Kết quả bước đầu ứng dụng kỹ thuật BABA trong phẫu thuật nội soi điều trị bướu tuyến giáp
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
KẾT QUẢ BƯỚC ĐẦU ỨNG DỤNG KỸ THUẬT BABA TRONG
PHẪU THUẬT NỘI SOI ĐIỀU TRỊ BƯỚU TUYẾN GIÁP
1
2
3
4
NGUYỄN VIỆT DŨNG , TRẦN THANH PHƯƠNG , LÊ VĂN CƯỜNG , PHẠM DUY HOÀNG ,
5
5
5
5
TRƯƠNG CÔNG TUẤN ANH , NGUYỄN ĐỨC HƯƠNG , TRẦN SƠN VŨ , NGUYỄN ĐĂNG KHOA ,
5
5
5
ĐỖ NGUYỄN TUẤN KHANH , TRẦN THANH TÙNG , NGUYỄN HOÀNG THIÊN BẢO ,
5
5
6
ĐẶNG THANH HÀO , HỒ THIÊN TÂN , HOÀNG QUỐC VIỆT
Đặt vấn đề: Phẫu thuật nội soi tuyến giáp được Huscher thực hiện lần đầu tiên vào năm 1997[1]. Ngày
nay, phẫu thuật này được ứng dụng tại nhiều nước trên thế giới. Lợi ích quan trọng của phẫu thuật nội soi
tuyến giáp mang lại là tính thẩm mỹ cao và an toàn. Kỹ thuật BABA là một trong những kỹ thuật có hiệu
quả và tại Việt Nam, kỹ thuật lần đầu tiên được áp dụng tại bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ Chí Minh.
Mục tiêu nghiên cứu: Mô tả kỹ thuật và đánh giá kết quả phẫu thuật bước đầu.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân được chẩn đoán phình giáp đa hạt ở cả hai
thùy tuyến giáp; nghiên cứu mô tả tiến cứu.
Kết quả nghiên cứu: Từ tháng 1 năm 2020, chúng tôi đã áp dụng kỹ thuật mới cắt tuyến giáp nội soi
cho các trường hợp bướu giáp tại Bệnh viện Ung bướu TP. HCM. 16 bệnh nhân nữ, tuổi trung bình 29
(25 - 53). Các bệnh nhân được phẫu thuật cắt tuyến giáp gần trọn gồm 7 ca và cắt toàn bộ tuyến giáp gồm
9 ca. Chẩn đoán bướu tuyến giáp trước mổ được thực hiện bằng khám lâm sàng, xét nghiệm tế bào học,
siêu âm vùng cổ và định lượng FT4, TSH. Kỹ thuật được thực hiện với tư thế bệnh nhân nằm ngữa, gây
mê toàn thân qua nội khí quản. Bốn trocar được đặt vào vị trí nách và quầng vú hai bên.
Tạo khoang phẫu thuật từ mặt trước cơ ngực lớn đến vùng cổ dưới cơ bám da bằng cắt đốt đơn cực
và bơm liên tục khí CO2 với áp lực 10 - 12mmHg. Tuyến giáp được bộc lộ bằng cách mở dọc đường giữa
cổ và được cắt bỏ bằng dao siêu âm. Sau mổ không xảy ra các biến chứng quan trọng như liệt dây thần
kinh hồi thanh quản, hạ calci máu; bệnh nhân ít đau sau mổ, phục hồi các chức năng hoạt động vùng cổ
sớm, mức thẩm mỹ cao. Kết quả giải phẫu bệnh sau mổ là phình giáp. Tất cả bệnh nhân đều hài lòng với
kết quả thẩm mỹ và không có trường hợp dị cảm da vùng cổ ngực nào sau 1 tháng phẫu thuật.
