Hiện tượng “Gian đạo sĩ” ở Nam Bộ thế kỷ 19
54
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
NGUYỄN THANH PHONG*
HIỆN TƯỢNG “GIAN ĐẠO SĨ” Ở NAM BỘ THẾ KỶ 19
Tóm tắt: “Gian đạo sĩ” là cách nhà Nguyễn từ thời Thiệu Trị
trở về sau và cả chính quyền thuộc địa của người Pháp sau này
thường dùng để gọi những người lãnh đạo các phong trào tôn
giáo dân gian ở Nam Bộ. Đây không phải là việc ngẫu nhiên,
mà có nguồn gốc sâu xa, bởi lẽ nhà cầm quyền trong thời gian
này dường như đã nhìn thấy mối quan hệ mật thiết giữa các tôn
giáo nội sinh ở Nam Bộ với các phong trào đấu tranh vũ trang
chống chính quyền của nhiều giáo phái dân gian ở Hoa Nam,
Trung Quốc. Trong bài viết này, tác giả kết hợp phân tích các
dữ kiện lịch sử, dựa trên điểm tương đồng cốt lõi trong hình
thức tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật, và khảo cứu các câu
truyện truyền miệng và tư liệu thành văn ghi chép về các ông
đạo từng bị mệnh danh là “gian đạo sĩ” nhằm làm rõ một hiện
tượng văn hóa, tôn giáo thú vị ở Nam Bộ thế kỷ 19.
Từ khóa: Nam Bộ; gian đạo sĩ; tôn giáo nội sinh; thế kỷ 19.
1. “Gian đạo sĩ” - Từ Trung Quốc đến Việt Nam
“Gian đạo sĩ” là một khái niệm khá quen thuộc của Đạo giáo ở
Trung Quốc, dùng để chỉ những tu sĩ Đạo giáo tu hành không chân
chính, không giữ nghiêm giới luật thanh quy, có những hành vi bất
chính, như: tham sắc, tham tài, lừa dối, trộm cắp, gian dâm, v.v... làm
ảnh hưởng đến thanh thế của đạo quán, nếu phát hiện sẽ bị trục xuất
khỏi sư môn. Đến thời Minh - Thanh, Nho - Phật - Đạo hợp lưu, nhiều
giáo phái dân gian ra đời, khái niệm “gian đạo sĩ” còn bao hàm cả
những người tu hành bất chính theo Phật giáo lẫn Nho giáo. Đặc biệt
đến thời cuối thời Minh đầu Thanh, nhiều thế lực chính trị bất mãn
ngoại di thống trị, muốn khôi phục quyền lực Hán tộc, đã lợi dụng các
* Khoa Sư phạm, Đại học An Giang.
Ngày nhận bài: 20/02/2019; Ngày biên tập: 07/3/2019; Duyệt đăng: 21/3/2019.
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
55
giáo phái dân gian ra đời trước đó, giải thích thuyết “thiên mệnh thần
quyền” cố hữu theo hướng “trời đã trao sứ mệnh cho ta” để kêu gọi
khởi nghĩa “phản Thanh phục Minh”. Triều đình nhà Thanh đã dùng
cách gọi “gian đạo sĩ” để chỉ những thế lực chính trị không tu hành
thuần túy, mà sử dụng tôn giáo làm ngọn cờ quần tụ nghĩa sĩ chống
phá triều đình.
Do thế lực nhà Thanh ngày một mạnh, đặc biệt đạt đến thịnh trị
dưới các đời Khang Hy, Ung Chính, Càn Long, nên các thế lực phản
Thanh bị tiễu trừ và đàn áp, phải di cư sang khắp các nước Đông Nam
Á. Sau 2 lần thất bại trong Chiến tranh Nha phiến (1839-1842, 1856-
1860), nhà Thanh phải ký kết bồi thường và cắt đất cho thực dân
phương Tây, các giáo phái nổi dậy khắp nơi chống ngoại xâm, trong
đó thế lực Thiên Địa Hội lớn mạnh khắp vùng lưu vực sông Trường
Giang và Chu Giang. Đặc biệt là sau khi cuộc khởi nghĩa Thái Bình
Thiên Quốc (1851-1864) thất bại, tiếp tục có một làn sóng người Hoa
di cư xuống phía Nam, góp phần đưa các tôn giáo dân gian, các hội
kín mang màu sắc tôn giáo vùng Hoa Nam truyền đến Việt Nam, mà
chủ yếu là vùng đất Nam Bộ.
Ở Nam Bộ, truyện kể về các ông đạo bị mệnh danh là “gian đạo sĩ”
lưu truyền rộng rãi ở nhiều nơi, đặc biệt là khu vực Đồng bằng sông
Cửu Long, nơi các tôn giáo dân gian ra đời và phát triển rầm rộ ở nửa
cuối thế kỷ 19. Trong đó, phần lớn các câu chuyện ra đời tại tỉnh An
Giang, nơi giáp ranh với tỉnh Kampot của Campuchia, gắn liền với
những truyền thuyết ly kỳ về giới đạo sĩ tu luyện huyền thuật trên các
ngọn núi thiêng trong dãy Thất Sơn hoặc Tà Lơn (Bokor). Vùng đất
biên thùy hẻo lánh này không chỉ là nơi phát tích của nhiều tôn giáo
nội sinh Nam Bộ nửa cuối thế kỷ 19, như: Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân
Hiếu Nghĩa, mà còn là chốn dung thân tụ nghĩa của các chí sĩ, đạo sĩ
Trung Hoa lẫn Việt Nam sau thất bại của nhiều phong trào đấu tranh
chống thực dân phương Tây xâm lược. Chính vì thế mà cuối thế kỷ 19,
các ông đạo nơi đây luôn bị chính quyền nhà Nguyễn lẫn thực dân
Pháp để ý, can thiệp lưu trú, nhiều lần đưa quân giải tán, thậm chí đàn
áp. Dưới đây là nội dung khảo sát về một số ông đạo tiêu biểu bị nghi
ngờ là “gian đạo sĩ” ở thế kỷ 19.
