Lịch hiệp kỷ dưới triều Nguyễn (1802-1883)
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021
54
LỊCH HIỆP KỶ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN (1802 - 1883)
TRƯƠNG ANH THUẬN*
Trên cơ sở khai thác nguồn sử liệu gốc được biên soạn dưới triều Nguyễn và
một số thành quả nghiên cứu của các học giả có liên quan đến vấn đề lịch sử
thiên văn, lịch pháp ở Việt Nam, bài viết bước đầu khảo cứu về lịch Hiệp Kỷ dưới
triều Nguyễn (1802-1883). Từ đó làm rõ vấn đề phân loại, quy trình biên soạn, in
ấn và ban lịch của các hoàng đế vương triều Nguyễn. Kết quả nghiên cứu không
chỉ đóng góp đối với quá trình nghiên cứu lịch sử thiên văn và lịch pháp Việt
Nam ở thế kỷ XIX mà còn góp phần phục dựng “bức tranh” khoa học kỹ thuật
của nước ta trong giai đoạn này, qua đó giúp giới nghiên cứu có cái nhìn khách
quan và toàn diện hơn trong việc đánh giá vai trò của triều đại quân chủ cuối
cùng trong lịch sử Việt Nam.
Từ khóa: lịch Hiệp Kỷ, triều Nguyễn, ban sóc, Ngự lịch, Quan lịch, Dân lịch
Nhận bài ngày: 29/11/2020; đưa vào biên tập: 5/12/2020; phản biện: 13/12/2021;
duyệt đăng: 7/1/2021
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
lịch của Trung Hoa, nhƣng cũng có
không ít giai đoạn, các vua chúa Việt
Nam với lòng tự tôn dân tộc và để thể
hiện ảnh hƣởng, uy quyền của mình
đối với dân chúng trong nƣớc cũng
nhƣ các vùng đất phiên thuộc xung
quanh nên đã cho biên soạn và đặt
tên riêng cho niên lịch của triều đại
mình, mặc dù vẫn dựa trên cách tính
lịch của phƣơng Bắc(1). “Theo quan
niệm xƣa, soạn lịch và ban lịch đó là
trách nhiệm của vua thiên tử. Là trung
gian giữa trời và dân, vua phải biết
ngày tháng và thời tiết trong năm của
những tế lễ và nông vụ, để thay trời
nhũ bảo cho dân bằng lịch. Về chính
trị, thiên tử cũng dùng sự ban lịch, gọi
là ban sóc, để tƣợng trƣng oai quyền
đối với chƣ hầu” (Hoàng Xuân Hãn,
1982: 55). Trên cơ sở ý niệm đó, bốn
vị hoàng đế đầu triều Nguyễn là Gia
Trong tiến trình lịch sử của dân tộc,
việc sử dụng lịch thƣ để nắm rõ ngày,
tháng và các mùa trong năm, nhằm
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và
các hoạt động khác, đối với ngƣời
Việt không là điều mới mẻ. Trong một
khảo cứu chuyên sâu về lịch và lịch
Việt Nam, Hoàng Xuân Hãn (1982:
53-59) chỉ ra rằng, những ý niệm về
ngày, tháng, năm của ngƣời Việt đã
xuất hiện từ giai đoạn Văn Lang - Âu
Lạc và việc sử dụng lịch của dân tộc
ta cũng đƣợc bắt đầu từ rất sớm: thời
Bắc thuộc. Trải qua các giai đoạn
Ngô - Đinh - Tiền Lê, Lý - Trần - Hồ,
Trịnh - Nguyễn phân tranh và thời kỳ
Tây Sơn, có lúc ngƣời Việt sử dụng
* Trƣờng Đại học Đà Nẵng.
TRƢƠNG ANH THUẬN – LỊCH HIỆP KỶ DƢỚI TRIỀU NGUYỄN…
55
Long, Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự nguyệt lệnh, mà biên rõ những nhật kì
Đức khi lên nắm quyền cai trị quốc gia
đã theo tiền lệ của các triều đại trƣớc,
tiến hành biên soạn và ban bố lịch thƣ.
Theo sử liệu, từ năm 1813, triều
Nguyễn bắt đầu đƣa vào sử dụng lịch
Hiệp Kỷ biên soạn theo phép Thời
Hiến để thay thế cho lịch Vạn Toàn
tính theo phép Đại Thống lƣu hành
trƣớc đó. Trên thực tế, tùy vào đối
tƣợng sử dụng là vua, quan hay dân
mà loại lịch này cũng đƣợc làm ra với
một số điểm khác biệt nhất định về
hình thức bên ngoài, chất liệu in ấn và
số lƣợng. Trải qua bốn triều vua, các
quy định về hoạt động biên soạn, in
ấn và ban hành lịch Hiệp Kỷ hàng
năm cũng dần đƣợc bổ sung và hoàn
chỉnh, nhất là ở giai đoạn trị vì của
hoàng đế Minh Mạng.