Kết luận: Đây là phương pháp khả thi, kỹ thuật mổ an toàn và hiệu quả. Phương pháp này có thể áp
dụng đối với tất cả các trường hợp phình giáp hạt hai thùy. Phương pháp này có kết quả thẩm mỹ tốt
nhưng hiệu quả lâu dài cần tiếp tục nghiên cứu trên nhiều bệnh nhân hơn.
phẫu thuật. Bên cạnh phẫu thuật mở truyền thống thì
phương pháp phẫu thuật nội soi đang ngày càng
được phát triển và chiếm vị trí quan trọng trong phẫu
thuật tuyến giáp. Ở Việt Nam, việc ứng dụng phẫu
ĐẶT VẤN ĐỀ
Phình giáp đa hạt (bướu giáp đa nhân) là bệnh
lý phổ biến tại nước ta, có nhiều phương pháp điều
trị khác nhau nhưng cho đến nay chủ yếu vẫn là
Địa chỉ liên hệ: Nguyễn Việt Dũng
Email: drdung1@gmail.com
Ngày nhận bài: 09/10/2020
Ngày phản biện: 03/11/2020
Ngày chấp nhận đăng: 05/11/2020
1 TS.BS. Khoa Ngoại đầu cổ, tai mũi họng - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
2 TS.BSCKII. Trưởng Khoa Ngoại đầu cổ, tai mũi họng - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
3 TS.BSCKII. Phó Trưởng Khoa Ngoại đầu cổ, tai mũi họng - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
4 ThS.BSCKII. Phó Trưởng Khoa Ngoại đầu cổ, tai mũi họng - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
5 Bác sĩ Khoa Ngoại đầu cổ, tai mũi họng - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
6 Điều dưỡng Trưởng Khoa Ngoại đầu cổ, tai mũi họng - Bệnh viện Ung Bướu TP. HCM
55
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
thuật nội soi điều trị bướu giáp đã được thực hiện
trên 10 năm nay tại nhiều trung tâm điều trị trên toàn
quốc đã giải quyết được nhu cầu điều trị ngày càng
cao của bệnh nhân. Tại bệnh viện Ung Bướu TP. Hồ
Chí Minh, chúng tôi đã áp dụng phẫu thuật nội soi
với các kỹ thuật đa dạng từ phẫu thuật nội soi hỗ trợ
đến kỹ thuật nội soi đường vú - nách một bên, nội
soi ngã miệng từ nhiều năm nay. Lần đầu tiên,
chúng tôi áp dụng kỹ thuật phẫu thuật nội soi mới
qua đường vú - nách hai bên (kỹ thuật BABA) điều
trị bướu tuyến giáp hai thùy từ tháng 01/2020.
khoang phẫu thuật từ vùng ngực cho đến vùng cổ và
được duy trì bằng khí CO2 bơm liên tục với áp lực
10 - 12mmHg. Khoang phẫu thuật được tạo tại vùng
cổ, giới hạn trên vượt qua xương móng và mở rộng
vượt qua toàn bộ khối cơ trước giáp hai bên. Bộc lộ
tuyến giáp qua đường giữa, xác định khoang vô
mạch để kiểm soát tốt cực trên tuyến giáp đồng thời
bảo tồn được thần kinh thanh quản trên; các tuyến
phó giáp và thần kinh hồi thanh quản hai bên được
phẫu tích và bảo tồn. Dùng dao siêu âm để cắt gần
trọn hoặc toàn bộ lần lượt hai thùy tuyến giáp. Lấy
bướu qua vị trí đặt trocar 10mm ở quầng vú. Đặt dẫn
lưu qua trocar 10mm. Khâu các lỗ trocar. Dẫn lưu
vết mổ được rút vào ngày thứ 2. Bệnh nhân xuất
viện TB sau 2 - 3 ngày, cắt chỉ sau 1 tuần.
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Mô tả kỹ thuật và đánh giá kết quả phẫu thuật
cắt tuyến giáp nội soi qua đường vú - nách hai bên
trong điều trị phình giáp đa hạt hai thùy.
KẾT QUẢ
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Thiết kế nghiên cứu
Từ tháng 01/2020 đến hết tháng 09/2020 chúng
tôi đã triển khai cắt bướu giáp bằng phẫu thuật nội
soi cho 16 trường hợp.
Mô tả tiến cứu.
Tuổi
Đối tượng nghiên cứu
Nhóm tuổi
< 30
n = 16
%
Các trường hợp bướu tuyến giáp được phẫu
thuật nội soi với kỹ thuật BABA từ tháng 01 năm
2020 đến hết tháng 09 năm 2020.
9
5
2
56,3
31,3
12,4
30 - 40
>40
Tiêu chuẩn chọn bệnh
TB
29,4
Bệnh nhân được chẩn đoán phình giáp đa hạt,
có nhu cầu thẩm mỹ cao.