56
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
2. Truyền thuyết dân gian và tư liệu thành văn về các “gian đạo
sĩ” ở Nam Bộ
2.1. Tô Quang Xuân ở Quan Âm Cổ Tự (chùa Phật Tổ, Cà Mau)
Năm 2013, chúng tôi tiến hành điền dã tại chùa Phước Điền (Trại
Ruộng), một trong những cứ điểm quan trọng của đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương ở Tịnh Biên, An Giang. Đem chuyện “Đức Phật Vương là ai?”
trong câu sấm truyền miệng quen thuộc “Tứ bửu linh tự”1 của đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương ra hỏi một vị tín đồ cao niên. Ông bảo “Phật
Vương là Tô Quang Xuân ở chùa Phật Tổ, Cà Mau, tổ đường ở đó
trước đây có thờ trần điều”. Trả lời xong, ông còn đọc nhiều câu sấm
giảng bí truyền mà ông cho rằng rất ít người biết vì chưa được công
bố, chỉ tín đồ cao niên mới biết. Người tín đồ từ chối cho biết danh
tánh ấy đã để lại trong tôi nhiều nghi hoặc, thế là tôi bắt đầu tìm hiểu
về ngôi chùa và vị tu sĩ họ Tô kỳ bí này.
Liên quan đến Tô Quang Xuân (?-1842) có nhiều truyền thuyết dân
gian, nhưng những ghi chép chính thức và đáng tin cậy nhất đến từ
quyển Cà Mau xưa và An Xuyên nay, xuất bản năm 1972 mà tác giả
Nghê Văn Lương là một người am tường vùng đất Cà Mau đã cất
công sưu tầm. Trong phần Chùa Đức Phật Tổ Sư có giới thiệu hoàn
cảnh ra đời Chùa Phật Tổ và hành trạng ngài Tô Quang Xuân. Nội
dung tạm lược thuật như sau:
Đời vua Tự Đức, ngài Tô Quang Xuân gốc ở Đầm Dơi xã Tân
Duyệt (Cà Mau), là người sùng bái đạo Phật, tuy không trường chay
khổ hạnh nhưng sống ngay thẳng chan hòa nên ai cũng mến yêu. Lớn
lên, cha mẹ có hứa hôn, ngài vào rừng đốn củi may gặp được cuốn
kinh Năm Ông, đem về nhà đọc càng tỏ ngộ, nên quyết tâm tu hành,
khước từ hôn nhân, dứt tình quyến thuộc. Ngài ra Cà Mau chọn nơi
lập am tu hành, bị nhiều người mỉa mai nhưng vẫn kiên trì theo đạo,
vài năm sau mở phòng thuốc trị bệnh, cứu giúp những người bệnh
trầm kha được mạnh lành. Nhờ đó danh tiếng ngài đồn đãi xa gần, bổn
đạo kéo đến ngày một đông. Ít lâu, có kẻ ganh ghét vu cáo ngài là
gian đạo sĩ, cố tâm làm loạn, nên bị quan trên bắt giải về Gia Định2.
Bổn đạo khóc than thảm thiết xin theo, ngài vỗ về an ủi, giải đi đến
đâu được mọi người hâm mộ sùng bái đến đó. Quan trên bày ra nhiều
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
57
trò thử thách như lót tượng phật dưới chiếu cho ngài ngồi, trộn thịt với
đồ chay bảo ngài ăn, nhưng đều bị ngài phát hiện và hóa giải. Chừng
đó, quan trên thấy ngài là bậc chân tu đắc đạo, bèn dâng sớ về triều
đình, vua bèn ban sắc phong Hòa thượng. Ngài được an trí tại chùa
Kim Chưởng, lòng buồn bã chẳng yên, ngày 3 tháng 6 năm 1842 ngài
viên tịch, vua hay tin ban cho hai cây gấm để tẩm liệm thi hài và cho
đem linh cữu ngài về Cà Mau an táng3.
Câu chuyện trên tiết lộ Tô Quang Xuân bị người khác vu cáo là
gian đạo sĩ vì “cố tâm làm loạn”, tương ứng với câu thơ lưu truyền
trong dân gian:
Tập trung đông đúc cả ngày,
Toan mưu làm phản có ngày phế vua.
ám chỉ ông lôi kéo tín đồ âm mưu phản loạn, soán ngai vua. Tiếp đó,
ông rơi vào vòng lao lý, trải qua nhiều thử thách khắc nghiệt để cuối
cùng được giải oan và công nhận là bậc tu hành chân chính. Ngày nay,
ngôi chùa ra đời năm 1840 này, dù không còn giữ sắc phong gốc được
ban ngày 3 tháng 6 năm Nhâm Dần (Thiệu Trị thứ 2, 1842), nhưng
trong chùa vẫn còn tấm bia đá khắc bài Sắc tứ Quan Âm Cổ Tự do một
vị Hàn lâm Viện học sĩ vâng lệnh vua biên soạn với nội dung như sau:
Chiếu rằng: Trẫm nghĩ, chốn Kỳ Viên sum xuê, trăm hoa đua nở đầy
cành; cảnh sắc ta bà, muôn xưa không sinh không diệt. Bờ giác xa xôi,
từng nghe nương một cành lau mà đến; trời tây vời vợi, chỉ có thuyền
rỗng mới vượt đến nơi. Đã trưng việc cổ, để nghiệm đời nay. Vừa đọc
tố chương, ngỡ như ve vàng trước mắt; duyệt qua văn sớ, mới tường
ngài đã cỡi hạc quy tiên. Người linh trời đất cũng linh, vương pháp tâm
đồng Phật pháp. Gấm vóc ban cho, cầu siêu lạc quốc, hòa thượng hóa
thân rực rỡ, còn phải phong sắc làm chi. Lúc đó ngài thoát xác, hiển
danh tháp tịnh trang nghiêm, vinh dự cùng với ân điển nước nhà. Hỡi ôi!
Tiên cảnh không vướng bụi trần, thiên đường ắt là có nẻo. Ta ban một
đạo sắc, thể hiện tấm lòng sùng thượng, gấm vóc đôi cây, để ghi ân huệ
triều đình, làm sáng rõ công đức của ngài. Khá kính thay!4.
Đáng chú ý, cuối tấm bia là dòng chữ Hán “Tự Lâm Tế chánh tông,
tam thập thất thế, thượng Trí hạ Tâm, tánh Tô Quang Xuân, sắc phong
58
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
hòa thượng giác linh” (Sắc phong trước giác linh hòa thượng kế thừa
dòng Lâm Tế chánh tông đời thứ 37, pháp danh Trí Tâm, tục danh Tô
Quang Xuân), tương ứng với câu thơ trong dân gian:
Sắc phong Hòa thượng cho Thầy Quang Xuân,
Pháp hiệu thượng Trí hạ Tâm,
Chùa thì sắc tứ Quan Âm đời đời.
