Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Bà Rịa

Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
KHẢO SÁT TỶ LỆ SUY YẾU VÀ MỐI LIÊN QUAN GIỮA SUY YẾU  
VỚI KẾT CỤC LÂM SÀNG NGẮN HẠN Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI  
ĐIỀU TRỊ NỘI TRÚ TẠI BỆNH VIỆN BÀ RỊA  
Nguyễn Ngọc Hoành Mỹ Tiên*, Thân Hà Ngọc Thể*, Nguyễn Thị An**  
TÓM TẮT  
Đặt vấn đề: Trong hoàn cảnh lão hóa của dân số toàn cầu, tỷ lệ suy yếu trong dân số ngày càng tăng  
và suy yếu dự báo nguy cơ cao những bất lợi về sức khỏe như: tình trạng té ngã, khuyết tật, sống phụ thuộc,  
tăng số lần nhập viện, thậm chí tử vong. Tuy nhiên, suy yếu chưa được quan tâm đúng mức trong thực  
hành lâm sàngLão khoa.  
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy yếu theo thang điểm đánh giá suy yếu lâm sàng CFS (Clinical Frailty Scale).  
Mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại khoa Nội  
Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão học Bệnh viện Bà Rịa.  
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc, tiến hành trên 370 người bệnh cao  
tuổi (≥ 65 tuổi) điều trị nội trú tại khoa Nội Tổng Hợp và khoa Nội Tim Mạch Lão Học, Bệnh viện Bà Rịa, trong  
thời gian 6 tháng, từ tháng 10/2017 đến 3/2018. Dùng thang suy yếu lâm sàng CFS để đánh giá suy yếu.  
Kết quả: Tỷ lệ suy yếu của người bệnh cao tuổi theo CFS là 66,2% (suy yếu nhẹ - trung bình 53,2%; tỷ lệ  
suy yếu nặng – rất nặng 13%). Có mối liên quan giữa mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn: thời gian  
nằm viện, tái nhập viện tại thời điểm 3 tháng sau xuất viện, tử vong chung tăng theo mức độ suy yếu.  
Kết luận: CFS đơn giản, dễ thực hiện, tiên đoán được kết cục lâm sàng Lão khoa.  
Từ Khóa: Clinical Frailty Scale, Suy yếu, người bệnh cao tuổi  
ABSTRACT  
ASSESSMENT OF PREVALENCE OF FRAILTY AND SHORT-TERM CLINICAL OUTCOME OF  
FRAILTY IN THE OLDER INPATIENTS AT BA RIA HOSPITAL  
Nguyen Ngoc Hoanh My Tien, Than Ha Ngoc The, Nguyen Thi An  
* Ho Chi Minh City Journal of Medicine * Supplement of Vol. 23 - No 2- 2019: 9-14  
Background: In the context of global population aging, the rate of frailty in the population is increasing and  
frailty predicts high-risk health disabilities such as falls, disabilities, dependence, number of hospitalizations, even  
death. However, frailty has not been properly addressed in Geriatric clinical practice.  
Objectives: To investigate the prevalence of frailty and factors associated with frailty.  
Methods: Descriptive, cross-sectional, and longitudinal follow-up of 370 elderly patients (≥ 65 years-old),  
treated inpatient at the department of General Medicine and Cardiology Department at Ba Ria hospital, from  
October 2017 to March 2018. Using the CFS to assess frailty.  
Results: The prevalence of frailty elderly patients assessed by the CFS was 66.2%. In which, mild – average  
frailty was 53.2%, severe - very severe frailty was 13%. There was a correlation between severity and short-term  
clinical outcomes: duration of hospitalization, re-hospitalization at 3 months post-discharge and general mortality  
increased with decreasing levels.  
Conclusions: CFS is simple, easy to practice, predicts clinical gerontological outcomes.  
Keywords: clinical frailty scale, frailty, elderly patient  
*Bộ môn Lão khoa, Khoa Y, Đại Học Y Dược TP. Hồ Chí Minh  
**Bệnh viện Bà Rịa  
Tác giả liên lạc: BS. Nguyễn Thị An  
ĐT: 0988862005  
Chuyên Đề Nội Khoa  
9
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
Thiết kế nghiên cứu  
ĐẶT VẤN ĐỀ  
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, theo dõi dọc,  
Có hơn 20 công cụ chẩn đoán suy yếu khác  
nhau, việc chọn một công cụ giúp chẩn đoán  
nhanh suy yếu và có khả năng dự báo các kết  
quả bất lợi về sức khỏe của người cao tuổi (NCT)  
là rất cần thiết trong thực hành lâm sàng.  
chọn mẫu thuận tiện.  