cấm giới, ghi bằng chữ son. Lệ cứ
tháng 9 đóng ấn, tháng 11 ban lịch,
tháng 12 ban cấp cho các dân xã, đổi
chữ „mang chủng‟ trong lịch là tiết
„mang hiện‟”. Cách tính lịch theo phép
Đại Thống đƣợc sử dụng khá phổ
biến ở Việt Nam từ thế kỷ XV đến đầu
thế kỷ XIX(3). Tuy nhiên, cách tính lịch
này càng về sau càng phát sinh nhiều
sai lệch, nhất là trong việc suy tính
các hiện tƣợng nhật thực, nguyệt thực
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006a:
498)(4). Vì vậy, các lịch quan triều
Nguyễn muốn tìm kiếm một loại lịch
pháp khác để thay thế. Năm 1808,
Nguyễn Hữu Thận - vị quan giỏi thiên
văn, lịch pháp, trong quá trình đi sứ
bên Trung Hoa đã có cơ hội tiếp cận
với các tài liệu lịch thƣ do lịch quan
ngƣời Trung Hoa và phƣơng Tây hợp
soạn. Trong đó, quan trọng nhất có
thể kể đến bộ Đại Thanh lịch tượng
khảo thành thư. Ông nhanh chóng
nhận ra những nguyên lý thiên văn và
toán học về cách tính lịch, cũng nhƣ
các hƣớng dẫn cụ thể về việc biên
soạn lịch theo phép Thời Hiến đƣợc
đề cập trong bộ sách này, có thể giúp
cho việc tính toán và biên soạn lịch
thƣ tại Khâm Thiên giám của các lịch
quan ngƣời Việt trở nên thuận tiện và
chính xác hơn. Chính vì vậy, Gia Long
năm thứ 9 (1810), khi về đến Kinh đô
Huế, ông đã mang bộ Đại Thanh lịch
tượng khảo thành thư (大清曆象考成書)
Và đó cũng chính là lý do tác giả tập
trung nghiên cứu lịch Hiệp Kỷ giai
đoạn này (1802-1883), mặc dù loại
lịch này đƣợc triều Nguyễn ban hành
và sử dụng đến năm 1945.
2. NHẬN DIỆN LỊCH HIỆP KỶ DƯỚI
TRIỀU NGUYỄN (1802-1883)
Đầu thời Gia Long, loại lịch triều
Nguyễn sử dụng là lịch Vạn Toàn (萬全
曆)(2). Đây là loại lịch biên soạn dựa
trên phép Đại Thống của Trung Hoa.
Phan Thúc Trực (2009: 49) trong
Quốc triều di biên cho biết: tháng
10/1802, Gia Long cho “ban hành lịch
Vạn Toàn. Lịch này trên bày sao tốt,
dƣới bày hung tinh, và thêm phép bát
môn chọn ngày tốt. Ấn đóng lịch có dâng lên hoàng đế và tâu rằng: “Kính
khắc những chữ „Trị lịch minh thời chi cáo cho thần dân biết thời tiết làm
ruộng là công việc đầu tiên của ngƣời
bảo (治 曆 明 時 之 寶 )‟. Bỏ thời tiết 12
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021
56
làm chủ một nƣớc. Quyển lịch „Vạn phong tƣớc bá. Từ đấy, nguyệt lệnh,
Toàn‟ của nƣớc ta, cùng với quyển lịch pháp đều theo phép nhà Lê (?)” (8).
„Thời Hiến thƣ‟ của nƣớc Đại Thanh, Nhƣ vậy, từ năm Quý Dậu 1813, lịch
từ trƣớc đến giờ đều dùng theo „Đại Việt Nam với tên gọi Hiệp Kỷ(9), soạn
Thống lịch pháp‟ của nhà Minh, hơn theo phép Thời Hiến đã đƣợc chính
300 năm nay chƣa có đổi định lại(5), thức đƣa vào sử dụng, thay thế cho
nên càng lâu càng sai. Khoảng năm lịch Vạn Toàn soạn theo phép Đại
Thanh Khang Hy mới tham khảo cách Thống trƣớc đó.
tính lịch của Tây dƣơng, làm thành
Dƣới triều Nguyễn, lịch Hiệp Kỷ đƣợc
sách này, về phép đo lƣờng, suy tính
ban bố và sử dụng trong triều đình
rất rõ ràng, so với sách Đại Thống
cũng nhƣ ở các địa phƣơng mang
càng kỹ lƣỡng hơn. Mà về phép tính
tính chất pháp định và chia làm ba loại:
tam tuyến bát giác (三線八角: Lƣợng
giác - TG) tinh diệu, xin giao cho
Khâm Thiên giám, bảo các sinh viên
về môn thiên văn xem xét tìm cách
tính, thì độ số của trời đƣợc đều, mà
tiết hậu đƣợc đúng vậy”(6). Gia Long
đồng ý theo cách tính lịch này. Tháng
Giêng, năm 1812, Nguyễn Hữu Thận
đƣợc bổ làm Phó quản lý Khâm Thiên
Ngự lịch, Quan lịch và Dân lịch. Việc
phân biệt ba loại lịch nhƣ trên chủ yếu
căn cứ vào đối tƣợng sử dụng cũng
nhƣ hình thức, chất liệu in ấn, còn nội
dung bên trong không có sự khác biệt
lớn. Vì mỗi năm, Khâm Thiên giám -
Cơ quan nghiên cứu thiên văn, lịch
pháp của triều Nguyễn chỉ có thể tính
toán và làm ra một bản lịch cho năm
giám Kinh sƣ(7), đảm nhận nhiệm vụ sau để ban bố trong toàn quốc.