Nếu đạo sắc này có thật, thì dường như ngài Tô Quang Xuân đã
được triều đình sắp đặt cho quy y theo dòng Lâm Tế chính thống
đương thời. Một điều đáng suy ngẫm là, từ một người bị nghi là gian
đạo sĩ, trở thành một người được vua Thiệu Trị tiếc thương ban sắc
phong với lời lẽ nhún nhường tôn kính như vậy, ắt phải có nguyên
nhân bên trong của nó.
2.2. Sư Cố Hà Minh Nhựt (Cù lao Ông Chưởng, Chợ Mới, An
Giang)
Sư Cố Hà Minh Nhựt (1802-1877) hay Minh Nhựt thiền sư là
người sáng lập chùa An Long Cổ Tự (người dân quen gọi là chùa Cố,
chùa Sư Cố), hiện tọa lạc tại cù lao Ông Chưởng, xã Kiến An, huyện
Chợ Mới, tỉnh An Giang. So với các vị còn lại, tên tuổi ngài ít được
nhiều người biết đến. Tư liệu thu thập điền dã tại chùa giới thiệu về
hành trạng cuộc đời của ngài như sau:
Sư Cố tên thật là Hà Văn Giáo, sinh năm 1802, người gốc xã Long
Kiến, thiếu thời giúp gia đình cày cấy, bẩm tính hiền từ, chỉ dùng chay
lạt, bắt đi coi chim nhưng ngài không đuổi, chỉ lo lấy đất sét nặn đủ
các loại tượng Phật theo trí tưởng tượng rồi cất trong chòi. Thân sinh
ngài đến thăm lúa, thấy sự tình nổi giận, đem hết tượng Phật quăng
xuống sông, lạ là tượng nổi không chìm, Sư Cố bèn chạy xuống dưới
dòng vớt hết lên, từ đó cha ông cho con tự do hành đạo. Ngài lập am
tu hành, dân chúng nghe đồn linh nghiệm kéo đến càng đông, am
được xây dựng to lớn hơn. Sư Cố bắt đầu trị bệnh cứu đời, đặc biệt là
bệnh “tà trí rối loạn”, “dùng thuật ngữ thuyết cho người bệnh nghe lần
lần hết bệnh, rồi quy y đầu Phật tu hành”. Sự mầu nhiệm đó khiến tin
đồn lan xa, ông bắt đầu thuyết pháp thu nhận tín đồ, thuyền ghe lui tới
tấp nập. Khoảng năm 1825, ngài Đoàn Minh Huyên có ghé qua thăm -
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
59
“Lại chùa sư Nhựt ở rày hôm mai; Ghé chùa sư Nhựt ở rày đêm nay”,
gọi bằng “Ngài” và tỏ ra ái mộ sự tu hành của Sư Cố. Mấy năm sau,
quan Tổng trấn An Giang5 mời Sư Cố đăng đàn thuyết pháp, rồi chỉ
thị ngài đến Cái Bè học hành giáo lý bài bản với Hòa thượng Tổ,
được thầy đổi tên là Hà Minh Nhựt, còn xin triều đình ban sắc phong
Hòa thượng. Ít lâu sau ngài trở về chùa tu hành và tiếp tục trị bệnh,
năm 1840 cứu vợ quan Tổng trấn bị bệnh nan y khỏi bệnh bằng “thuật
ngữ và uống nước lã”. Quan Tổng trấn biết ơn tâu lên triều đình,
“triều đình ban cây gươm dài lưỡi bằng vàng, cán khắc chạm tứ quý
và bản văn ấn khuyết ghi rõ sát tà trị bệnh, cây gươm truyền đến đời
Cần Vương sau khi Sư Cố tịch diệt. Đến thời Thiên Địa Hội chống
Pháp xâm lăng, quân địch lùng kiếm những người đời sau có liên hệ
đến ngôi chùa, vì sợ quá nên sư trụ trì đem kiếm quăng dưới lòng
sông Ông Chưởng”, đến nay không tìm gặp. Năm 1877, ngài già yếu
rồi tịch diệt, hưởng thọ 75 tuổi6.
Văn bản giới thiệu trong chùa An Long không nhắc đến việc Sư Cố
bị quan trên tình nghi là gian đạo sĩ. Tuy nhiên, một câu hỏi đặt ra là
Sư Cố trước đây tu hành theo môn phái nào, vì sao quan Tổng trấn lại
mời đăng đàn thuyết pháp rồi chỉ thị cho đi học giáo lý Phật pháp
chính tông với Hòa thượng Tổ tại Cái Bè dù ông thuyết pháp rất lưu
loát và được nhiều người mến mộ? Đáng chú ý hơn, Sư Cố và Phật
Thầy Tây An có mối quan hệ gì, để khiến cho cách thức hành đạo và
hóa độ chúng sinh của hai ông lại gần gũi nhau đến vậy. Nghi vấn này
được tác giả Lê Thu Vân đặt ra trong bài viết Văn hóa của người Việt
vùng Cù lao Ông Chưởng nhìn từ truyện kể dân gian: “Phật Thầy Tây
An từng ghé thăm và đàm đạo với Sư Cố, Phật Thầy còn ký thác một
bức tượng Phật A Di Đà cho nhà chùa, rất có thể từ lần gặp gỡ này,
Phật Thầy Tây An đã gặp được một bậc chân tu và ái mộ sự tu hành
trên nền tảng chính pháp cùng khả năng dùng thuật ngữ trị bệnh vô
cùng mầu nhiệm của Sư Cố, từ đó Phật Thầy có cơ sở để tạo lập Bửu
Sơn Kỳ Hương với tôn chỉ và phương pháp hành đạo cũng có nhiều
nét tương tự, đặc biệt là cách dùng bùa thuật để chữa bệnh cứu
người”7. Rõ ràng, có mối quan hệ mật thiết về mặt nguồn gốc tông
phái tu hành giữa Sư Cố Hà Minh Nhựt với ngài Đoàn Minh Huyên.
60
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
Một chi tiết rất quan trọng khác tiết lộ mối quan hệ giữa Sư Cố với
tổ chức Thiên Địa Hội và triều đình nhà Nguyễn là việc sắc phong và
ban gươm trừ tà. Cũng giống như trường hợp ngài Tô Quang Xuân phía
trên, triều đình Thiệu Trị, Tự Đức có vẻ rất quan tâm đến các ông đạo
Nam Bộ này. Việc triều đình gia ân ban sắc để công nhận vị thế tôn
giáo của các ông đạo dường như lưu lại trong ký ức dân gian rất sâu sắc.