Các biến số  
Suy yếu  
biến định tính, 2 giá trị: Không suy yếu, CFS  
Tại Việt Nam đã có một số nghiên cứu về  
suy yếu ở người bệnh cao tuổi nằm viện. Các  
nghiên cứu này hoặc sử dụng công cụ chẩn  
đoán suy yếu tương đối phức tạp, tốn nhiều  
thời gian như Fried, đánh giá lão khoa toàn  
diện (CGA) hoặc sử dụng công cụ tầm soát  
suy yếu khá đơn giản và chủ quan như  
chương trình nghiên cứu triển khai các dịch vụ  
duy trì tính tự chủ của người cao tuổi  
PRISMA-7, GFI (Groningen Frailty Indicator)  
trong khi công cụ thang suy yếu lâm sàng CFS  
(Clinical Frailty Scale) chưa được sử dụng  
trong nghiên cứu nào mặc dù thường được các  
bác sĩ lâm sàng sử dụng(1,3). Do đó, chúng tôi  
thực hiện nghiên cứu này để tìm hiểu tình  
hình suy yếu của người bệnh cao tuổi điều trị  
nội trú như thế nào và suy yếu có liên quan ra  
sao với kết cục lâm sàng ở người bệnh cao tuổi  
với công cụ chẩn đoán suy yếu là CFS.  
1 – 4, Có suy yếu, CFS 5 – 8.  
Mức độ suy yếu  
Phân thành 3 nhóm(4): Nhóm 1: không suy  
yếu, CFS từ mức 1-4. Nhóm 2: suy yếu nhẹ đến  
trung bình, CFS từ mức 5-6 . Nhóm 3: suy yếu  
nặng đến rất nặng, CFS từ mức 7-8.  
CFS 9 điểm loại khỏi nghiên cứu vì đây là  
bệnh giai đoạn cuối hơn là suy yếu.  
Tái nhập viện  
Biến nhị giá có/không.  
Bệnh nhân nhập viện ở bất cứ bệnh viện nào  
sau xuất viện và lưu lại bệnh viện ít nhất một  
đêm do mọi nguyên nhân. Theo CMS (Centers  
for Medicare and Medicaid Services) ngoại trừ  
các trường hợp sau(3):  
Ngày nhập viện lại cùng ngày với ngày xuất  
viện và lý do nhập viện cũng là lý do nhập viện  
của lần trước.  
ĐỐITƯỢNG-PHƯƠNGPPNGHIÊNCỨU  
Đối tượng nghiên cứu  
Nhập vào để điều trị phục hồi chức năng.  
Được chẩn đoán tâm thần lần đầu.  
Nhập vào để điều trị bệnh ung thư hoặc theo  
lịch hẹn để tiến hành các thủ thuật, phẫu thuật.  
Dân số mục tiêu  
NCT (≥ 65 tuổi) điều trị tại các khoa Nội:  
Tổng Hợp, Tim Mạch Lão Học, Bệnh viện Bà Rịa,  
từ tháng 10/2017 đến 03/2018.  
Tử vong  
Biến nhị giá có/không.  
Đối tượng chọn mẫu  
Tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào ngoại  
trừ tử vong do tai nạn giao thông, tai nạn sinh  
hoạt, do thiên tai.  
Tiêu chuẩn chọn bệnh  
Người cao tuổi có khả năng giao tiếp hoặc có  
thân nhân nắm rõ tình trạng bệnh.  
Biến tử vong gồm tử vong nội viện và tử  
vong tại thời điểm 3 tháng sau xuất viện. Do  
biến tử vong nội viện chỉ gồm 2 trường hợp: 1  
bệnh nhân 76 tuổi tử vong do xuất huyết não  
(CFS: 4) và 1 bệnh nhân 80 tuổi tử vong do hội  
chứng Stevens-Johnson (CFS: 5) nên chúng tôi  
gộp biến tử vong tại thời điểm tháng sau xuất  
Đồng ý tự nguyện tham gia nghiên cứu.  
Tiêu chuẩn loại trừ  
Hôn mê, ra viện còn hôn mê và không có  
hoặc thân nhân không biết rõ về tình trạng bệnh  
Bệnh nhân cụt hai tay hoặc cụt hai chân hoặc  
mù hai mắt.  