soạn lịch năm sau theo phép lịch Đại
Ngự lịch là loại lịch đặc biệt đƣợc
Thanh (Thời Hiến). Ngày Sóc, tháng
Khâm Thiên giám làm để dâng lên
Chạp năm 1812, triều Nguyễn tiến
hoàng đế. Vì có liên quan trực tiếp
hành lễ ban lịch mới, đổi tên lịch Vạn
Toàn thành lịch Hiệp Kỷ (協紀曆) (Quốc
sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1:
853). Nói về sự kiện này, Phan Thúc
Trực (2009: 132-133) trong Quốc triều
di biên chép: “Tháng 12... đổi lịch Vạn
Toàn làm lịch Hiệp Kỷ. Cho: Lễ bộ
thƣợng thƣ, Hoa Phong hầu Phạm
Nhƣ Đăng quản lý Khâm Thiên giám
đến nhà vua, nên việc ghi chép về
Ngự lịch trong các sử liệu triều
Nguyễn tƣơng đối rõ ràng, chi tiết cả
về hình thức bên ngoài, lẫn bố cục và
nội dung bên trong. Ngự lịch đƣợc
đóng thành quyển, bìa lịch làm từ một
miếng đoạn đỏ, trên mặt dùng tơ vàng
thêu 8 con rồng mây và 2 chữ “Ngự
lịch”. Bên trong quyển Ngự lịch, ngoài
sự vụ; Hữu tham tri Chân Nguyên hầu nội dung của quyển lịch Hiệp Kỷ thông
Nguyễn Hữu Thận làm phó quản lý sự thƣờng, triều Nguyễn còn quy định,
đối với những ngày diễn ra các sự
kiện quan trọng của triều đình và
hoàng gia (tế trời đất và các vị thần,
vụ; Hoàng Công Dƣơng làm Khâm
Thiên giám phó; Lý Văn Cƣ trở xuống
11 ngƣời làm Chiêm hậu quan, đều
TRƢƠNG ANH THUẬN – LỊCH HIỆP KỶ DƢỚI TRIỀU NGUYỄN…
57
cúng tổ tiên của dòng họ Nguyễn…) việc ban cấp công lịch hàng năm cho
hay những ngày kiêng kỵ thì đƣợc ghi
rõ trong quyển lịch (Nội các triều
Nguyễn, 1993: 442).
các địa phƣơng, triều Nguyễn căn cứ
vào quy mô của các tỉnh để phân
hạng. Trong đó, tỉnh lớn 70 quyển,
tỉnh vừa 45 quyển, tỉnh nhỏ 30 quyển.
Ở cấp phủ, huyện, triều đình quy định
số lƣợng Quan lịch đƣợc nhận thống
nhất trong cả nƣớc với 5 quyển và 3
quyển tƣơng ứng với mỗi đơn vị hành
chính. Đặc biệt, việc ban lịch của
vƣơng triều Nguyễn còn đƣợc tiến
hành đối với các quan viên, chức sắc
đơn vị hành chính làng, xã hay các tổ
chức trong quân đội. Điều này đƣợc
ghi rõ trong Khâm định Đại Nam hội
điển sự lệ: “Các quan mỗi đội cùng
tổng, xã, thôn, phƣờng ấp, tấn, bảo,
đồn… đều 1 quyển” (Nội các triều
Nguyễn, 1993: 443). Ngoài ra, đối với
những vùng đất phiên thuộc quốc
vƣơng của các nƣớc này mỗi năm
cũng đƣợc triều đình nhà Nguyễn cấp
1 quyển Quan lịch. Tuy nhiên, đến
thời Minh Mạng, việc cấp Quan lịch
cho các nƣớc phiên thuộc có sự thay
đổi. Việc ban cấp số Quan lịch há nên
nhất thiết nệ theo lệ còn là nƣớc
Phiên nhƣ năm trƣớc (Lệ cũ: 1 quyển
Quan lịch, 100 quyển Dân lịch). Xin
nên coi nhƣ những lƣu quan, liệu
giảm (phần nào) mà phát: (Mỗi năm
phát cho: Quận chúa 10 quyển, Huyện
quân mỗi ngƣời 9 quyển, Chƣởng vệ
mỗi ngƣời 8 quyển, Vệ úy mỗi ngƣời
5 quyển, Quản cơ và Phủ huyện mỗi
ngƣời 3 quyển, Suất đội và Chánh đội
trƣởng, Đội trƣởng theo làm việc trong
hạt mỗi ngƣời 1 quyển)” (Quốc sử
quán triều Nguyễn, 2006, tập 5: 612).
Quan lịch là loại lịch ban cho quan lại
trong triều đình và ở các địa phƣơng,
kể cả những vùng đất có quan hệ tông
phiên với chính quyền triều Nguyễn
lúc bấy giờ. Cũng giống nhƣ Ngự lịch,
Quan lịch đƣợc đóng thành bản.
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ cho
biết: “Những ngày cấm hát xƣớng,
mặc áo đỏ áo tía thì vòng một khuyên
mực đen to. Những ngày cấm hành
hình mổ lợn trâu thì vòng một khuyên
mực đen nhỏ, làm dấu” (Nội các triều
Nguyễn, 1993: 442). Đối với loại lịch
này, triều Nguyễn quy định: “Lịch công
ban cho quan lại trong ngoài, văn tứ
phẩm, vũ tam phẩm trở lên lệ cứ in
bằng giấy nguyên giáp, mặt lịch đƣợc
đóng ấn „Hoàng đế chi bảo (皇帝之寶)‟,
còn các loại khác đều đóng ấn Khâm
Thiên giám (欽天監印)” (Nội các triều
Nguyễn, 1993: 442). Để ấn định số
lƣợng công lịch ban cấp cho quan lại
trong một năm, triều đình chủ yếu dựa
vào phẩm trật của họ: “Phàm ban lịch
thì quan chánh nhất phẩm 25 quyển,
tòng nhất phẩm 23 quyển, chánh nhị
phẩm 20 quyển, tòng nhị phẩm 18
quyển, chánh tam phẩm 12 quyển,
tòng tam phẩm 10 quyển, tứ phẩm ấn
quan 8 quyển (trên này trong có 1
quyển giấy nguyên giáp), tứ phẩm 5
quyển, ngũ phẩm 3 quyển, lục thất
phẩm đều 2 quyển, bát cửu phẩm
cùng vị nhập lƣu đều 1 quyển” (Nội
các triều Nguyễn, 1993: 443). Đối với
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021
58
Đối với Dân lịch không những đƣợc in thay đổi. Năm 1821, nhà vua ban chỉ
ấn và ban phát đến mọi thần dân rằng: “Trừ lệ trƣớc mỗi năm in 20.000
trong nƣớc mà còn đƣợc ban cấp cho quyển rồi, cho từ năm Nhâm Dần về
cả thần dân các vùng đất phiên thuộc.