Hơn nữa, liệu có mối liên hệ nào giữa Sư Cố với Thiên Địa Hội, chùa
An Long với phong trào Cần Vương sau này hay không? “Gươm báu”
trong trường hợp này có ý nghĩa tượng trưng gì? Vì sao Pháp lùng bắt
những người tham gia phong trào chống đối của Thiên Địa Hội lại tìm
đến chùa Sư Cố? Những vấn đề quan trọng này cần được giải đáp để
làm sáng tỏ những uẩn khúc lâu nay đang bao trùm lấy một nhân vật
được người dân cù lao Ông Chưởng lưu truyền qua nhiều thế hệ.
2.3. Phật Thầy Tây An Đoàn Minh Huyên (Đồng Tháp, An Giang)
Liên quan đến hành trạng của ngài Đoàn Minh Huyên (1807-1856),
tư liệu hiện nay khá phong phú, nghĩa là có nhiều người đề cập tới,
nhưng điều đó không có nghĩa là mọi thứ về cuộc đời ngài đều sáng tỏ.
Ngoài truyền khẩu dân gian và nhiều sấm giảng tương truyền do các
đồ đệ ghi chép lời thầy, các tài liệu nghiên cứu quan trọng, như: Đức
Phật Thầy Tây An của Vương Kim và Đào Hưng, Sa Đéc xưa và nay
của Huỳnh Minh, Sấm truyền đức Phật Thầy Tây An của Nguyễn Văn
Hầu và Nguyễn Hữu Hiệp... đều có những ghi chép khá giống nhau về
Đoàn Minh Huyên. Chúng tôi dựa vào khảo cứu của tác giả Nguyễn
Văn Hầu để lược thuật về hành trạng cuộc đời ngài như sau:
Ngài Đoàn Minh Huyên sinh năm 1807 (năm Gia Long thứ 6) tại
làng Tòng Sơn, trấn Vĩnh Thanh (nay thuộc Lấp Vò, Đồng Tháp).
Tuổi thơ đến lúc rời quê quán lên núi tu hành không thấy tư liệu nào
ghi chép, từ năm 1844 ngài vân du qua Gò Công, Mỏ Cày, Bến Tre,
Cần Chông, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Rạch Giá, Thất Sơn rồi trở
về Tòng Sơn năm Kỷ Dậu (1849), khi dịch bệnh đang hoành hành
đáng sợ ở nhiều nơi của trấn Vĩnh Thanh. Sống nương tựa tại đình
làng Tòng Sơn, ngài giả ngây giả dại, khi hư khi thực, nói chuyện úp
úp mở mở khiến nhiều người hiếu kỳ. Sau dịch bệnh lan rộng, người ta
đến nhờ ngài ra tay chữa trị. Ngài dùng “cây thẻ Năm Ông” (cây cờ
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
61
ngũ sắc), bùa chú, nước lã, tro nhang, giấy vàng... điều trị, ấy vậy mà
rất công hiệu, tiếng đồn lan xa, bệnh nhân theo về càng đông. Ngày
rao giảng giáo lý trong quyển sấm giảng mang theo người, dạy thờ
trần điều, kính thờ Năm Ông, học Phật tu nhân, phát phái thu nhận tín
đồ, bắt đầu sáng lập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương. Có người ghét
ganh tố cáo ngài là gian đạo sĩ, tụ tập dân chúng khởi loạn, Tổng đốc
An Giang ra lệnh bắt ngài về Châu Đốc câu lưu. Qua nhiều thử thách,
thấy ngài là bậc chân tu huyền diệu, hùng biện trôi chảy, chính quyền
bèn đưa ngài đến an trí tại chùa Tây An do Tổng đốc Doãn Uẩn cho
xây năm 1847, thế phát quy y với Thiền sư Hải Tịnh. Dù vậy, ngài vẫn
tới lui hướng dẫn tín đồ khẩn hoang lập ruộng mở làng, cấp phái phát
phù trị bệnh, tín đồ quy tụ càng đông. Ngài viên tịch tại chùa Tây An
năm 1856, thọ 50 tuổi8.
Giải thích lý do ngài Đoàn Minh Huyên bị chính quyền nghi kỵ là
gian đạo sĩ, Nguyễn Văn Hầu cho rằng vì An Giang là xứ biên thùy hiểm
yếu, dân cư phức tạp, mê tín dẫy đầy, phù thủy đồng bóng khắp nơi, giặc
giã thường hay nhiễu nhương, sư sãi bị kích động từng xưng vương khởi
loạn nhiều chỗ, khiến triều đình Thiệu Trị đau đầu đối phó, không thể
không cảnh giác. Đó là nguyên nhân gián tiếp, còn nguyên nhân trực tiếp
là do bọn lang băm phù thủy địa phương chỉ trích cách chữa bệnh, truyền
giáo và hành giáo của ngài, nên đã ác ý tố giác với quan trên. Cụ thể là
ngài chữa bệnh không dùng thuốc, tu hành mà vẫn búi tóc để râu, không
tụng kinh gõ mõ mà chỉ lâm râm mặc niệm, không thờ tượng cốt mà chỉ
thờ trần điều, không cúng chè xôi mà chỉ dùng hoa tươi nước lã...
Những điều khác xa so với truyền thống trước đó9. Đó là những phỏng
đoán của Nguyễn Văn Hầu, còn chúng tôi cho rằng nguyên nhân chính
có lẽ là việc tập hợp tín đồ và truyền bá giáo thuyết của ngài chứa
những yếu tố chính trị đặc biệt, khiến triều đình không thể yên tâm tin
tưởng đây là một giáo đoàn thuần túy lo việc tu hành.
Ngoài ra, trong dân gian cũng lưu truyền nhiều truyền thuyết về
mối quan hệ giữa ngài với ông đạo Kiến và Sư Cố Hà Minh Nhựt.
Ngài nhiều lần tới lui cốc ông đạo Kiến (nay là Tây An Cổ Tự, cù lao
Ông Chưởng, Chợ Mới, An Giang), đến năm 1849 bắt đầu phát bùa trị
bệnh và sáng lập đạo Bửu Sơn Kỳ Hương tại đây. Ông đạo Kiến là ai?
62
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
Tu hành thế nào? Quan hệ với ngài Đoàn Minh Huyên ra sao? đến nay
vẫn chưa ai biết tường tận. Ngày 12/8/2018, chúng tôi tiến hành điền
dã tại ngôi chùa này phát hiện nơi hậu liêu có một bài vị cổ ghi dòng
chữ Hán “Phụng thỉnh Sư Cố Lê Văn Kiến tọa vị”, và bước đầu xác
định đây là bài vị ông đạo Kiến, ngoài ra không còn thông tin gì khác.