Chuyên Đề Nội Khoa  
10  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
biến để khử yếu tố gây nhiễu ảnh hưởng liên  
quan mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng. Sự  
khác biệt có ý nghĩa thống kê khi p < 0,05.  
viện và biến tử vong nội viện thành biến tử  
vong chung.  
Bộ câu hỏi thu thập số liệu  
Đánh giá suy yếu theo CFS.  
Phương pháp xử lý số liệu  
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU  
Trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2017  
đến 03/2018, chúng tôi thu thập được 370 bệnh  
nhân NCT thỏa các tiêu chí chọn mẫu, kết quả  
được trình bày trong các bảng 1 – bảng 6.  
Nhập số liệu Epidata 3.1 và xử lý số liệu  
Stata 14. So sánh biến định tính: phép kiểm chi  
bình phương. So sánh biến định lượng: phép  
kiểm t – test, Anova. Dùng hồi quy Logistic đa  
Bảng 1. Đặc điểm chung của dân số nghiên cứu (n = 370)  
Biến số  
Tần số  
130  
Tỷ lệ %  
35,1  
Nam  
Nữ  
Giới  
240  
64,9  
Tuổi trung bình (trung bình ± độ lệch chuẩn)  
76,7 ± 7,6  
60-69  
86  
23,2  
35,4  
41,4  
Nhóm tuổi  
BMI  
70-79  
≥ 80  
131  
153  
Chỉ số BMI (trung bình ± độ lệch chuẩn)  
21,3 ± 3,4  
Thiếu cân (BMI ≤ 18,5)  
79  
186  
105  
193  
177  
18  
21,4  
50,2  
28,4  
52,2  
47,8  
4,8  
Bình thường (18,5 < BMI < 23)  
Thừa cân, béo phì (BMI ≥ 23)  
Chưa kết hôn/ly dị/góa  
Đang sống bạn đời  
Sống một mình  
Tình trạng hôn nhân  
Hoàn cảnh sống  
Sống cùng người thân  
Thành thị  
352  
129  
241  
99  
95,2  
34,9  
65,1  
26,8  
73,2  
18,1  
75,1  
6,8  
Nơi sống  
Nông thôn  
Chế độ ăn  
Nghèo nàn  
Đầy đủ  
271  
67  
Không biết chữ  
Trình độ học vấn  
Chưa tốt nghiệp PTTH  
Tốt nghiệp PTTH, cao đẳng, đại học  
Không/uống mức độ vừa phải  
Uống nhiều  
278  
25  
352  
18  
95,1  
4,9  
Rượu, bia  
Thuốc lá  
Không hút/đã bỏ  
Hiện đang hút  
319  
51  
86,2  
13,8  
36,2  
63,8  
2,1  
Có  
134  
236  
3,2 ±  
Tình trạng đa thuốc  
Không  
Tình trạng đa bệnh (trung bình ± độ lệch chuẩn)  
Bảng 2. Tỷ lệ mức độ suy yếu  
Không suy yếu  
Suy yếu nhẹ - trung bình  
Suy yếu nặng – rất nặng  
n (%)  
125 (33,8)  
197 (53,2)  
48 (13)  
Bảng 3. Kết cục lâm sàng  
Không suy yếu  
n = 125  
Suy yếu nhẹ -  
trung bình n = 197  
Suy yếu nặng –  
rất nặng n = 48  
P
Số ngày nằm viện (Trung vị, khoảng tứ phân vị)  
Tái nhập viện n (%)  
4 (3 – 5)  
25 (20)  
3 (2,4)  
5 (3 – 7)  
86 (43,7)  
12 (6,1)  
7 (5 – 9)  
22 (45,8)  
6 (12,5)  
< 0,001  
< 0,001  
< 0,05  
Tử vong chung n (%)  
* Số ngày nằm viện bị phân phối lệch  
Chuyên Đề Nội Khoa  
11  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
bệnh nhân ≥ 75 tuổi tại một bệnh viện Anh quốc  
ghi nhận tỷ lệ suy yếu nhẹ - trung bình là  
47,67%; suy yếu nặng – rất nặng 27,7%(4), tỷ lệ  
suy yếu nặng – rất nặng trong nghiên cứu này  
cũng cao hơn chúng tôi. Kết quả này là bằng  
chứng giúp cũng cố mối liên quan giữa suy yếu  
và tuổi.  
