có 10 trường cao đẳng nghề); 40 trường trung  
cấp (trong đó có 4 trường trung cấp nghề); 02  
công ty đào tạo và 23 trung tâm, lớp đào tạo  
nghề. Mỗi năm có khoảng 20 nghìn sinh viên  
du lịch tốt nghiệp, trong số đó chỉ có khoảng  
1.800 sinh viên đại học, cao đẳng chuyên  
nghiệp, 2.100 sinh viên cao đẳng nghề du lịch,  
còn lại là học sinh trung cấp, sơ cấp và đào tạo  
ngắn hạn dưới ba tháng (1) .  
Hiện nay, cả nước có trên 1,3 triệu lao động  
làm việc trong lĩnh vực du lịch, chiếm khoảng  
2,5% tổng lao động cả nước; trong đó chỉ có  
42% được đào tạo về du lịch, 38% từ các ngành  
đào tạo khác chuyển sang và khoảng 20% chưa  
qua đào tạo chính quy mà chỉ được huấn luyện  
tại chỗ. Chất lượng nguồn nhân lực du lịch còn  
thấp, tỷ lệ lao động có chuyên môn, nghiệp vụ  
về du lịch chỉ chiếm 43% tổng số lao động du  
lịch, trong đó có hơn một nửa là không biết  
ngoại ngữ. Năng suất lao động trong ngành  
Du lịch nước ta chỉ bằng 1/15 của Singapore,  
1/10 của Nhật Bản và 1/15 của Malaysia,... (4).  
Theo thống kê của Tổng cục Du lịch, mỗi năm,  
ngành Du lịch cần thêm gần 40.000 lao động.  
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, nguồn nhân lực  
122 Số 27 - Tháng 3 - 2019  
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm  
thành lập Trường ĐHVHHN  
nhân lực cao, chất lượng, đáp ứng nhu cầu của  
nhà tuyển dụng và xã hội, đặc biệt trong thời  
kỳ Cách mạng công nghiệp 4.0 nhằm hướng  
tớidu lịch thông minh. Đây là xu thế phát triển  
tất yếu của thế giới, hướng tới sự phát triển  
bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh  
trong du lịch.  
kết quả tinh thần và vật chất do tác động tương  
hỗ lẫn nhau giữa 3 loại: nhu cầu văn hoá và tình  
cảm tinh thần của chủ thể du lịch (du khách), nội  
dung và giá trị văn hoá của khách thể du lịch (là  
tài nguyên du lịch có thể thoả mãn sự hưởng thụ  
tinh thần và vật chất của người du lịch), ý thức  
và tố chất văn hoá của người môi giới phục vụ  
du lịch (hướng dẫn viên, thuyết minh viên, người  
thiết kế sản phẩm, nhân viên phục vụ…) sản sinh  
ra” (6). Như vậy, văn hóa du lịch là sự gắn kết  
chặt chẽ giữa văn hóa và du lịch. Việt Nam là  
quốc gia có nền văn hóa dân tộc phong phú và  
đậm đà bản sắc dân tộc, vì vậy, du lịch văn hóa  
trở thành một trong những thế mạnh nổi trội.  
Ngày nay, du lịch văn hóa ngày càng thu hút  
khách du lịch tìm đến những giá trị về nguồn,  
tìm hiểu, trải nghiệm các giá trị di sản văn hóa  
đậm đà bản sắc của các tộc người góp phần  
bảo tồn văn hóa dân tộc. Trong quá trình đào  
tạo, khoa đã tổ chức các chuyến đi như Du lịch  
về nguồn, Hành trình di sản miền Trung,... Có thể  
thấy rằng, Khoa Du lịch đã thực hiện tốt công  
tác đào tạo theo chủ trương phát triển du lịch  
trên cơ sở bảo tồn và phát huy các giá trị di  
sản văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc,  
góp phần thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW  
của Bộ Chính trị về phát triển du lịch trở thành  
ngành kinh tế mũi nhọn.  