Đáng chú ý là ông đạo Kiến cũng được tín đồ gọi là “Sư Cố” giống
như ngài Hà Minh Nhựt.
2.4. Đức Bổn Sư Ngô Lợi (Núi Tượng, Tri Tôn, An Giang)
Ông Ngô Lợi (1831-1890) là người sáng lập đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa, một tôn giáo có mối quan hệ mật thiết với đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương của Đoàn Minh Huyên. Hai tôn giáo này ban đầu luôn bị triều
đình nhà Nguyễn và chính quyền thực dân Pháp xem là tổ chức hoạt
động tôn giáo - chính trị của các “gian đạo sĩ” để mưu đồ soán ngai
vua, đánh đổ ách thống trị của người Pháp tại Nam Bộ.
Trong số các ông đạo ở Nam Bộ ở thế kỷ 19, Đức Bổn Sư Ngô Lợi
là người còn được lưu lại nhiều tư liệu sách vở nhất, đặc biệt là 3 quyển
Ngọc lịch đồ thơ tập chú ghi chép về quá trình cất chùa và khai hoang
lập làng tại vùng Núi Tượng, một số kinh điển chữ Hán do ông và đệ tử
viết, cùng nhiều truyền thuyết về hành trạng cuộc đời mà tín đồ trong
đạo thường kể cho nhau nghe. Ông cũng là người trực tiếp tham gia
lãnh đạo các phong trào vũ trang chống Pháp, ủng hộ nhiệt tình cho
nhiều chí sĩ yêu nước đấu tranh, chịu nhiều lần “pháp nạn” khi thực dân
Pháp kéo quân vào Núi Tượng đàn áp, đốt phá chùa chiền.
Hà Tân Dân trong quyển Hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa có giới thiệu
tổng quát về thân thế cuộc đời ông. Ngô Lợi được mô tả sinh tại Mỏ
Cày (Bến Tre) trong một gia đình làm nghề thợ mộc. Cha mất sớm,
mẹ ở góa nuôi ông đến lúc trưởng thành. Năm 20 tuổi (1851), ông
sáng tác Bà La Ni kinh, một quyển kinh ca ngợi đức hạnh và uy lực
của Bồ Tát Quán Âm. Năm 1867, ông đi thiếp 7 ngày đêm rồi tỉnh dậy,
chứng đắc đạo quả, dạy đời hành đạo, phát phái quy y cho thiện tín.
Sau đó, ông đi khắp nơi truyền đạo, rồi cho tín đồ vào Núi Tượng khai
hoang (trảm thảo khai sơn), xây dựng chùa miếu, quy tụ tín đồ lẫn
nghĩa sĩ khắp Nam Kỳ. Sau đó, mật thám Pháp theo dõi nghiêm ngặt,
phát hiện các hoạt động chính trị bí mật theo hình thức Thiên Địa Hội
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
63
giữa Núi Tượng với tổ chức ở Sài Gòn và Campuchia, nên người Pháp
đã 7 lần đưa quân ruồng bố giải tán và đốt phá chùa chiền. Theo mô tả,
nhờ tài trí hơn người và tài biến hóa kỳ diệu, ông đều may mắn thoát
khỏi, rồi sang Campuchia lánh nạn, đợi tình hình im ắng trở về Núi
Tượng chỉ đạo tín đồ tái thiết lại cơ sở chùa miếu10.
Trong mắt nhà cầm quyền Pháp, ông Ngô Lợi cũng được xếp vào
hàng “gian đạo sĩ” vì các hoạt động hộ quốc an dân, mưu đồ khởi
nghĩa chống thực dân xâm lược.
2.5. Đức Phật Trùm Tà Ponl (Lương Phi, Tri Tôn, An Giang)
Tà Ponl (?-1875) là một đạo sĩ gốc Khmer, người ấp Xà Lôn, xã
Lương Phi, huyện Tri Tôn, tỉnh An Giang. Ông được tín đồ trong phả
hệ Bửu Sơn Kỳ Hương ở Nam Bộ tin tưởng là “hậu thân của Phật
Thầy Tây An, được tôn xưng là đức Phật Trùm, tương ứng với chữ
Hương trong “tứ bửu linh tự”. Những người quan tâm đến tài chữa
bệnh bằng bùa phép của ông gọi ông là Đạo Đèn, còn trong sách Ngọc
lịch đồ thơ tập chú của đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có chép tên tiếng Việt
của ông là Trần Hữu Lễ.
Dật Sĩ và Nguyễn Văn Hầu trong quyển Thất Sơn mầu nhiệm có
giới thiệu về hành trạng cuộc đời ông như sau: Năm 1868, dịch bệnh
lan tràn vùng quê ông; ông mắc bệnh chết; hôm sau chưa kịp hỏa thiêu
thì ông sống dậy nói toàn tiếng Việt, tự xưng là Trời Phật phái xuống
cứu bệnh độ đời, rồi thuyết giảng giáo pháp hư hư thực thực. Nhờ tài
chữa bệnh bằng phù chú rất kỳ diệu, nên tiếng đồn vang dậy khắp nơi,
nhiều người nghe tiếng đến lãnh bùa của ông đem về trị bệnh. Sau đó,
ông cũng phát phái thu nhận tín đồ, tiếp nối nguồn mạch Bửu Sơn Kỳ
Hương, truyền bá giáo lý học Phật tu nhân và rao giảng thuyết Hội
Long Hoa. Khoảng năm 1870, mật thám báo về chính quyền thực dân
rằng ông là “gian đạo sĩ”, mượn việc chữa bệnh để kêu gọi nhân dân
khởi loạn chống chính quyền. Nhà cầm quyền Pháp đưa quân đến bắt
ông cầm tù, thử thách hành hạ đủ kiểu nhưng ông vẫn ung dung tự tại
không hề hấn gì, sau đó chính quyền trả tự do cho ông. Ông trở về Xà
Lôn tiếp tục độ bệnh cứu người, khuyên đời tu tỉnh, định kỳ đến trình
diện với chính quyền. Thời gian đó, ông vẫn thường lên vùng Thất
Sơn gặp gỡ, đàm đạo với các bậc dị nhân. Trước đó, ông cũng đã
64
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
nhiều lần băng rừng vượt suối lên tận núi Tà Lơn tu luyện với các đạo
sĩ nơi đây. Năm 1875, ông an nhiên tịch diệt và lưu lại cho đời một
quyển sấm giảng khuyên đời tu niệm và tiên đoán thời cơ11.