Bảng 4. Các yếu tố liên quan thời gian nằm viện  
Thời gian nằm viện  
P
Hệ số  
1
KTC 95%  
Không suy yếu  
Suy yếu nhẹ - trung bình  
Suy yếu nặng – rất nặng  
Tuổi  
1,6  
4,1  
0,5 – 2,7  
< 0,05  
2,5 – 5,7 < 0,001  
- 0,02 - 0,08 – 0,04 > 0,05  
Giới  
0,97  
- 0,1  
0,1  
0,02 – 1,9 < 0,05  
-1,1 – 0,8 > 0,05  
- 0,1 – 0,4 > 0,05  
Tình trạng đa thuốc  
Tình trạng đa bệnh  
Mối liên quan giữa mức độ suy yếu với kết cục  
lâm sàng ngắn hạn  
Bảng 5. Các yếu tố liên quan tái nhập viện  
Thời gian nằm viện  
Tái nhập viện  
P
Chúng tôi ghi nhận thời gian nằm viện của  
bệnh nhân có liên quan đến mức độ suy yếu:  
nhóm suy yếu nặng có thời gian nằm viện dài  
nhất, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P < 0,001.  
OR  
1
KTC 95%  
Không suy yếu  
Suy yếu nhẹ - trung bình  
Suy yếu nặng – rất nặng  
Giới  
4,1  
4,9  
1,3  
0,95  
1,1  
1
2,2 – 7,5 < 0,001  
2,1 – 11,2 < 0,001  
0,8 – 2,1  
> 0,05  
Vậy thời gian nằm viện trong nghiên cứu  
của chúng tôi ngắn hơn so với tác giả Juma, điều  
này có thể do tình trạng bệnh đông, chật chội,  
chúng tôi phải cho xuất viện sớm. Tuy nhiên cả  
hai nghiên cứu đều cho thấy khi bệnh nhân có  
suy yếu thì thời gian nằm viện sẽ dài hơn.  
Tuổi  
0,92 – 0,99 < 0,05  
- 0,7 – 1,8 > 0,05  
Tình trạng đa thuốc  
Tình trạng đa bệnh  
0,9 – 1,1  
> 0,05  
Bảng 6. Các yếu tố liên quan tử vong  
Tử vong  
KTC 95%  
P
OR  
1
Không suy yếu  
Suy yếu nhẹ - trung bình  
Suy yếu nặng – rất nặng  
Tuổi  
Sau phân tích hồi qui đa biến để khử các yếu  
tố có thể ảnh hưởng lên thời gian nằm viện (tuổi,  
giới, tình trạng đa thuốc và đa bệnh) chúng tôi  
ghi nhận mức độ suy yếu có ảnh hưởng lên thời  
gian nằm viện: thời gian nằm viện của nhóm suy  
yếu nặng lớn hơn thời gian nằm viện của nhóm  
suy yếu nhẹ - trung bình và lớn hơn thời gian  
nằm viện của nhóm không suy yếu.  
6,8  
15,2  
0,9  
4,3  
0,6  
1,0  
1,5 – 29,8 < 0,05  
2,7 – 85,6 < 0,05  
0,8 – 0,98 > 0,05  
1,6 – 11,7 < 0,05  
Giới  
Tình trạng đa thuốc  
Tình trạng đa bệnh  
0,2 – 1,6  
0,8 – 1,3  
> 0,05  
> 0,05  
BÀN LUẬN  
Tỷ lệ suy yếu ở người cao tuổi  
Khandelwal D và cộng sự (2012) nghiên cứu  
trên 250 người bệnh cao tuổi nhập viện và cũng  
đã ghi nhận những bệnh nhân suy yếu có thời  
gian nằm viện dài hơn(6).  
Chúng tôi nghiên cứu trên 370 bệnh nhân  
ghi nhận có 125 bệnh nhân không suy yếu  
(33,8%); bệnh nhân suy yếu nhẹ - trung bình là  
197 (53,2%); suy yếu nặng – rất nặng 48 (13%).  
Wallis S.J và cộng sự (2015) ghi nhận mức độ  
suy yếu có ảnh hưởng tới thời gian nằm viện với  
OR 1,19; khoảng tin cậy 95% 1,14 – 1,23;  
P<0,001(7).  
Juma S và cộng sự (2016) nghiên cứu 75 bệnh  
nhân ≥ 65 tuổi (tuổi trung bình 81.3 ± 8.8) tại  
bệnh viện Ontario, Canada ghi nhận tỷ lệ không  
suy yếu, suy yếu nhẹ - trung bình, suy yếu nặng  
– rất nặng lần lượt là: 28%; 50,67%; 21,33%(5). Tỷ  
lệ suy yếu nặng – rất nặng của nghiên cứu này  
cao hơn của chúng tôi, tuy nhiên tuổi trung bình  
của đối tượng tham gia nghiên cứu lớn hơn của  
chúng tôi (76,7 ± 7,6).  