2. Đánh giá về hoạt động đào tạo du lịch tại  
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội  
Chuyên ngành Văn hóa du lịch được đào  
tạo tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội từ năm  
1993. Năm 2000, Khoa Văn hóa du lịch chính  
thức được thành lập. Năm 2018, thực hiện  
theo định hướng phát triển chung của Bộ Văn  
hóa, Thể thao và Du lịch, tên khoa được điều  
chỉnh thành Khoa Du lịch. Đến thời điểm hiện  
nay, sau 25 năm xây dựng và phát triển, Khoa  
Du lịch đã khẳng định được vị thế của mình  
thông qua 22 khóa sinh viên tốt nghiệp, cung  
cấp nguồn nhân lực có chất lượng, hoạt động  
hiệu quả trên nhiều lĩnh vực của ngành du lịch.  
Hoạt động đào tạo được triển khai đa dạng với  
nhiều phương thức, loại hình và các ngành,  
chuyên ngành khác nhau.  
Mặc dù cả nước có rất nhiều cơ sở cùng  
đào tạo nguồn nhân lực du lịch, nhưng Khoa  
Du lịch, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội vẫn là  
cơ sở có uy tín về đào tạo nguồn nhân lực du  
lịch cho đất nước với những đặc thù cũng như  
thế mạnh riêng.  
Tiếp tục khẳng định vị thế đào tạo của mình,  
vừa qua Khoa Du lịch đã tổ chức chương trình  
Nhận diện thương hiệu” với việc công bố logo  
và slogan mới: “Đi cùng tri thức, thể hiện rõ hai  
định hướng lớn là “Làm rõ giá trị du lịch của văn  
hóa” và “Làm rõ giá trị văn hóa trong du lịch. Đây  
chắc chắn sẽ là động lực để Khoa hướng tới  
mục tiêu chiến lược đào tạo nguồn nhân lực du  
lịch chất lượng cao đáp ứng nhu cầu thực tế xã  
hội để phát triển du lịch bền vững.  
2.1. Điểm mạnh (S)  
Với truyền thống đào tạo 25 năm, Khoa Du  
lịch đã xây dựng cho mình hình ảnh thương  
hiệu riêng, đó là nghiên cứu, khai thác các giá  
trị văn hóa để phát triển du lịch, phát huy được  
lợi thế của một cơ sở đào tạo văn hóa. Theo  
PGS.TS. Dương Văn Sáu, “Văn hóa Du lịch là  
khoa học nghiên cứu, khai thác có chọn lọc các  
giá trị của văn hóa để phát triển du lịch và nâng  
cao hàm lượng văn hóa trong các mối quan  
hệ cung - cầu của hoạt động du lịch, góp phần  
quảng bá văn hóa Việt Nam, tạo sự phát triển du  
lịch bền vững” (10). Hay “Văn hoá du lịch không  
phải là phép cộng đơn giản giữa văn hoá và du  
lịch mà là sự kết hợp giữa du lịch và văn hoá, là  
Từ năm 2012, Khoa Du lịch đã thực hiện  
chuyển đổi sang đào tạo theo phương thức tín  
chỉ. Phương thức đào tạo theo học chế tín chỉ đã  
tạo nhiều lợi thế về sự linh hoạt, hiệu quả trong  
đào tạo, phù hợp với nhu cầu xã hội hiện nay.  
Đội ngũ cán bộ, giảng viên của Khoa hiện  
có 17 người. Các giảng viên đều có trình độ đạt  
NGHIÊN CỨU  
Số 27 - Tháng 3 - 2019  
123  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
chuẩn từ thạc sĩ trở lên, có kiến thức chuyên  
sâu, chuyên ngành về văn hóa du lịch, có kinh  
nghiệm giảng dạy lâu năm, đảm bảo yêu cầu  
đào tạo của nhà trường.  
Công tác quản trị và phát triển nguồn nhân  
lực của đơn vị nằm trong định hướng hoạt  
động chung của nhà trường chưa tương xứng  
với yêu cầu phát triển của Khoa. Cụ thể, nếu so  
sánh với bề dày 25 năm xây dựng, phát triển  
của Khoa, thì số lượng giảng viên, chuyên gia  
trình độ cao cấp còn tương đối khiêm tốn với 1  
phó giáo sư tiến sĩ, 2 nghiên cứu sinh.  