Bướu ở cả hai thùy tuyến giáp.
Đặc điểm bướu trước mổ
Đặc điểm bướu
Vị trí
Xét nghiệm tế bào trước mổ là bướu giáp lành
tính.
Số bệnh nhân
Xét nghiệm chức năng tuyến giáp trong giới hạn
bình thường.
Cả 2 thùy
16
Số lượng nhân
Tiêu chuẩn loại trừ
2 nhân hai thùy/ >2 nhân
1 / 15
Bệnh nhân không đồng ý phẫu thuật nội soi.
Kích thước bướu lớn nhất TB (cm) 3,3 ± 2,3 (2,5 - 5,5)
Bướu giáp gây chèn ép vùng cổ, rối loạn chức
năng tuyến giáp, chẩn đoán ung thư tuyến giáp
trước mổ, bướu giáp tái phát, sẹo lớn vùng cổ.
FNA
U tuyến nang/ phình giáp
1 / 15
Kỹ thuật mổ
Kết quả phẫu thuật
Bệnh nhân nằm ngửa, được gây mê nội khí
quản, tư thế ngửa cổ. Màn hình nội soi đặt phía trên
hướng đầu bệnh nhân. Phẫu thuật viên (PTV) chính
có thể đứng bên phải hay trái, PTV phụ và PTV thao
tác camera đứng đối diện. Rạch da 5mm vị trí đỉnh
nếp lằn nách trước hai bên, đặt trocar 5mm hướng
về hõm ức mặt trên cơ ngực lớn, dùng cây bóc tách
tạo khoang dưới hõm ức và bờ dưới xương đòn
2 - 3cm. Tiếp tục mở hai trocar 10mm vị trí quầng vú
cùng bên (2h) và vị trí đối bên 10h và vị trí này được
đặt camera 300 hoặc 450. Dùng đốt điện đơn cực tạo
Kết quả phẫu thuật
Số bệnh
nhân
Phương pháp mổ
Cắt tuyến giáp gần trọn/ Cắt toàn bộ
tuyến giáp
7/9
Thời gian mổ TB (phút)
110,5 ± 30,6
Biến chứng ngay sau mổ
Bỏng da/ Tràn khí dưới da/ chảy máu
0/1/0
56
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
BÀN LUẬN
Biến chứng sau mổ
Dị cảm da vùng cổ - ngực/ Nói khàn/ Hạ
canxi máu tạm thời 1/0/1
Cơ sở lựa chọn kỹ thuật
Phẫu thuật nội soi tuyến giáp trên thế giới có
nhiều kinh nghiệm thực hiện trong suốt quá trình
phát triển, giai đoạn phát triển nở rộ chủ yếu từ
những năm 2000 trở về sau này với nhiều kỹ thuật
đa dạng, nhiều tác giả đã cố gắng đúc kết, hạn chế
các nhược điểm của các kỹ thuật, tìm tòi và phát
triển các đường vào mới nhằm tiếp cận tuyến giáp
một cách trực diện và hữu hiệu nhất nhằm hoàn
Đau sau mổ
Không đau/ Đau ít/ Đau vừa
Thời gian hậu phẫu TB (Khoảng), ngày
GPB
10/5/1
2,5 (2 - 4 )
Phình giáp/ u tuyến thể nang
15/1
thiện kỹ thuật và mở rộng chỉ định điều trị [2][3][4][5][6][7]
,
Kết quả theo dõi sau mổ sau 1 tháng
Đặc điểm
dẫn đến khuynh hướng phối hợp các đường vào
tuyến giáp qua ngã nội soi còn gọi là các kỹ thuật nội
soi lai; một trong các kỹ thuật tiêu biểu đó là việc
phối hợp đường vào vú - nách hai bên giúp tối ưu
hóa đường mổ nội soi với “trường mổ mở” là một
thuận lợi lớn khi chỉ định điều trị cho các trường hợp
có bướu ở cả hai thùy giáp hoặc đòi hỏi phải can
thiệp đồng thời trên toàn bộ tuyến giáp. Kỹ thuật
BABA ra đời năm 2007 do Choe và CS thực hiện, kỹ
thuật này được sử dụng khá rộng rãi tại các Trung
tâm điều trị ở Hàn Quốc và một số nước Châu Á và
đến nay đã có nhiều báo cáo cho thấy các ưu điểm
vượt trội[8][9][12], chúng tôi xin tóm lược một số ưu
điểm của kỹ thuật so với các đường vào khác
(bảng 1).