Tái nhập viện  
Tỷ lệ tái nhập viện của bệnh nhân trong  
nghiên cứu tăng ở nhóm có suy yếu, sự khác  
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Sau  
khi hiệu chỉnh với các yếu tố tuổi, giới, tình  
trạng đa thuốc và đa bệnh thì mức độ suy yếu  
có ảnh hưởng đến tỷ lệ tái nhập viện: nhóm  
Hartley P và cộng sự (2016) khảo sát trên 493  
Chuyên Đề Nội Khoa  
12  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
suy yếu nhẹ - trung bình, nhóm suy yếu nặng  
– rất nặng tăng nguy cơ tái nhập viện hơn  
nhóm không suy yếu với OR lần lượt là 4,1  
(KTC 95% 2,2 – 7,5); 4,9 (KTC 95% 2,1 – 11,2),  
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P< 0,001.  
quan giữa mức độ suy yếu và tử vong chung:  
nhóm suy yếu nhẹ - trung bình, suy yếu nặng -  
rất nặng tăng nguy cơ tử vong so với nhóm  
không suy yếu OR lần lượt 6,8 (KTC 95%: 1,5 –  
29,8); 15,2 (KTC 95%: 2,7 – 85,6); sự khác biệt này  
có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).  
Tái nhập viện của nhóm suy yếu nhẹ -  
trung bình và suy yếu nặng – rất nặng của  
chúng tôi cao hơn Juma, nhưng cả hai nghiên  
cứu đều ghi nhận có mối liên quan giữa suy  
yếu và tỷ lệ tái nhập viện.  
Vậy kết quả của chúng tôi cũng phù hợp với  
các nghiên cứu khác trên thế giới. Với kết quả  
này một lần nữa chứng minh suy yếu theo CFS  
là yếu tố nguy cơ có thể dự báo tử vong ở NCT.  
Qua so sánh về thời gian nằm viện và tỷ lệ  
tái nhập viện của nghiên cứu chúng tôi với tác  
giả Juma S, chúng tôi ghi nhận: thời gian nằm  
viện của chúng tôi ngắn hơn, tuy nhiên tỷ lệ tái  
nhập viện cao hơn, điều này hướng chúng tôi  
phải nhìn lại vấn đề xuất viện sớm của chúng tôi  
để có sự điều chỉnh hợp lý.  
Việc tầm soát suy yếu ở tất cả người bệnh  
cao tuổi nhập viện để có kế hoạch chăm sóc và  
đánh giá nguy cơ rủi ro đối với các phương  
pháp điều trị hoặc can thiệp y tế là rất cần thiết.  
KẾT LUẬN  
Nghiên cứu của chúng tôi thực hiện trên 370  
người bệnh cao tuổi điều trị nội trú các bệnh nội  
khoa tại bệnh viện Bà Rịa ghi nhận. Tỷ lệ suy  
yếu của người bệnh cao tuổi theo CFS là 66,2%  
(suy yếu nhẹ - trung bình 53,2%; tỷ lệ suy yếu  
nặng – rất nặng 13%). Có mối liên quan giữa  
mức độ suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn:  
thời gian nằm viện, tái nhập viện tại thời điểm 3  
tháng sau xuất viện, tử vong chung tăng theo  
mức độ suy yếu.  
Bagshaw và cộng sự (2014) khảo sát trên 421  
bệnh nhân đã ghi nhận tỷ lệ tái nhập viện của  
nhóm suy yêu (CFS > 4) 56% cao hơn nhóm  
không suy yếu (CFS ≤ 4) 39% với OR 1,98;  
khoảng tin cậy: 95% 1,22 – 3,23(2).  
Vậy đánh giá suy yếu theo CFS có khả  
năng dự báo nguy cơ tái nhập viện ở người  
bệnh cao tuổi.  