Sinh viên du lịch có chất lượng đầu vào  
cao, năng động, có khả năng tiếp cận với môi  
trường thực tiễn nghề nghiệp, tìm kiếm được  
việc làm trong quá trình học tập tại trường và  
sau khi tốt nghiệp. Đội ngũ cựu sinh viên ra  
trường, phát triển, thành đạt có mối gắn kết  
chặt chẽ, hỗ trợ Khoa trong quá trình đào tạo.  
Một số chương trình có sự chia sẻ kinh nghiệm,  
kỹ năng của cựu sinh viên như: Chương trình  
khởi nghiệp (2016); Hội thảoMối liên hệ giữa cơ  
sở đào tạo với xã hội trong đào tạo nhân lực du  
lịch ở Việt Nam hiện nay” (2018); Cuộc thi Hành  
trình cùng hướng dẫn viên du lịch được tổ chức  
thường niên đã trở thành một trong những sản  
phẩm đặc trưng của quá trình đào tạo nhân lực  
du lịch ở Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. “Sản  
phẩm đặc hữu” này cùng với nhiều chuỗi các  
sự kiện được tổ chức bài bản, chất lượng, hiệu  
quả, thường xuyên, liên tục… đã góp phần tạo  
nên thế mạnh trong đào tạo nhân lực du lịch ở  
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.  
Chương trình đào tạo sau 5 năm chuyển  
đổi theo phương thức đào tạo tín chỉ đã đến  
thời điểm cần rà soát, điều chỉnh cập nhật, đặc  
biệt là một số điểm còn hạn chế cần nhanh  
chóng cải tiến để đạt được mục tiêu phát triển  
của khoa/ngành như bổ sung kiến thức, kỹ  
năng để đáp ứng các yêu cầu hội nhập, yêu  
cầu của Cách mạng công nghiệp 4.0, hay nhu  
cầu của xã hội thông qua việc khai thác hiệu  
quả sự tham gia góp ý của các bên liên quan,  
bao gồm các cơ quan, doanh nghiệp du lịch,  
đội ngũ chuyên gia…  
Cơ sở vật chất phục vụ cho học chuyên  
ngành và thực hành đã được đầu tư, tuy nhiên  
so với nhu cầu phát triển thực tế thì vẫn còn  
một khoảng cách. Các hình thức ký kết với  
doanh nghiệp du lịch chưa đa dạng, mới tập  
trung cho các kỳ thực tập, thực tế. Còn thiếu  
cơ chế và sự phối hợp đồng bộ trong việc thúc  
đẩy doanh nghiệp tham gia vào quá trình  
giảng dạy và học tập để có được tính ứng  
dụng thực tiễn cao hơn.  
2.2. Điểm yếu (W)  
Là khoa đầu tiên và duy nhất cho đến hiện  
nay (3/2019) trong Trường Đại học Văn hóa Hà  
Nội xây dựng và công bố bộ nhận diện thương  
hiệu, tuy nhiên, hoạt động này vẫn còn những  
hạn chế về sự đồng bộ và đa dạng. Chẳng hạn,  
khi Khoa công bố logo và slogan để “Nhận diện  
thương hiệu” nhưng những điều kiện về cơ chế  
hoạt động cũng như điều kiện về cơ sở vật  
chất kỹ thuật chưa đảm bảo, chưa tương thích.  
Bên cạnh đó, hoạt động quản trị cũng chưa  
đủ để tạo ra giá trị tích cực cho thương hiệu,  
để trở thành thương hiệu mạnh, đạt đến mức  
“là toàn cảm nhận của khách hàng về công  
ty trong tâm trí của họ” (9). Hoạt động hoạch  
định chiến lược phát triển dài hạn còn chưa cụ  
thể; đồng thời nhà trường chưa khẳng định rõ  
vai trò quan trọng, mũi nhọn của Khoa Du lịch  
trong sự phát triển chung của Trường.  