Cũng như các ông đạo trên, xoay quanh quá trình hành đạo của ông
Tà Ponl là rất nhiều truyền thuyết được thêu dệt bởi tín đồ về tài năng và
phép thuật cứu đời của ông. Ông hành đạo trong thời kỳ phong trào
kháng Pháp của Nguyễn Trung Trực ở Kiên Giang, Trần Văn Thành ở
Bảy Thưa - Láng Linh, Ngô Lợi ở Ba Chúc đang liên kết mật thiết và
dâng trào mạnh mẽ12. Có thuyết cho rằng sau khi xuống núi, ông đã
truyền đạo và chiêu mộ nhiều nghĩa sĩ người Khmer hậu thuẫn cho phong
trào kháng Pháp của Trần Văn Thành, trở thành thủ lĩnh của một cánh
quân người Khmer trong phong trào của hội kín hoạt động chống Pháp.
2.6. Đức Quản Cơ Trần Văn Thành (Châu Phú, An Giang)
Trần Văn Thành (?-1873) được tín đồ Bửu Sơn Kỳ Hương và Phật
Giáo Hòa Hảo tôn kính ở ba phương diện chính: (1) Ông là một trong
12 đại đồ đệ của Phật Thầy Tây An, có nhiều đóng góp cho hoạt động
khai sáng và mở mang nền đạo từ những ngày đầu thành lập; (2) Là
nhà doanh điền có công mở mang vùng đất Láng Linh (Châu Phú, An
Giang), cải tạo đất đai, tạo lập trại ruộng, xây dựng xóm làng cho tín
đồ tập trung cày cấy tu hành; (3) Là anh hùng dân tộc có tinh thần yêu
nước thương nòi, lãnh tụ phong trào khởi nghĩa Bảy Thưa (Láng Linh)
chống thực dân Pháp xâm lược.
Là một người con Phú Tân (An Giang), Trần Văn Thành sớm gia
nhập quân đội triều Nguyễn dưới thời Thiệu Trị, lập được nhiều công
lao chống ngoại xâm và nội loạn nên được thăng làm Chánh Quản cơ.
Sau đó ông được giải ngũ và gia nhập giáo phái Bửu Sơn Kỳ Hương,
ra sức cắm thẻ dập dịch, mở mang căn cứ, tăng cường sức mạnh nền
đạo. Sau khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, chiếm 3 tỉnh Nam Kỳ,
ông hưởng ứng lời kêu gọi của Tự Đức đầu quân đuổi giặc. Do những
thất bại trong việc cản trở quân Pháp và ủng hộ phong trào khởi nghĩa
của các chí sĩ, ông dẫn tín đồ vào Láng Linh xây dựng căn cứ chống
Pháp, đặt tên đội quân của mình là Binh Gia Nghị. Cùng với sự thất
bại lần lượt của phong trào kháng Pháp ở các nơi, ông đã chỉ huy tín
đồ bền bỉ đối đầu với quân giặc đến những giây phút cuối cùng.
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
65
Xác định rõ Bửu Sơn Kỳ Hương là một tôn giáo hoạt động chống
nhà cầm quyền, ngày 22/4/1873, Đô đốc Dupré ban hành một nghị
định nghiêm cấm dân chúng theo đạo Lành (tức Bửu Sơn Kỳ Hương)
vì đạo này xúi giục dân chúng đi lạc đường ngay nẻo chính. Nghị định
còn nói rõ những người đi truyền giảng đạo này cũng như tín đồ của
đạo sẽ bị xử như luật đàng cựu, bị xem là gian đạo sĩ, là phiến loạn13.
Chính hoạt động hộ quốc ngoan cường của tín đồ đạo Bửu Sơn Kỳ
Hương đã khiến thực dân Pháp luôn cử mật thám theo dõi, đưa quân
đàn áp khốc liệt.
Trên đây chúng tôi đã trình bày các ông đạo Nam Bộ tiêu biểu ở
thế kỷ 19 từng bị chính quyền tình nghi là “gian đạo sĩ”. Trong nửa
đầu thế kỷ 20 cũng xuất hiện nhiều ông đạo khác tích cực hoạt động
chống Pháp, có hành trạng khá giống các ông đạo nêu trên và ít nhiều
có mối quan hệ về mặt đạo pháp tu hành với các giáo phái đời trước.
Như trường hợp ông đạo Tưởng ở Tân Châu, là người giỏi võ nghệ,
bùa ngải, thờ cúng Quan Công và Ngũ Công Vương Phật, lãnh đạo tín
đồ nổi dậy chống Pháp năm 1939. Hoặc nửa sau thế kỷ 20 có ông đạo
Dừa Nguyễn Thành Nam, người sau khi du học ở Pháp về đã có nhiều
năm lên vùng Thất Sơn tu luyện huyền thuật, cũng rao giảng niềm tin
về tận thế và Hội Long Hoa. Trong quá trình lan truyền đức tin đó, núi
Tà Lơn và dãy Thất Sơn đóng vai trò quan trọng như những trung tâm
tu luyện huyền thuật của giới đạo sĩ. Hầu như các ông đạo ở Nam Bộ
đều trải qua quá trình tu hành ở đây trước khi xuống thế trị bệnh, dập
dịch hoặc rao giảng khuyên đời tu niệm.
3. Sự tương đồng giữa các hiện tượng “gian đạo sĩ” với tín
ngưỡng Ngũ Công Vương Phật
Một điểm đáng lưu ý là hầu như các vị đạo sĩ trên đều tin tưởng và
sùng bái Ngũ Công Vương Phật (Năm Ông, Năm Ông Phật Vương) -
một loại tín ngưỡng có nguồn gốc từ khu vực Hoa Nam (Trung Quốc)
du nhập vào Việt Nam đầu thế kỷ 19. Tín ngưỡng này thờ cúng 5 vị
Phật là Đường Công Vương Phật, Lãng Công Vương Phật, Hóa Công
Vương Phật, Bửu Công Vương Phật, Chí Công Vương Phật, cùng các
vị Phật và Bồ Tát quen thuộc khác. Bộ kinh chủ yếu của tín ngưỡng
này là Kinh Ngũ Công, “chứa đựng niềm tin về hạ ngươn mạt kiếp,
66
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
Minh Vương xuất thế, Dần Mão sự biến, thiên địa tái tạo, thiên hạ đại
loạn, Ngũ Công cứu thế, Di Lặc ra đời”14.