Tử vong chung  
Tỷ lệ tái nhập viện của bệnh nhân trong  
nghiên cứu tăng ở nhóm có suy yếu, sự khác  
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,001). Sau  
khi hiệu chỉnh với các yếu tố tuổi, giới, tình  
trạng đa thuốc và đa bệnh thì mức độ suy yếu  
có ảnh hưởng đến tỷ lệ tái nhập viện: nhóm  
suy yếu nhẹ - trung bình, nhóm suy yếu nặng  
– rất nặng tăng nguy cơ tái nhập viện hơn  
nhóm không suy yếu với OR lần lượt là 4,1  
(KTC 95% 2,2 – 7,5); 4,9 (KTC 95% 2,1 – 11,2),  
sự khác biệt có ý nghĩa thống kê P< 0,001.  
Conroy và cộng sự (2013) khảo sát trên  
người bệnh cao tuổi nhập viện vì các bệnh nội  
khoa ghi nhận suy yếu theo CFS có liên quan tử  
vong sau 3 tháng với OR 1,4; khoảng tin cậy  
95%: 1,3 – 1,5(2)  
.
Nghiên cứu của Basic D và cộng sự (2015)  
trên 2.125 người bệnh cao tuổi nhập viện ghi  
nhận thang suy yếu CFS có khả năng tiên đoán tử  
vong (OR = 2,97; khoảng tin cậy 95%: 2,11 - 4,17)(1).  
Tác giả Wallis S.J và cộng sự (2015) khảo sát  
5.764 bệnh nhân tuổi ≥ 75 nhập viện vì các bệnh  
nội khoa đã kết luận rằng suy yếu theo CFS có  
khả năng tiên đoán độc lập tử vong ở bệnh nhân  
nội trú với OR = 1,60; khoảng tin cậy 95%: 1,48 –  
1,74; P < 0,001 (sau khi hiệu chỉnh các yếu tố tuổi,  
giới, chỉ số đa bệnh lý Charlson)(7).  
Có mối liên quan giữa mức độ suy yếu và tử  
vong chung: nhóm suy yếu nhẹ - trung bình, suy  
yếu nặng - rất nặng tăng nguy cơ tử vong so với  
nhóm không suy yếu OR lần lượt 6,8 (KTC 95%:  
1,5 – 29,8); 15,2 (KTC 95%: 2,7 – 85,6); sự khác  
biệt này có ý nghĩa thống kê (P < 0,05).  
Nghiên cứu chúng tôi ghi nhận có mối liên  
Chuyên Đề Nội Khoa  
13  
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Phụ Bản Tập 23 * Số 2 * 2019  
Nghiên cứu Y học  
5. Juma S, Taabazuing MM, Montero-Odasso M (2016). “Clinical  
Frailty Scale in an Acute Medicine Unit: a Simple Tool That  
-TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Basic D, Shanley C (2015). “Frailty in an older inpatient  
population: using the clinical frailty scale to predict patient  
outcomes”. J Aging Health, 27(4):670-85.  
Predicts Length of Stay”. Can Geriatr J, 19(2):34-9  
6. Khandelwal D, Goel A, Kumar U et al (2012). “Frailty is  
associated with longer hospital stay and increased mortality in  
hospitalized older patients”. J Nutr Heatlh Aging, 16(8):732–35.  
15  
2. Conroy S, Dowsing T (2013). “The Ability of Frailty to Predict  
Outcomes in Older People Attending an Acute Medical Unit”.  
Acute Medicine ; 12(2): 74-76  
7. Wallis SJ, Wall J, Biram RWS et al (2015). “Association of the  
clinical frailty scale with hospital outcomes”. An International  
Journal of Medicine, Volume 108, Issue 12, 943-949. 32.  
3. Gregorevic KJ, Hubbard RE, Lim WK (2016). “The clinical  
frailty scale predicts functional decline and mortality when used  
by junior medical staff: a prospective cohort study”. BMC  
Geriatr, 16: 117.  
Ngày nhận bài báo:  
08/11/2018  
07/12/2018  
10/03/2019  
4. Hartley P, Adamson J, Cunningham C et al (2017). “Clinical  
frailty and functional trajectories in hospitalized older adults: A  
retrospective observational study”. Geriatr Gerontol Int,  
17(7):1063-1068.  
Ngày phản biện nhận xét bài báo:  
Ngày bài báo được đăng:  
Chuyên Đề Nội Khoa  
14  
pdf 6 trang yennguyen 14/04/2022 1620
Bạn đang xem tài liệu "Khảo sát tỷ lệ suy yếu và mối liên quan giữa suy yếu với kết cục lâm sàng ngắn hạn ở người bệnh cao tuổi điều trị nội trú tại Bệnh viện Bà Rịa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfkhao_sat_ty_le_suy_yeu_va_moi_lien_quan_giua_suy_yeu_voi_ket.pdf