sau, mỗi năm in thêm 3.000 quyển
cho đủ ban phát” (Nội các triều
Nguyễn, 1993: 454). Đến năm 1823,
mặc dù số lịch in thêm 3.000 quyển
cấp phát ở Kinh đô đã dƣ thừa,
nhƣng hoàng đế vẫn chuẩn y cho in
thêm 5 quyển lịch nữa và lấy đó làm
lệ mãi mãi (Nội các triều Nguyễn,
1993: 454-455). Tuy nhiên, lệ này
đến năm 1831 lại sửa đổi, khi nhà vua
cho ban sắc nói rõ: “Việc hàng năm
thêm số lịch 5 quyển. Nay đổi làm mỗi
năm thêm 1 quyển, chép ra làm lệ mãi
mãi” (Nội các triều Nguyễn, 1993:
455). Sau đó, dƣới hai triều Thiệu Trị
và Tự Đức, hoạt động ban cấp lịch
Hiệp Kỷ cho quan lại và dân chúng
vẫn tiếp tục duy trì mà không có sự bổ
sung, thay đổi hay ban hành thêm các
quy định mới.
Về số lƣợng Dân lịch, mặc dù kỹ thuật
in lịch rất lạc hậu, chủ yếu dùng mộc
bản gỗ khắc chữ, mỗi lần chỉ in đƣợc
một tờ, nhƣng hàng năm triều đình
vẫn tổ chức in và cung cấp số lƣợng
lịch tƣơng đối lớn cho dân chúng từ
Kinh đô cho đến các tỉnh, phủ, huyện
cũng nhƣ các làng xóm xa xôi nhất
trong cả nƣớc. Gia Long năm thứ 8
(1809), triều đình ấn định số lƣợng
lịch công in ở Gia Định để cấp phát
cho dân chúng ở khu vực từ Bình
Thuận trở vào Nam là 13.001 quyển.
Số lƣợng lịch in tại Bắc thành cấp
phát cho dân chúng khu vực từ Ninh
Bình trở ra Bắc là 20.000 quyển.
Trong khi đó, cùng năm này, mặc dù
không đề cập tới tổng số lƣợng lịch
đƣợc in để ban cấp ở khu vực từ
Thanh Hóa đến Khánh Hòa, tuy nhiên,
qua việc vua Gia Long chuẩn y lời tâu
“ở Kinh in thêm 20.000 quyển lịch
công để ban cho các tỉnh Nam từ trấn
Bình Hòa, Bắc từ đạo Thanh Bình trở
3. QUY TRÌNH BIÊN SOẠN, IN ẤN
VÀ NGHI THỨC BAN HÀNH LỊCH
HIỆP KỶ DƯỚI TRIỀU NGUYỄN
(1802-1883)
3.1. Quy trình biên soạn lịch Hiệp
vào” (Nội các triều Nguyễn, 1993: Kỷ
454), cho thấy số lƣợng lịch in ở Kinh
Triều Nguyễn đặt ra những định lệ cụ
đô Huế lớn hơn nhiều so với số lƣợng
ấn định.
thể trong công việc biên soạn lịch
Hiệp Kỷ. Vào tháng 2 hàng năm,
Khâm Thiên giám sẽ bắt đầu suy tính
việc in lịch cho năm sau. Đến tháng 5
cho khắc bản mẫu. Đối với hai địa
phƣơng Hà Nội và Gia Định, do điều
Đến thời Minh Mạng, nhà vua vẫn
theo lệ cũ, giữ nguyên số lƣợng công
lịch ban cấp cho khu vực miền Nam
(in tại Gia Định) và miền Bắc (in tại
Bắc thành) đã ấn định dƣới triều Gia kiện xa xôi, nên cho “khắc bản mẫu
Long. Tuy nhiên, số lƣợng lịch in và lịch phát trạm đƣa đến… mỗi nơi đều
ban cấp hàng năm ở Kinh đô có sự hai bản, nhận giao cho hai tỉnh ấy
TRƢƠNG ANH THUẬN – LỊCH HIỆP KỶ DƢỚI TRIỀU NGUYỄN…
59
theo lịch mẫu khắc bản in ra” (Nội các Minh Mạng năm thứ 13 (1832) quy
triều Nguyễn, 1993: 453). Tuy nhiên,
hai địa phƣơng này vẫn phải phái
ngƣời đến Khâm Thiên giám lĩnh
nhận bìa lịch làm bằng giấy vàng có
đóng ấn Hoàng đế chi bảo và Khâm
Thiên giám ấn. Sau đó, phu trạm sẽ
vận chuyển số bìa ấy đến hai tỉnh.
“Bìa mặt lịch về thành Gia Định
13.001 tờ, bìa mặt lịch về Bắc thành
20.000 tờ, vẫn chia chứa 3 hòm, phái
bắt phu trạm đài đệ chuyển giao
quan tổng trấn hai thành ấy nhận lĩnh”
(Nội các triều Nguyễn, 1993: 454).
Sau khi bìa lịch chuyển tới nơi, hai
tỉnh này sẽ phái một thuộc quan đem
bìa lịch bằng giấy vàng và một bản
lịch mới in xong đóng thành quyển
trình lên bộ Lễ, tiếp theo chuyển đến
Khâm Thiên giám xem xét tính chính
xác và hợp pháp, nếu không có vấn
đề gì thì cho mang về địa phƣơng,
dựa vào đó mà đóng quyển ban phát
khắp nơi (Nội các triều Nguyễn, 1993:
453-454).
trình in ấn và ban cấp lịch nêu trên
đƣợc cụ thể hóa thêm một bƣớc nữa.