Số bệnh nhân
Siêu âm tuyến giáp
Còn nhân/ Không còn nhân
Sẹo mổ
0 / 16
Đẹp, khó thấy/ Lồi, dễ thấy
Khàn giọng
16 / 0
0/16
Dị cảm vùng cổ - ngực
Không có/ Giảm nhiều
15 / 1
Bảng 1. Ưu điểm của các đường vào ngoài vùng cổ trong phẫu thuật nội soi tuyến giáp
Đường nách
++++
++++
+++
BABA
++++
+++
Đường sau tai
Đường miệng
Trường phẫu tích
+++
+++
+++
+
++
+++
+++
+++
+++
+/-
Khả năng thao tác trong trường mổ
Thời gian phẫu thuật
++++
+++
Phẫu trường rõ ràng
++
Khả năng cắt toàn bộ tuyến giáp
Khả năng nạo hạch cổ trung tâm
Khả năng nạo hạch cổ bên
Kết quả thẩm mỹ
+++
+++
+++
++++
+++
+
++++
+++
+++
++++
+
++++
+
+
Tỷ lệ biến chứng
dựa trên một số ưu điểm nổi bật như sau: Phẫu
trường đối xứng hai bên như trong mổ mở; thực
hiện phẫu tích đồng thời trên cả hai thùy giáp trong
cùng một thì phẫu thuật, đạt được phẫu trường rõ và
đối xứng hai bên nên khả năng cắt tuyến giáp với
thời gian nhanh hơn và bảo tồn tốt các cơ quan
quan trọng tại vùng cổ (mạch máu, thần kinh, tuyến
cận giáp); không cần phải di chuyển phương tiện,
thiết bị phẫu thuật, tinh giản ê kíp phẫu thuật, đường
vào trên các nếp tự nhiên tại quầng vú và nách, rút
gọn trocar (chỉ 4 lổ hai bên) nên đạt kết quả thẩm mỹ
cao, ít biến chứng sau mổ (đau, dị cảm).
Tại Việt Nam, kỹ thuật Lương được ứng dụng
khá rộng rãi tại các cơ sở điều trị lớn trên cả nước
với các ưu điểm như thực hiện thao tác thuận lợi và
quan sát tốt thùy giáp trong phẫu tích; tuy vậy khi
thực hiện kỹ thuật với các trường hợp bướu giáp hai
thùy, cần cắt bỏ hoàn toàn hoặc gần toàn bộ tuyến
giáp thì bộc lộ nhược điểm đó là phải di chuyển
phương tiện và vị trí phẫu thuật viên gây cảm giác
khá ngần ngại khi chỉ định phẫu thuật các trường
hợp này. Chúng tôi lựa chọn kỹ thuật BABA và áp
dụng trong điều trị bệnh lý bướu tuyến giáp hai thùy
57
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
Một số đặc điểm kỹ thuật
tuyến giáp tốt, đường vào chủ động tránh mạch máu
vùng thành ngực như bó mạch vú trong và các mạch
máu lớn của vùng cổ như tĩnh mạch cảnh ngoài,
cảnh trước và các nhánh nối nên đã hạn chế tối đa
việc chảy máu trong và sau mổ gây ảnh hưởng quan
sát và khó cầm máu; hạn chế mất máu và tránh tụ
dịch xuất huyết; việc phẫu tích cẩn thận dưới lớp cơ
bám da cổ không để xảy ra tình trạng bầm máu trên
da, bỏng da. Sử dụng khí CO2 với áp lực vừa đủ, xả
hết khí trong khoang sau mổ để tránh tình trạng tràn
khí dưới da sau mổ. Sử dụng optic 300 hoặc 450 có
thể điều chỉnh cân xứng trường mổ khi quan sát tại
vị trí hõm ức tạo hiệu ứng của trường mổ mở, bên
cạnh đó, còn có thể điều chỉnh chủ động góc nhìn để
quan sát tốt các vị trí cực trên, hố ức, hố thượng đòn
trong một số trường hợp cần thiết. Trong thời gian
thực hiện kỹ thuật, chúng tôi cũng đã thu được một
số kinh nghiệm nhằm cải thiện kỹ năng và thời gian
phẫu thuật.