Bao trùm nội dung bộ kinh là những mô tả về cảnh đời loạn lạc,
bệnh dịch hoành hành, nhân tâm điên đảo, lòng người bạc ác; sau một
trận binh đao thê thảm, nước dâng lửa cháy, kẻ ác bị tiêu diệt, người
thiện được cứu sống, sẽ có vị Minh Vương xuất thế thu dọn tàn cuộc,
dùng Phật pháp giáo hóa hiền nhân tu thành chính quả. Rõ ràng, luận
điệu đó mang hàm ý phê phán chính quyền đương cuộc, hứa hẹn một
cuộc “canh triều hoán đại”, tiên đoán vua mới ra đời, dễ khiến lòng
người chán nản thời cuộc, trông chờ và ủng hộ cho triều đại mới.
Chính vì hàm ý chính trị đó mà nhiều đời vua thời Tống, Nguyên,
Minh, Thanh cấm lưu hành bộ kinh này, luôn đặt các tu sĩ đứng đầu
vào tầm ngắm quản thúc, thậm chí xem là “gian đạo sĩ” và tìm cách
đàn áp, tiễu trừ. Cuối đời Thanh, các giáo phái mang tín ngưỡng Ngũ
Công lại nổi dậy mạnh mẽ, uy hiếp chính quyền Mãn Thanh, sau bị
triều đình truy kích quyết liệt phải tìm cách đào tẩu sang các nước
Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam.
Tín ngưỡng này du nhập vào Nam Bộ nửa đầu thế kỷ 19. Trường
hợp sớm nhất tiếp nhận tín ngưỡng này được biết đến hiện nay là ngài
Tô Quang Xuân tại chùa Phật Tổ (Cà Mau). Tư liệu điền dã cho thấy
chùa này từng sùng bái Ngũ Công Vương Phật, thờ cúng đa dạng các
thần linh của Tam giáo chứ không thuần túy là chùa Phật như hiện nay.
Trong chính điện, chùa vẫn còn lưu giữ khán thờ có ghi dòng chữ Hán
Ngũ Công Vương Phật (
) với một bài vị cổ bằng gỗ có dòng
)15, đáng chú ý là
chữ Nam Mô Ngũ Công Dương Phật (
trong chùa còn thờ bộ tượng cổ Ngũ Công Vương Phật bằng gỗ, sơn
năm màu khác nhau, tiếc là hiện nay chỉ thấy còn 3 tượng, do người
đời sau không rõ nên tách lẻ ra thờ ở các bàn thờ16. Ngoài ra, chùa còn
thờ Ngọc Hoàng Thượng Đế và có treo cặp liễn đối cổ chữ Hán: “Sắc
khuông nhương, cần miễn lệ, động cù lao, quân sư phụ nhất ban kiệt
lực; Chí trung thứ, niệm từ bi, tư cảm ứng, Nho Thích Đạo tam giáo
đồng tâm” (
), cho thấy tinh thần dung hòa Tam giáo của
các tôn giáo dân gian trong hình thái tín ngưỡng tại chùa thời kỳ đầu.
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
67
Dù trong chùa hiện nay không còn thấy thờ trần điều, các gian thờ
đều được sơn nền xanh, nhưng vẫn còn thấy một bao lơn cổ được điêu
khắc trang trí tinh xảo công phu, trên có dòng chữ Hán: “Đinh Sửu
niên tứ nguyệt sơ tứ nhật thượng lương” (
,
thượng lương ngày 4 tháng 4 năm Đinh Sửu, 1877). Chi tiết nhỏ liên
quan đến nghi thức thượng lương này khá giá trị, đây cũng là một nghi
thức thường thấy trong quá trình xây dựng các chùa của đạo Tứ Ân
Hiếu Nghĩa. Tất cả những thông tin trên cũng rất xác hợp với chi tiết
ngài Tô Quang Xuân vào rừng đốn củi bắt gặp quyển kinh Năm Ông.
Điều này cho thấy giáo pháp tu hành của ông có màu sắc tín ngưỡng
Ngũ Công Vương Phật.
Tín ngưỡng này cũng được thể hiện khá đậm đà trong đường lối tu
hành của Đoàn Minh Huyên và Ngô Lợi, những người sáng lập đạo
Bửu Sơn Kỳ Hương và Tứ Ân Hiếu Nghĩa. Giáo thuyết của đạo Bửu
Sơn Kỳ Hương được xây dựng trên nền tảng tín ngưỡng Ngũ Công
Vương Phật, từ hệ thống kinh điển, phương thức tu hành, nghi thức bùa
chú, thờ cúng Năm Ông Thẻ… đều cho thấy tinh thần dung nhập tư
tưởng trong Kinh Ngũ Công17. Còn trong đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa, cũng
không quá khó để thấy dấu vết của tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật.
Trong hệ thống kinh điển của tôn giáo này, có nhiều quyển kinh chữ
Hán mang đậm màu sắc tín ngưỡng Ngũ Công, như: Ngũ Công thiên đồ
kinh, Ngũ Công cứu kiếp kinh, Ngũ Công bát nhã kinh, Ngũ Công Quan
Âm kinh… Ngoài ra, trong phương thức thờ tự tại chùa miếu hoặc cư sĩ
tại gia, cũng đều thấy niềm tin và sự thực hành giáo lý Ngũ Công.
Vậy đâu là nguyên nhân chính khiến triều đình Thiệu Trị, Tự Đức
và cả chính quyền thực dân Pháp sau này luôn xem các ông đạo là
“gian đạo sĩ” và tìm cách quản thúc, cách ly với tín đồ, hạn chế hoạt
động tín ngưỡng, thậm chí còn giải tán, đàn áp, đốt phá? Chúng tôi
cho rằng, nguyên nhân chính là do giáo thuyết các ông hành trì và rao
giảng mang những niềm tin về thiên hạ đại loạn, thiên địa tái tạo,
Minh Vương xuất thế, thời mạt pháp, Hội Long Hoa gần kề… Những
tín điều đó trực tiếp uy hiếp đến quyền lực thống trị của chính quyền
đương cuộc, nhất là khi lực lượng tín chúng theo về ngày một đông
đảo. Càng về sau, có thể các ông đạo trực tiếp đấu tranh vũ trang
68
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
chống Pháp một cách có tổ chức, mạnh mẽ và gay gắt hơn để khôi
phục chế độ quân chủ, nên đã bị người Pháp tấn công trực diện, ruồng
bố, đàn áp thẳng tay hơn.