Các hoạt động trợ giúp sinh viên tìm kiếm  
việc làm hiện nay hiệu quả chưa cao, tỷ lệ sinh  
viên có việc làm đúng ngành chưa tương xứng  
với mong đợi. Theo kết quả khảo sát tình hình  
việc làm của sinh viên tốt nghiệp năm 2017 chỉ  
có 65% sinh viên tốt nghiệp làm đúng ngành  
hoặc liên quan đến ngành đào tạo (13). Sự  
quan tâm khai thác nguồn lực từ cựu sinh viên,  
đặc biệt là cựu sinh viên du lịch thành đạt, đã  
được chú ý nhưng hiệu quả còn ở mức hạn chế  
do rất nhiều nguyên nhân khác nhau, trong khi  
đó đây là nguồn lực có tiềm năng góp phần  
vào việc tiếp nhận đầu ra, quảng bá hình ảnh,  
giới thiệu việc làm, trao đổi kinh nghiệm...  
124 Số 27 - Tháng 3 - 2019  
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm  
thành lập Trường ĐHVHHN  
2.3. Cơ hội (O)  
Vingroup nhằm tạo điều kiện cho sinh viên  
thực tập, thực hành tại các cơ sở hoạt động  
trong lĩnh vực du lịch thuộc sở hữu hoặc quản  
lý của Vinpearl, đồng thời còn là các cam kết  
về cơ hội làm việc tại Vinpearl cùng các hoạt  
động hỗ trợ sinh viên bao gồm hoạt động tư  
vấn hướng nghiệp, chương trình Tour tham  
quan thực tế nghề nghiệp...  
Phát triển du lịch được xác định là nhiệm  
vụ chiến lược, góp phần chuyển dịch cơ cấu  
kinh tế, bảo tồn và phát huy các giá trị văn  
hóa, tài nguyên du lịch của đất nước, hơn nữa  
sẽ là cơ hội để đẩy mạnh hợp tác và hội nhập,  
qua đó quảng bá hình ảnh Việt Nam với các  
nước trên thế giới. Với tầm quan trọng của  
ngành Du lịch, năm 2017, Bộ Chính trị đã ban  
hành nghị quyết số 08-NQ/TW về phát triển  
du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn. Đó  
là định hướng quan trọng để phát triển kinh  
tế đất nước. Hiện nay, ngành Du lịch Việt Nam  
đang được coi là ngành trọng điểm, có nhiều  
tín hiệu mới cho sự phát triển, thu hút được sự  
quan tâm của toàn xã hội.  
2.4. Thách thức (T)  
Có thể thấy rằng, hiện nay có nhiều cơ hội  
mở ra cho việc đào tạo nguồn nhân lực du lịch.  
Tuy nhiên, công tác đào tạo này cũng phải đối  
mặt với nhiều thách thức.  
Cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0 đã và  
đang tác động đến mọi lĩnh vực của xã hội,  
trong đó ngành Du lịch cũng cần phải thay đổi  
để phù hợp với xu thế phát triển, đó là phát  
triển nguồn nhân lực trong thời đại số. Thực tế  
đó đòi hỏi phải có nguồn nhân lực du lịch chất  
lượng cao, có khả năng đáp ứng nhu cầu xã  
hội và thị trường lao động, đặc biệt khi ngành  
Du lịch hướng tới “du lịch thông minh. Tuy  
nhiên, thực tế đào tạo hiện nay cho thấy điều  
kiện về mặt trang thiết bị khoa học kỹ thuật  
và công nghệ chưa đáp ứng; trình độ chuyên  
môn sử dụng công nghệ hiện đại của cán bộ  
giảng viên chưa cao.  
Khoa Du lịch được coi là một trong những  
ngành đào tạo mũi nhọn của Trường, vì vậy các  
hoạt động phục vụ cho quá trình đào tạo được  
Nhà trường quan tâm đầu tư nguồn lực như  
tăng số lượng giảng viên cơ hữu có chuyên  
môn nghiệp vụ du lịch, phòng học thực hành,  
khuyến khích ký kết hợp tác với các cơ quan,  
doanh nghiệp du lịch.  
Nhu cầu của xã hội đối với nguồn nhân lực  
du lịch ngày càng lớn. Thực tế mỗi năm, các  
trường đào tạo chuyên ngành về du lịch chỉ  
đáp ứng được 60% nhu cầu của ngành, dẫn  
đến tình trạng thiếu nguồn nhân lực du lịch  
trầm trọng, đặc biệt là nguồn nhân lực du lịch  
chất lượng cao. Vì vậy, Khoa Du lịch đang trong  
thời điểm phát triển, nguyện vọng đăng ký vào  
trường nhiều năm nay vẫn duy trì ở mức cao,  
điểm và chất lượng đầu vào tốt. Đây chính là  
động lực để khoa tiếp tục có định hướng phát  
triển trong quá trình đào tạo nguồn nhân lực  
cho đất nước.  