Khu vực từ Thanh Hóa đến Bình
Thuận việc in và ban lịch vẫn do
Khâm Thiên giám đảm nhận nhƣ lệ
cũ, nhƣng các tỉnh thuộc hai khu vực
từ Ninh Bình trở ra Bắc và Bình
Thuận trở vào Nam, phải cử ngƣời về
Hà Nội và Phiên An, trên cơ sở bản
khắc in do Khâm Thiên giám gửi đến
(khoảng tháng 5 hàng năm), tiến hành
in ấn đủ số lƣợng lịch cần cấp phát ở
địa phƣơng mình, sau đó mang về
tỉnh cất giữ. Đợi đến tháng 9, Khâm
Thiên giám chiếu theo số lƣợng lịch
đã in để cấp bìa lịch giấy vàng, để kịp
đóng quyển ban cấp cho năm sau
(Nội các triều Nguyễn, 1993: 456).
Sang năm 1833, Minh Mạng lại điều
chỉnh khu vực trực thuộc ban cấp lịch
nhƣ sau: “Lệ trƣớc hàng năm lịch
công các hạt từ Khánh Hòa đến
Thanh Hóa, đều do ở Kinh ban cấp.
Nay xét hai tỉnh ấy đến Kinh hơi xa,
mà Nam đến Gia Định, bắc đến Hà
Nội lại gần. Vậy từ sang năm về sau
in lịch công trừ ra Quảng Nam đến
Phú Yên, Quảng Trị đến Nghệ An vẫn
ở Kinh ban lịch nhƣ cũ. Còn từ Khánh
Hòa vào Nam… Thanh Hóa trở ra Bắc
đến Cao Bằng đều do Gia Định, Hà
Nội theo lệ in lịch phát cấp” (Nội các
triều Nguyễn, 1993: 473-474). Nhƣ
vậy, từ năm 1834, hai tỉnh Thanh Hóa
và Khánh Hòa không còn nhận lịch
trực tiếp từ Kinh đô nữa.
3.2. In ấn và ban hành lịch Hiệp Kỷ
Về việc in ấn và ban hành lịch Hiệp Kỷ,
từ năm 1812, triều Nguyễn tiến hành
trên cơ sở phân chia theo khu vực địa
lý. Các tỉnh từ Thanh Hóa đến Khánh
Hòa, trong đó bao gồm cả Kinh đô
Huế, lịch công đều do Khâm Thiên
giám in và phát. Các tỉnh từ Bình
Thuận trở vào Nam và từ Ninh Bình
trở ra Bắc, bản khắc in và bìa lịch sẽ
đƣợc Khâm Thiên giám đƣa đến Hà
Nội và Gia Định để chiếu theo số
lƣợng in ấn và phát cho các tỉnh (Nội
các triều Nguyễn, 1993: 453, 456). Đến
Về thời gian dâng lịch, ban lịch, trong
Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ còn
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021
60
ghi chép rõ: “Hàng năm làm xong bản Minh Mạng. Ở giai đoạn trị vì của Gia
thảo Hiệp Kỷ lịch, về lịch vua dùng thì
kính cẩn viết tốt, lịch công thì tháng 5
theo lệ khắc bản in lịch. Tháng 10
đóng ấn kim bảo và đóng ấn Khâm
Thiên giám, đóng thành quyển lịch.
Đến ngày mồng 1 tháng 12 làm lễ ban
sóc. Những lịch thờ ở miếu điện,
dâng lên Từ cung và lịch vua dùng
đều phải đƣa lên. Lịch công thì do bộ
Hộ chiếu lệ ban cấp” (Nội các triều
Nguyễn, 1993: 471). Thời gian tiến
hành nghi lễ ban lịch ở các địa
phƣơng thuộc ba khu vực từ Thanh
Hóa đến Khánh Hòa, từ Ninh Bình trở
ra Bắc và từ Bình Thuận trở vào Nam
cũng đƣợc triều Nguyễn quy định cụ
thể. Theo đó, hàng năm, vào ngày
mồng 1 tháng 12, “quan thành Gia
Định và Bắc thành, sức cho quan các
trấn mặc triều phục đến hành cung
bái vọng làm lễ thụ lịch. Xong rồi đem
những quyển lịch ở thành ra in theo
lệ ban cấp chia công, chép ra làm
phép thƣờng. Lại chuẩn định: các
dinh trấn từ Bình Hòa trở ra, Thanh
Hóa trở vào, lệ trƣớc đều đến ngày
mồng 1 tháng 12 ban lịch, quan bộ
mới đƣa giao lịch cho các trấn ấy”
(Nội các triều Nguyễn, 1993: 472). Về
sau, các hoàng đế triều Nguyễn càng
tỏ ra linh hoạt khi cho các dinh trấn
đƣợc nhận lịch trƣớc ngày mồng 1
tháng 12.
Long, hàng năm vào ngày mồng 1
tháng 12, quan lại bộ Lễ và Khâm
Thiên giám sắp đặt lễ chầu ở điện
Thái Hòa, vua ra ngự ở điện cùng với
đông đảo quan lại trong triều. “Viên
Khâm Thiên giám dâng lịch xong,
quan truyền Chỉ đọc Chỉ, trăm quan
làm lễ nhận lịch” (Quốc sử quán triều
Nguyễn, 2006, tập 5: 867). Khi Minh
Mạng mới lên ngôi, vẫn tiếp tục kế
thừa nghi lễ dâng lịch, ban lịch có từ
thời vua cha. Đại Nam thực lục ghi:
ngày mồng 1 tháng Chạp năm 1821,
“vua mặc thƣờng phục ngự ở điện
trƣớc cửa hành tại. Khâm Thiên giám
đem lịch năm Nhâm Ngọ dâng lên.