Thời gian phẫu thuật trung bình là 110,5 phút,
nhanh nhất là 90 phút và lâu nhất là 180 phút, đây là
thời gian mổ chấp nhận được khi so sánh với các
tác giả khác. Theo Choi JY, thời gian phẫu thuật
trung bình khi cắt gần hoặc toàn bộ tuyến giáp là
151,2 ± 38,1 phút[9], với tác giả Choe, thời gian phẫu
thuật TB còn kéo dài hơn (165,3 phút)[8]. Có thể nói,
chúng tôi thực hiện kỹ thuật có một số thuận lợi do
các PTV đã có kinh nghiệm thực hiện kỹ thuật nội
soi khác, những trường hợp phẫu thuật kéo dài do
bướu lớn, nhiều bướu; trong nghiên cứu có 3 trường
hợp bướu đa nhân hai thùy lớn, dính lớp cơ trước
giáp, thòng hố thượng đòn gây khó khăn trong phẫu
tích; thời gian phẫu thuật kéo dài thường xảy ra ở
một số trường hợp đầu tiên khi triển khai kỹ thuật
này. Nghiên cứu cũng không quá chú trọng đến kích
thước bướu, chúng tôi mạnh dạn chỉ định cho các
trường hợp bướu có kích thước toàn khối ở một
thùy có thể trên 7 - 8cm. Kích thước bướu này cũng
khá tương đồng với một số tác giả, trong khi có tác
giả còn đề xuất áp dụng cho bướu có kích thước lớn
hơn (10cm). Tất nhiên, chỉ định này còn tùy thuộc
vào kinh nghiệm và khả năng của mỗi cơ sở điều trị.
Lượng máu mất trong mổ rất ít nếu so với phẫu
thuật mở.
Việc phẫu tích với khoang phẫu tích vừa đủ,
thao tác cẩn thận tránh gây tổn thương các nhánh
thần kinh cảm giác phía trước cơ ức đòn chũm đã
hạn chế tình trạng đau sau mổ. Các bệnh nhân đều
chỉ đau nhẹ trong ngày đầu tiên và chỉ dùng các
thuốc giảm đau dạng uống là đủ để làm dịu cơn đau.
Trường phẫu tích vùng thành ngực cũng được
thu gọn ở vị trí dưới hõm ức và xương đòn (2 - 3cm)
giúp hạn chế tình trạng rối loạn cảm giác da vùng
ngực trước. Trong nghiên cứu chỉ có 1 trường hợp
tăng cảm giác tê rần da khi ấn, biểu hiện này tồn tại
đến1 tháng sau mổ nhưng đã hồi phục hoàn toàn
trong 3 tháng. Theo Kim, rối loạn cảm giác da vùng
ngực trước có thể hồi phục dần sau 1 tháng và có
Kết quả phẫu thuật
Các bệnh nhân của chúng tôi sau mổ có giọng
nói rõ, do hiệu quả của việc phẫu tích cẩn thận
và bảo tồn nguyên vẹn các thần kinh thanh quản.
Trong mổ mở, tỉ lệ liệt thần kinh hồi thanh quản
tạm thời là 5,2 - 14%, liệt vĩnh viễn 0,55 - 1,2%[13]
.
Trong mổ nội soi, tỉ lệ liệt thần kinh quặt ngược
thanh quản tạm thời là 3,2 - 8,3%, liệt vĩnh viễn
0 - 0,65%[14]. Một số tác giả có tỷ lệ cao hơn như
Chung JS, có 25,2% liệt tạm thời thần kinh thanh
quản sau phẫu thuật nội soi giáp[12]. Nhưng theo
quan sát của chúng tôi, tỷ lệ ảnh hưởng vĩnh viễn
trên thần kinh thanh quản và tuyến phó giáp trong
phẫu thuật nội soi còn thấp hơn trong mổ mở, vì do
khả năng quan sát tốt của PTV với trường mổ có
phóng đại tương đối lớn, nên khả năng bảo tồn cao
và phần lớn là tổn thương tạm thời có thể do tác
động của phẫu tích qua nội soi. Theo Raffaelli và cs,
trong 359 trường hợp mổ nội soi hỗ trợ, hạ calci
máu tạm thời xảy ra là 25.0% và vĩnh viễn là
1,1%[15]. Trong khi thực hiện phẫu thuật, chúng tôi
đặc biệt chú ý xác định rõ và bóc tách bảo tồn
nguyên vẹn các tuyến cận giáp và thần kinh thanh
quản trước khi tiến hành cắt toàn bộ tuyến giáp.
thể trở lại bình thường 3 tháng sau phẫu thuật[16]
.