Trong quá trình đào tạo, Khoa Du lịch gặp  
phải sự cạnh tranh gay gắt với các chương trình  
đào tạo khác ngoài Trường và cả các chương  
trình liên kết hoặc du nhập từ nước ngoài. Tác  
động của hội nhập và toàn cầu hóa, sự cạnh  
tranh của nguồn nhân lực các nước trong khu  
vực đòi hỏi chương trình đào tạo ngành Du  
lịch phải đáp ứng nhiều tiêu chuẩn nghề của  
quốc gia và khu vực.  
Hơn nữa, đào tạo du lịch tại Trường Đại học  
Văn hóa Hà Nội với hướng đi riêng như đã nói  
ở trên là khai thác các giá trị văn hóa để phát  
triển du lịch sẽ vẫn tạo được uy tín trong các cơ  
sở đào tạo du lịch. Chính vì vậy, Khoa cần nắm  
bắt cơ hội nhằm thu hút nguồn tuyển sinh cho  
các năm tiếp theo.  
Môi trường làm việc của ngành Du lịch  
trong nước so với thế giới và khu vực còn chưa  
thực sự chuyên nghiệp. Cụ thể, đó là sự thiếu  
chặt chẽ về pháp luật, quy định, sự hạn chế về  
năng lực quản lý, điều hành, về kỹ năng nghiệp  
vụ, trình độ ngoại ngữ, tác phong, thái độ, đạo  
đức nghề nghiệp, trách nhiệm xã hội,… của  
đội ngũ giảng viên còn chưa đáp ứng yêu cầu  
đặt ra từ thực tiễn dẫn đến khoảng cách giữa  
Nhà trường đã ký kết thỏa thuận hợp tác  
với Công ty Cổ phần Vinpearl thuộc Tập đoàn  
NGHIÊN CỨU  
Số 27 - Tháng 3 - 2019  
125  
V
ĂN H Ó  
A
NGHIÊN CỨU  
V
ĂN H Ó  
A
mục tiêu đào tạo của Khoa với thực tế đòi hỏi  
của thị trường lao động. Bên cạnh đó, một số  
tác động khách quan của đời sống xã hội cũng  
ảnh hưởng đến định hướng, mục tiêu của  
người học dẫn đến chất lượng đào tạo chưa  
thực sự đáp ứng nhu cầu thực tế.  
sinh viên bằng cách xây dựng các chương  
trình đào tạo gắn kết chặt chẽ giữa trường đại  
học với thế giới nghề nghiệp (thị trường lao  
động) trong mọi khâu của quá trình đào tạo  
như: phát triển chương trình đào tạo, tổ chức  
hoạt động đào tạo gồm dạy học và thực hành,  
kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của sinh  
viên. Đồng thời chương trình POHE tiếp cận  
dựa trên năng lực, có nghĩa là hướng tới hình  
thành năng lực làm việc, trang bị đầy đủ kiến  
thức, kỹ năng và thái độ cho người học, nhằm  
đáp ứng với đòi hỏi ngày càng cao của thế giới  
việc làm. Vì vậy, chương trình POHE có sự phù  
hợp với các ngành đòi hỏi kỹ năng thực hành  
cao như du lịch.  
3. Một số đề xuất, kiến nghị  
Để công tác đào tạo du lịch tại Trường Đại  
học Văn hóa Hà Nội có bước tiến mới trong một  
bối cảnh mới với nhiều cơ hội và thách thức,  
cần thực hiện một số nội dung cụ thể sau:  
Thứ nhất, cần xác định xây dựng khoa/  
ngành đào tạo du lịch trở thành một thương  
hiệu mạnh, đóng vai trò nòng cốt, mũi nhọn  
trong định hướng chiến lược để phát triển  
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. Xác định mục  
tiêu sứ mạng của Khoa là đào tạo nguồn nhân  
lực chất lượng cao, có khả năng đáp ứng tốt  
các yêu cầu của ngành Du lịch, không chỉ thu  
hẹp trong phạm vi đất nước mà mở rộng ra  
thị trường quốc tế, để từ đó có tầm nhìn chiến  
lược là trở thành một địa chỉ đào tạo nguồn  
nhân lực du lịch có uy tín trong khu vực ASEAN.  