Trƣớc là quan Lễ bộ xin thiết triều ở
hành tại để làm lễ ban sóc (ban lịch),
vua không nghe, chỉ sai quan Khâm
Thiên giám đội mũ mặc áo dâng lịch
thôi. Lại truyền dụ cho ở Kinh hôm ấy
phải thiết triều ở điện Thái Hòa,
Hoàng trƣởng tử và các quan lƣu
Kinh làm lễ bái vọng, rồi lấy sách lịch
chia cấp cho trong ngoài” (Quốc sử
quán triều Nguyễn, 2006b, tập 2:
105). Tuy nhiên, đến tháng 12/1840,
vua Minh Mạng cho đặt lại nghi thức
ban lịch long trọng hơn, với việc sắp
đặt các vị trí, ban bệ hành lễ cụ thể
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2006,
tập 5: 867). Dƣới thời Thiệu Trị và Tự
Đức, nghi lễ dâng lịch, ban lịch chỉ có
một vài bổ sung nhỏ.
3.3. Nghi thức ban hành lịch Hiệp
Kỷ
Bên cạnh đó, triều đình cũng có
những quy định cụ thể về các khúc
nhạc tấu lên tƣơng ứng với từng công
đoạn trong nghi thức dâng lịch, ban
Nghi lễ tiến hành dâng lịch, ban lịch
đƣợc đặt định dƣới thời Gia Long và
có bổ sung, điều chỉnh dƣới thời
TRƢƠNG ANH THUẬN – LỊCH HIỆP KỶ DƢỚI TRIỀU NGUYỄN…
61
lịch. Minh Mạng năm thứ 13 nhà vua thể hiện tầm quan trọng của việc làm
quy định: “Hàng năm ngày ban chính lịch, dâng lịch, ban lịch hàng năm của
triều đình nhà Nguyễn.
sóc, Khâm Thiên giám làm lễ dâng
lịch thì tấu bản nhạc „Nguyên bình‟.
Quan tuyên chỉ tuyên bố rằng lịch đã
xong, ban cho trong ngoài rồi đoạn
(quan lại - TG) làm lễ tạ ơn, tấu bản
nhạc „Hàm bình‟” (Quốc sử quán triều
Nguyễn, 2006, tập 3: 288, 290). Không
những thế, đến chiếc hộp cùng với
chiếc khăn phủ ở trên dùng khi dâng
lịch lên cho vua cũng đƣợc quy định
cụ thể về hình thức cũng nhƣ cách
thức sử dụng, bảo quản. Minh Mạng
năm thứ 18 (1837), nhà vua ban sắc:
“Cái hộp kính dâng lịch vua dùng cùng
chỗ bày lịch, thì cái khăn trùm đều
dùng đoạn lông sắc vàng, bốn góc tết
cánh bạc. Đến kỳ tƣ cho phủ Nội vụ
lấy của trong kho mà làm để kính
dâng lịch, việc xong lại cất khăn trùm
ấy vào kho” (Nội các triều Nguyễn,
1993: 459). Đến Tự Đức năm thứ hai
(1849), nhà vua cho sửa đổi đôi chút
ở chất liệu của chiếc khăn dùng khi
dâng lịch (Nội các triều Nguyễn, 1993:
469). Đặc biệt, từ năm 1849, đối với
việc dâng lịch ở cung Từ Thọ, hộp
đựng và khăn phủ có những thể thức
khác khi dâng lịch cho vua: “… hộp
đựng và khăn phủ, làm riêng một bức
bằng nhiễu hoa đỏ, dài một thƣớc,
vẫn để lại trong cung, không đƣợc
ban ra nhƣ trƣớc” (Nội các triều
Nguyễn, 1993: 469). Nhƣ vậy, từ
những khâu nhỏ nhất trong quá trình
dâng lịch, ban lịch cũng đƣợc triều
4. KẾT LUẬN
Trong giai đoạn trị vì của bốn hoàng
đế đầu triều Nguyễn là Gia Long, Minh
Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức từ năm
1802 đến năm 1883, một trong những
sự kiện quan trọng đã đƣợc ghi vào
lịch sử thiên văn là lịch pháp của dân
tộc. Triều Nguyễn đã đƣa vào lƣu
hành lịch Hiệp Kỷ soạn theo phép
Thời Hiến vào năm 1813, có độ chính
xác cao hơn so với lịch Vạn Toàn
soạn theo phép Đại Thống đƣợc sử
dụng trƣớc đó. Những ghi chép trong
Đại Nam thực lực và Khâm định Đại
Nam hội điển sự lệ về lịch pháp đã
phần nào giúp chúng ta hiểu đƣợc
công việc in phát lịch ở thời triều
Nguyễn. Tùy vào đối tƣợng sử dụng
mà lịch Hiệp Kỷ phân thành lịch của
vua, lịch của quan lại và lịch của dân
chúng. Về căn bản, ba loại lịch nêu
trên chỉ khác nhau về hình thức bên
ngoài, chất liệu in ấn, số lƣợng các
bản lịch đƣợc biên soạn, còn nội dung
không có nhiều khác biệt. Vì mỗi năm,
Khâm Thiên giám cũng chỉ tính đƣợc
một bản lịch Hiệp Kỷ cho năm sau để
ban hành trong toàn quốc.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của việc
ban hành lịch đối với sản xuất nông
nghiệp cũng nhƣ các sinh hoạt xã hội
khác, đặc biệt là việc khẳng định uy
quyền của vƣơng triều đối với thần
Nguyễn quy định tƣơng đối cụ thể, chi dân trong nƣớc cũng nhƣ các khu vực
tiết và tiến hành theo đúng nghi thức phiên thuộc, nên các hoàng đế triều
quy định và tôn nghiêm. Điều đó càng Nguyễn rất chú trọng đến quy trình
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021
62
biên soạn, in ấn, nghi lễ dâng lịch, ban sung, phát triển và hoàn chỉnh các quy
lịch, theo chiều hƣớng càng về sau định liên quan đến lịch pháp, còn hai
càng trở nên chuyên nghiệp và quy củ. hoàng đế Thiệu Trị và Tự Đức đã kế
Trong đó, Gia Long và Minh Mạng là thừa và áp dụng và hầu nhƣ ít có sự
hai vị hoàng đế đã đặt nền tảng, bổ điều chỉnh, thay đổi.