Kết quả phẫu thuật với 100% bệnh nhân đạt kết
quả tốt, thẩm mỹ cao, không có biến chứng quan
trọng và được xuất viện sớm 2 - 4 ngày sau mổ.
KẾT LUẬN
Phẫu thuật cắt tuyến giáp nội soi bằng kỹ thuật
BABA bước đầu cho thấy là phương pháp an toàn
và đạt kết quả thẩm mỹ tốt. Kỹ thuật được triển khai
nhằm mở rộng chỉ định trong phẫu thuật nội soi
tuyến giáp, nhất là đối với các trường hợp cắt trọn
và gần trọn tuyến giáp trong bệnh lý bướu tuyến
giáp.
Có thể rút ngắn thời gian phẫu thuật và kiểm
soát tốt các biến chứng qua thời gian và trên kinh
nghiệm của phẫu thuật viên.
Một số kinh nghiệm
Chúng tôi cũng không để xảy ra các biến chứng
khác, sử dụng hỗ trợ dao siêu âm giúp cầm máu
58
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
TÀI LIỆU THAM KHẢO
10. B.R. Haugen, E.K. Alexander, K.C. Bible, G.M.
Doherty, S.J. Mandel, Y.E. Nikiforov, et
1. S. Huscher, S. Chiodini, C. Napolitano, A.
Recher (1997). Endoscopic right thyroid
lobectomy. Surg. Endosc., 11 (8): 877.
al.(2015).
American
thyroid
association
management guidelines for adult patients with
thyroid nodules and differentiated thyroid cancer:
the american thyroid association guidelines task
force on thyroid nodules and differentiated
thyroid cancer. Thyroid, 26 (1):1-133.
2. K. Shimizu, S. Akira, A.Y. Jasmi, Y. Kitamura, W.
Kitagawa, H. Akasu, et al.(1999). Video-assisted
neck surgery: endoscopic resection of thyroid
tumors with a very minimal neck wound. J. Am.
Coll. Surg., 188 = (6): 697-703.
11. I.V. Renuka, G. Saila Bala, C. Aparna, R.
Kumari, K. Sumalatha (2012). The bethesda
system for reporting thyroid cytopathology:
interpretation and guidelines in surgical
treatment. Indian J. Otolaryngol. Head. Neck
Surg., 64 (4): 305-311.
3. H. Kitano, M. Fujimura, T. Kinoshita, H. Kataoka,
M. Hirano, K. Kitajima. (2002). Endoscopic
thyroid resection using cutaneous elevation in
lieu of insufflation. Surg. Endosc., 16 (1): 88-91.
12. Y.S. Chung, J.H. Choe, K.H. Kang, S.W. Kim,
4. Y. Ikeda, H. Takami, M. Niimi, S. Kan, Y. Sasaki,
J. Takayama (2001). Endoscopic thyroidectomy
by the axillary approach. Surg.Endosc., 15
(11):1362-1364.
K.W. Chung, K.S. Park, et al.(2007). Endoscopic
thyroidectomy
comparison
for
with
thyroid
conventional
malignancies:
open
thyroidectomy. World J. Surg., 31 (12): 2302-
2306.
5. M. Ohgami, S. Ishii, Y. Arisawa, T. Ohmori, K.
Noga, T. Furukawa, et al.(2000). Scarless
endoscopic thyroidectomy: breast approach for
better cosmesis. Surg. Laparosc. Endosc.
Percutan. Tech., 10 (1): 1-4.
13. Stojadinovic Alexander, Shaha R. Ashok, Orlikoff
F. Robert et al (2002). “Prospective functional
voice assessment in patients undergoing thyroid
surgery”, Annals of surgery, 236 (6): 823–832.
6. K. Shimazu, E. Shiba, Y. Tamaki, S. Takiguchi,
E. Taniguchi, S. Ohashi, et al.(2003).
Endoscopic thyroid surgery through the axillo-
bilateral-breast approach. Surg. Laparosc.