Cùng với đó, cần xây dựng cơ chế trong nhà  
trường để quản lý các hoạt động liên quan  
đến hoạch định và quản trị chiến lược, quản  
trị thương hiệu và cũng cần có sự hỗ trợ tư  
vấn bởi đội ngũ chuyên môn để có được tính  
chuyên nghiệp. Các hoạt động truyền thông  
cần được thực hiện một cách bài bản và có sự  
đo lường đánh giá về hiệu quả.  
Thứ ba, tiếp tục nâng cao trình độ cho giảng  
viên bởi đây là yếu tố có vai trò quyết định tới  
chất lượng đào tạo của Khoa. Trước hết giảng  
viên cần học tập để nâng cao trình độ chuyên  
môn, đồng thời Khoa cần có chiến lược để gia  
tăng số lượng giảng viên có trình độ tiến sĩ.  
Bên cạnh đó cần tập trung nâng cao năng lực  
và kinh nghiệm thực hành nghề nghiệp, khả  
năng thực hiện các phương thức dạy học tích  
cực tạo sự hứng thú và chủ động cho sinh viên  
đồng thời phải có khả năng tốt về tiếng Anh,  
có năng lực nghiên cứu khoa học ứng dụng và  
quan hệ với thế giới nghề nghiệp.  
Thứ tư, đẩy mạnh hoạt động liên kết trong  
công tác đào tạo nhân lực du lịch với các cơ  
sở đào tạo, tổ chức, doanh nghiệp du lịch  
trong và ngoài nước trong quá trình thực hiện  
chương trình đào tạo theo định hướng nghề  
nghiệp ứng dụng một cách bền vững và toàn  
diện. Đó là sự tham gia trực tiếp của các đơn vị  
này vào quá trình xây dựng, bổ sung và hoàn  
thiện chuẩn đầu ra, nội dung chương trình  
đào tạo; liên kết với nhiều hình thức đa dạng  
để đào tạo các năng lực làm việc và kỹ năng  
thực hành theo nhu cầu; đặt ra các bài tập tình  
huống, bài tập nghiên cứu xảy ra thực tiễn tại  
các doanh nghiệp; tham gia vào công tác đánh  
giá kỹ năng thực hành nghề của sinh viên,  
đánh giá và kiểm định chất lượng của chương  
trình đào tạo…  
Thứ hai, xây dựng, cập nhật chương trình  
đào tạo gắn với chuẩn đầu ra, nhu cầu thực  
tiễn của xã hội và vị trí việc làm của nhà tuyển  
dụng. Đổi mới chương trình đào tạo theo  
hướng giảm tải các học phần lý thuyết, tăng  
cường các giờ học ngoại khóa, thực hành,  
thực tập, tạo sự hứng thú và rèn luyện các kỹ  
năng cho người học. Trong định hướng chiến  
lược, Nhà trường nên lựa chọn các ngành về  
du lịch để xây dựng chương trình đào tạo  
theo chương trình định hướng nghề nghiệp  
ứng dụng POHE (Profession - Oriented Higher  
Education). Chương trình POHE tập trung vào  
mục tiêu nâng cao năng lực nghề nghiệp của  
126 Số 27 - Tháng 3 - 2019  
Số chuyên đề Kỷ niệm 60 năm  
thành lập Trường ĐHVHHN  
Bộ Giáo dục và Đào tạo, Dự án Giáo dục đại học  
Việt Nam - Hà Lan, Hà Nội.  
Thứ năm, đầu tư cơ sở vật chất, hệ thống  
học liệu, tài liệu tham khảo và trang thiết bị  
đặc thù để sinh viên thực hành với những học  
phần mang tính đặc trưng nghề nghiệp. Phát  
triển các hệ thống hỗ trợ học tập tiếp cận với  
xu hướng 4.0 (hệ thống học trực tuyến, dữ liệu  
số,...) để tạo ra năng lực cần thiết cho sinh viên  
trong cạnh tranh và đáp ứng yêu cầu của thị  
trường lao động trong tương lai.  