CHÚ THÍCH
(1) Khi khảo cứu về vấn đề này, Giáo sƣ Hoàng Xuân Hãn cho rằng từ khi Triệu Đà thôn tính
nƣớc ta cho đến năm Đinh Tiên Hoàng lập quốc, lịch đƣợc sử dụng ở nƣớc ta là loại đƣợc
dùng chính thức ở trung ƣơng hoặc một phần phía nam Trung Quốc khi nƣớc này xảy ra cát
cứ phân liệt. Từ đời Đinh đến hết đời Lý Thái Tông, các vua Việt dùng lịch hàng năm do vua
Tống cấp cho. Tuy nhiên, dƣới thời vua Lý Thánh Tông, với lòng tự tôn dân tộc cộng thêm
việc một số triều thần nhà Lý đã học đƣợc phép tính lịch Tống, nên ông đã tìm cách tính lịch
và ban lịch riêng của triều đại mình. Sử liệu cũng ghi chép lại không ít các lần đổi lịch trong
lịch sử các triều đại quân chủ Việt Nam. Dƣới thời Trần năm 1339, dựa trên kiến nghị của
Đặng Lộ, Trần Hiến Tông đã cho đổi lịch Thụ Thời ra lịch Hiệp Kỷ. Năm 1401, nhà Hồ lại
cho đổi lịch Hiệp Kỷ thành lịch Thuận Thiên (Hoàng Xuân Hãn, 1982: 53-59).
(2) Theo Giáo sƣ Hoàng Xuân Hãn, năm 1780, Kinh đô Phú Xuân bị nghĩa quân Tây Sơn
đánh chiếm, chúa Nguyễn Phúc Thuần cùng thân thích chạy vào Gia Định. Nguyễn Phúc
Chủng (sau là Gia Long) nối ngôi ở Sài Gòn, ra lệnh vẫn giữ niên hiệu Cảnh Hƣng và tháng
Chạp năm ấy (Canh Ngọ), làm lễ ban sóc. Sách Đại Nam thực lục chính biên có chú thích
tên lịch là Vạn Toàn (bấy giờ đọc là Vạn Tuyền, đến đời Thiệu Trị 1847 mới kiêng tên vua
mà đổi). Lúc bấy giờ, trong khi bôn ba, triều đình chúa Nguyễn vẫn có ngƣời soạn lịch và
tên lịch Vạn Toàn chậm nhất cũng xuất hiện từ năm 1780. Ta không rõ rằng trong những
năm Phúc Chủng bị quân Tây Sơn đuổi bắt và phải bỏ chạy sang trú ở Xiêm cho đến năm
1787, thì dùng lịch nào. Ta chỉ thấy những sử thần triều Nguyễn đời sau chép sử đoạn này
vẫn theo lịch Đại Thống nhƣ triều Lê. Sau khi đánh bại Tây Sơn và lên ngôi hoàng đế, cuối
năm Nhâm Tuất (1802), Gia Long mới thi hành trở lại lịch Vạn Toàn (Hoàng Xuân Hãn,
1982: 66).
(3) Hiện nay, sử liệu không nói rõ các triều đại quân chủ nƣớc ta từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX
đã sử dụng phép tính lịch nào. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu lịch pháp Việt Nam giai
đoạn này, Giáo sƣ Hoàng Xuân Hãn đã phát hiện ra các tháng nhuận đƣợc ghi chép trong
các tài liệu lịch sử nƣớc ta với lịch của ngƣời Trung Hoa dƣới thời Thanh không giống nhau.
Chúng ta đều biết, khi nhà Thanh thống trị Trung Hoa, lịch Đại Thống đƣợc sử dụng trƣớc
đó bị thay thế bằng lịch Thời Hiến. Vì vậy, có lẽ khi nhà Thanh đã đổi sang sử dụng lịch
pháp mới thì các triều đại Việt Nam vẫn sử dụng phép cũ (Đại Thống) nên mới xảy ra sự
không trùng khớp nhƣ vậy. Bằng việc nghiên cứu phép Đại Thống thông qua phần Lịch chí
trong Nguyên sử và Minh sử, kết hợp với các thuật toán và sự hỗ trợ của máy tính, Giáo sƣ
Hoàng Xuân Hãn đã tiến hành tính lịch Việt Nam giai đoạn thế kỷ XV - XVIII và cho ra kết
quả hoàn toàn phù hợp với những tháng nhuận ghi trong sử liệu Việt. Điều này cho phép
khẳng định, dƣới thời Lê sơ, Lê Trung hƣng, Tây Sơn và giai đoạn đầu triều Nguyễn,
phép tính lịch đƣợc các vƣơng triều sử dụng chính là Đại Thống (Hoàng Xuân Hãn, 1982:
62-65).