Endosc. Percutan. Tech., 13 (3):196-201.
14. Connolly M. Timothy, Watters A.K. David (2010).
“Monitoring performance in thyroidectomy:
Cumulative sum analysis of outcomes”, Thyroid
journal, 20 ( 4): 407-412.
15. Raffaelli M, Lombardi CP, De Crea C, et al.
7. K. Jeryong, L. Jinsun, K. Hyegyong, C. Eilsung,
(2010).
Video-assisted
thyroidectomy
for
S. Jiyoung, S. Insang, et
al.(2008).
Total
papillary thyroid carcinoma. Journal of Oncology,
20(10): 148542.
endoscopic thyroidectomy with bilateral breast
areola and ipsilateral axillary (BBIA) approach.
World J. Surg., 32 (11):2488-2493.
16. S.J. Kim, K.E. Lee, J.P. Myong, H. Koo do, J.
Lee, Y.K. Youn (2013). Prospective study of
sensation in anterior chest areas before and
8. J.H. Choe, S.W. Kim, K.W. Chung, K.S. Park, W.
Han, D.Y. Noh, et al. (2007). Endoscopic
thyroidectomy using a new bilateral axillo-breast
approach. World J. Surg., 31 (3): 601-606.
after
a bilateral axillo-breast approach for
endoscopic/robotic thyroid surgery. World J.
Surg., 37 (5): 1147-1153.
9. J.Y. Choi, K.E. Lee, K.W. Chung, S.W. Kim, J.H.
Choe, H. Koo do, et al.(2012). Endoscopic
thyroidectomy via bilateral axillo-breast approach
(BABA): review of 512 cases in a single institute.
Surg. Endosc., 26 (4): 948-955.
59
Tạp chí Ung thư học Việt Nam Số 5 - 2020 - Tập 1
Journal of Oncology Viet Nam - Issue N5 - 2020 - Vol 1
ABSTRACT
The initial results of endoscopic thyroidectomy via BABA approach for multinodular thyroid goiter
Background: Endoscopic thyroidectomy performed for the first time in 1997 by Huscher. Today, this
procedure is used in many countries around the world. The potential advantages of the endoscopic technique
were both safe and better cosmetic result. In Viet Nam, BABA (endoscopic bilateral axillo breast approach) was
first applied at HCM Oncology Hospital and which was one of the most effective techniques.
Aims: To describe BABA approach and to evaluate efficacy of this endoscopic thyroidectomy technique.
Patients and method: All patients were diagnosed multinodular thyroid goiter at the both lobes;
prospective study.
Results: Since January 2012, we have applied a new technique endoscopic thyroidectomy for multinodular
thyroid goiter at HCM Oncology Hospital. All of 16 cases were females, mean age was 29 (range 25 to 53).
Patients who underwent subtotal thyroidectomy (7 cases) and total thyroidectomy (9 cases). The preoperative
diagnosis of thyroid tumors was established by using physical examination, fine-needle aspiration cytology,
USG neck and FT4, TSH tests. The procedure is performed with the patient in a supine position under general
anesthesia with endotracheal intubation. Four trocars are inserted at 4 positions as two axilla and two breast
areola. The working space was created above pectoral muscle advancing towards the subplatysmal plane by
monopolar cautery and maintained with a continuous pressure of 10 to 12 mmHg carbon dioxide (CO2).
Thyroid gland was exposed by dissection through along the cervical midline and all thyroid tissue removed by
Harmonic scapel. There were no important postoperative complications such as recurrent laryngeal nerve palsy
nor postoperative hypocalcemia; less postoperative pain, earlier return to regular activities, superior cosmetic
appearance. Histopathological results were benign goiter. All patients are satisfied with the cosmetic results
and none of them were paresthesia at anterior chest wall and neck skin one month later.
Conclusions: It was a feasibility, safe and effective technique. It was possible to achieve in cases of
multinodular goiter. BABA approach had better cosmetic results and the long-term effect needs further
evaluation with more patients.
60
Bạn đang xem tài liệu "Kết quả bước đầu ứng dụng kỹ thuật BABA trong phẫu thuật nội soi điều trị bướu tuyến giáp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- ket_qua_buoc_dau_ung_dung_ky_thuat_baba_trong_phau_thuat_noi.pdf