6. Đổng Ngọc Minh, Vương Lôi Đình (2001),  
Kinh tế du lịch và Du lịch học, Nxb. Trẻ, Thành phố  
Hồ Chí Minh.  
7. Lâm Minh (2017), Năm 2017 đánh dấu kỳ  
tích tăng trưởng của du lịch Việt Nam, http://  
toquoc.vn/du-lich/nam-2017-danh-dau-ky-tich-  
tang-truong-cua-du-lich-viet-nam-268735.html  
Kết luận  
8. Hoa Quỳnh (2018), Du lịch Việt Nam 2018:  
nam-2018-thu-qua-ngot/c/29187864.epi  
Có thể thấy rằng, nguồn nhân lực du lịch,  
đặc biệt là nguồn nhân lực du lịch chất lượng  
cao đóng vai trò quan trọng trong quá trình  
phát triển đất nước nhằm hướng tới mục tiêu  
ngành Du lịch trở thành ngành kinh tế mũi  
nhọn vào năm 2020 và hướng tới du lịch thông  
minh trong cuộc Cách mạng công nghiệp 4.0.  
Vì vậy, việc nhìn nhận và đánh giá quá trình  
đào tạo nhân lực du lịch của Trường Đại học  
Văn hóa Hà Nội trong giai đoạn này là cần thiết  
(mà bài viết này chỉ có tính chất tham góp)  
để có chiến lược phát triển, đào tạo nguồn  
nhân lực đáp ứng yêu cầu môi trường làm việc  
chuyên nghiệp trong nước và quốc tế.  
9. Saobang Media (2017), Thương hiệu, nhận  
diện thương hiệu và biểu trưng là gì?, http://www.  
brandsvietnam.com/congdong/topic/5449-  
Thuong-hieu-nhan-dien-thuong-hieu-va-bieu-  
trung-la-gi  
10. Dương Văn Sáu (2017), Giáo trình Văn hóa  
du lịch, Nxb. Lao động, Hà Nội.  
11. Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định  
số 2473/QĐ TTG phê duyệt Chiến lược phát triển  
du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm  
2030.  
12. Trường Đại học Kinh tế quốc dân (2009),  
Sách hướng dẫn chương trình giáo dục đại học  
định hướng nghề nghiệp ứng dụng ngành Du lịch  
và Khách sạn, Hà Nội.  
N.T.T  
(ThS., Khoa Văn hóa dân tộc thiểu số,  
Trường ĐHVHHN)  
13. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2018), Báo  
cáo tình hình việc làm của sinh viên tốt nghiệp năm  
Tài liệu tham khảo  
1. Yến Anh (2017), Cơ chế đặc thù đào tạo  
khoa-hoc/co-che-dac-thu-dao-tao-nhan-luc-du-  
lich-20171121214756709.htm  
Ngày nhận bài: 16 - 1 - 2019  
Ngày phản biện, đánh giá: 25 - 2 - 2019  
Ngày chấp nhận đăng: 20 - 3 - 2019  
2. Ban Chấp hành Trung ương (2017), Nghị  
quyết số 08-NQ/TW ngày 16/01/2017 của Bộ Chính  
trị về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi  
nhọn.  
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2017), Công văn  
số 4929/BGDĐT-GDĐH ngày 20/10/2017 về việc áp  
dụng cơ chế đặc thù đào tạo các ngành về du lịch.  
4. Hồ Hạ (2018), Nhân lực du lịch: Vừa thiếu,  
vua-thieu-vua-yeu-320283.html  
5. Phạm Thị Hương, Trần Đăng Hòa, Nguyễn  
Đức Xuân Chương (2009), Sổ tay giảng viên Pohe,  
NGHIÊN CỨU  
Số 27 - Tháng 3 - 2019  
127  
V
ĂN H Ó  
A
pdf 7 trang yennguyen 16/04/2022 3780
Bạn đang xem tài liệu "Một số trao đổi về đào tạo nguồn nhân lực du lịch ở trường Đại học Văn hóa Hà Nội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmot_so_trao_doi_ve_dao_tao_nguon_nhan_luc_du_lich_o_truong_d.pdf