TRƢƠNG ANH THUẬN – LỊCH HIỆP KỶ DƢỚI TRIỀU NGUYỄN…
63
(4) Tháng 4, Gia Long năm thứ 6 (1807), khi sai Lễ bộ Đặng Đức Siêu kiêm quản việc Khâm
Thiên giám, Gia Long có dụ rằng: “Việc suy lƣờng độ số của trời cần phải biết trƣớc, nếu để
hiện tƣợng đã xảy rồi mới biết, thế chẳng là thiếu trách nhiệm ƣ?”. Trƣớc kia, mỗi khi gặp
nhật thực, nguyệt thực, ngƣời Thanh gửi công điệp sang, bấy giờ Khâm Thiên giám mới tâu
báo, nên phải răn bảo nhƣ thế”. Điều đó có nghĩa là trên thực tế ở thời điểm trƣớc đó và bấy
giờ, các quan thiên văn triều Nguyễn không thể dự báo chính xác, thậm chí còn tính không
ra đƣợc những ngày có hiện tƣợng nhật thực, nguyệt thực mà phải dựa vào thông báo của
nhà Thanh (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 699).
(5) Theo Giáo sƣ Hoàng Xuân Hãn, chỗ này Nguyễn Hữu Thận tâu không chính xác. Vì sự
thật là lịch Thời Hiến không theo phép Đại Thống (trừ khoảng thời gian từ 1665 đến 1668)
(Hoàng Xuân Hãn, 1982: 66).
(6) Trong Đại Nam thực lục cũng chép về sự kiện này nhƣ sau: “Gia Long năm thứ 9 (1810)
(Thanh Gia Khánh năm thứ 15), tháng 4, Nguyễn Hữu Thận từ nƣớc Thanh trở về, đem
dâng sách Đại Thanh lịch tượng khảo thành, nói: “Lịch Vạn Toàn của nƣớc ta cùng với sách
Đại Thanh Thời Hiến, từ trƣớc đều dùng phép lịch Đại thống của nhà Minh, hơn ba trăm
năm, chƣa có sửa đổi, càng lâu càng sai. Khoảng năm Khang Hy nhà Thanh mới tham hợp
phép lịch của Tây dƣơng mà chép thành sách này. Sách suy tính tinh tƣờng, so với lịch Đại
Thống kỹ hơn, mà phép tam tuyến bát giác lại rất là vi diệu. Xin giao cho Khâm Thiên giám,
sai thiên văn sinh học lấy phƣơng pháp ấy, thì thiên độ mới đều, mà thời tiết đƣợc đúng”.
Vua khen phải” (Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 786).
(7) Đại Nam thực lục ghi chép: “Nhâm Thân, Gia Long năm thứ 11 (1812) (Thanh Gia Khánh
năm thứ 17), mùa xuân, tháng Giêng, Sai Tham tri Hộ bộ là Nguyễn Hữu Thận kiêm Phó
quản lý Khâm Thiên giám sự vụ. Hữu Thận giỏi về sao và lịch, sang sứ nƣớc Thanh học
đƣợc lịch pháp, thuật càng thêm tinh. Vua từng cùng bàn về thiên tƣợng, rất khen ngợi”
(Quốc sử quán triều Nguyễn, 2002, tập 1: 831).
(8) Ở ghi chép này, theo đúng lôgic phải là “Từ đấy, nguyệt lệnh, lịch pháp đều theo phép nhà
Thanh”. Giáo sƣ Hoàng Xuân Hãn cho rằng, ở đây có sự nhầm lẫn. Tuy nhiên, Hán tự chữ
Lê (黎) và chữ Thanh (清) hoàn toàn khác nhau, vậy có lẽ nào Phan Thúc Trực lại có sự
nhầm lẫn nhƣ vậy (Hoàng Xuân Hãn, 1982: 67).
(9) Tên lịch Hiệp Kỷ chính thức xuất hiện ở nƣớc ta dƣới thời Trần. Trong Đại Việt sử kí toàn
thư có chép năm 1339, Đặng Lộ xin đổi tên lịch Thụ Thì (授時曆) đƣơng thời đang dùng thành
lịch Hiệp Kỷ (協紀曆) và đƣợc vua Trần Hiến Tông chuẩn y (Ngô Sĩ Liên, 1993: 246).
(10) Nhật lịch, tức “Hiệp Kỷ lịch”, một loại âm lịch để xem ngày tháng, do “thƣợng quốc” ban
cho nƣớc chƣ hầu để tỏ ý rằng, nƣớc chƣ hầu ấy bị lệ thuộc phải theo chính sách của
thƣợng quốc. “Nhật lịch” ở đây không có nghĩa là cuốn sổ của sử quan ghi những sự việc
hằng ngày của triều đình quân chủ.
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN
1. Hoàng Xuân Hãn. 1982. “Lịch và lịch Việt Nam”. Tập san Khoa học Xã hội (Paris), số
9.
2. Ngô Sĩ Liên. 1993. Đại Việt sử ký toàn thư. Hà Nội: Nxb. Khoa học Xã hội.
3. Nội các triều Nguyễn. 1993. Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ, tập XV. Huế: Nxb.
Thuận Hóa.
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 1 (269) 2021
64
4. Phan Thúc Trực. 2009. Quốc triều di biên. Hà Nội: Nxb. Văn hóa Thông tin.
5. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2002. Đại Nam thực lục, tập 1. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
6. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2006. Đại Nam thực lục, tập 3, 5, 6. Hà Nội: Nxb. Giáo
dục.
7. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2006a. Đại Nam liệt truyện, tập 2. Huế: Nxb. Thuận Hóa.
8. Quốc sử quán triều Nguyễn. 2006b. Đại Nam thực lục, tập 2. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
Bạn đang xem tài liệu "Lịch hiệp kỷ dưới triều Nguyễn (1802-1883)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- lich_hiep_ky_duoi_trieu_nguyen_1802_1883.pdf