4. Tương đồng về hành trạng cuộc đời các ông đạo
Khảo sát các truyền thuyết dân gian và trong nhiều nguồn tư liệu
thành văn khác nhau, chúng tôi nhận thấy nhiều nét tương đồng về
hành trạng cuộc đời của các ông đạo. Hầu hết các ông xuất thân bần
hàn, cuộc sống vất vả gian lao, nhiều người không rõ gốc tích. Sau đó,
tiếp nhận Phật pháp qua tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật, tích cực
tu hành theo đường lối nhập thế khác lạ, tu tại nhà hoặc chùa miếu, để
nguyên râu tóc không cạo, không ăn chay trường hay tụng kinh gõ mõ
(riêng đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa có tụng kinh gõ mõ), tuân thủ luân lý
đạo đức Nho giáo, tu luyện nội đơn theo Đạo giáo, hành trì ấn chú
theo kiểu Mật giáo. Sau một vài năm tu trì, các ông đạo đạt được sự
chứng ngộ nhất định, có năng lực phù chú huyền linh, có khả năng trị
bệnh cứu người, thuyết pháp độ chúng, tiên tri dự đoán thời cuộc.
Chính những điều này tạo nên sức thu hút mãnh liệt nơi các ông đạo,
khiến đông đảo tín chúng một lòng tin tưởng tu theo.
Sau đó, hầu hết các ông đạo đều bị chính quyền nghi ngờ, thử thách,
bắt giữ, gây trở ngại cho quá trình tu hành và độ chúng. Trường hợp
ông Tô Quang Xuân, Hà Minh Nhựt, Đoàn Minh Huyên đều diễn ra
tương tự. Đầu tiên, triều đình cho mật thám theo dõi, phát hiện các
ông trị bệnh bằng bùa phép và chú ngữ, rao giảng một giáo thuyết ủng
hộ cho sự canh triều hoán đại, mưu toan phản nghịch, không thuần túy
tu hành theo pháp Phật, nên bắt giam về tra khảo, thử thách; sau đó
nhận ra các ông tu hành chân chính nên thả về, hoặc cho tu học thêm
chính pháp của nhà Phật.
Đó là cách hành xử dưới các đời vua Nguyễn. Còn dưới ách thống
trị của Pháp thì xung đột giữa các ông Đạo và chính quyền thực dân
diễn ra gay gắt hơn, theo kiểu một mất một còn, không khoan
nhượng, như trường hợp: Ngô Lợi, Trần Văn Thành, Tà Ponl…
Dường như đã có một sự chuyển hóa về bản chất hành đạo của các
ông đạo từ chỗ chỉ rao giảng giáo thuyết tận thế, Hội Long Hoa,
Minh Vương xuất thế đến chỗ hưởng ứng phong trào Cần Vương,
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
69
đấu tranh vũ trang chống Pháp xâm lược. Cũng vì thế mà cũng có sự
thay đổi trong cách hành xử của chính quyền đối với phong trào các
ông đạo ở Nam Bộ.
Về cách xưng hô, các vị này đều được chúng đồ đệ tôn xưng lên
hàng Phật sống, như: Tô Quang Xuân được gọi là Đức Phật Tổ Sư,
Đoàn Minh Huyên được gọi là Phật Thầy Tây An (Đoàn Phật Sư),
Ngô Lợi được tôn xưng là Đức Bổn Sư, Tà Pol được gọi là Đức Phật
Trùm,... Điều này cho thấy sự tôn kính, tin tưởng tuyệt đối của tín đồ
về huyền năng và đạo hạnh của các ông đạo. Cũng chính vì vậy mà
cho đến nay, họ còn tin tưởng một cách trọn vẹn rằng, thầy tổ không
phải chết đi, mà chỉ tạm thời vắng bóng, chờ ngày “đời tới” thì thầy tổ
sẽ trở lại cứu vớt người tu hành.
5. Từ chuẩn hóa tín ngưỡng đến trưng dụng nghĩa sĩ kháng
Pháp
Trước tình hình phong trào các ông đạo đang hình thành và lan
rộng ở Nam Bộ, triều đình nhà Nguyễn đã hành xử như thế nào?
Truyện kể về hành trạng các ông đạo đã tiết lộ nhiều thông tin thú vị,
cho thấy dường như triều đình đã không chấp nhận đường lối tu hành
vốn có, mà thúc đẩy chuẩn hóa hoạt động tín ngưỡng của các ông đạo.
Như trường hợp Tô Quang Xuân bị bắt, giải về an trí, cho tu học tại
một ngôi chùa thuộc dòng Lâm Tế chính thống là chùa Kim Chưởng ở
Gia Định, quan lại địa phương còn dâng sớ về triều đình cho vua sắc
phong hòa thượng. Sau đó, ông trở thành hòa thượng dòng Lâm Tế
chính tông đời thứ 37, pháp danh Trí Tâm. Hay trường hợp Sư Cố Hà
Minh Nhựt bị quan Tổng trấn An Giang (Vĩnh Thanh) mời thuyết
pháp để thử thách, sau đó chỉ thị ngài đến Cái Bè học giáo lý bài bản
với Hòa thượng Tổ, còn xin triều đình sắc phong hòa thượng. Trên
tháp mộ của ông tại An Long Cổ Tự có ghi ông là tổ đời thứ 38 của
dòng thiền Lâm Tế chính tông. Tương tự như vậy, Đoàn Minh Huyên
cũng bị Tổng đốc An Giang bắt về Châu Đốc, sau khi thử thách đã
đưa ông đến tu học tại chùa Tây An với một đại sư dòng Lâm Tế là
Thiền sư Hải Tịnh. Bia mộ phía sau chùa có ghi pháp danh của ông là
Pháp Tạng, đạo hiệu Minh Huyên, đệ tử thứ 38 dòng Lâm Tế truyền
tại ngôi chùa này.
70
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
Rõ ràng, chính quyền đã cách ly các ông đạo ra khỏi ngôi chùa và
tín đồ vốn có của mình, nhằm làm suy yếu sức mạnh hiệu triệu của
các ông đạo. Đồng thời, đưa đến tu học với các bậc đại sư tại những
ngôi chùa Lâm Tế chính thống đương thời. Đây không chỉ là cách
quản thúc đường lối tu hành của các ông đạo, mà còn là cách uốn nắn
niềm tin tín ngưỡng hướng về chuẩn mực giáo pháp nhà Phật theo
quan niệm của chính quyền. Đáng chú ý hơn, dường như nhiều ông
đạo cũng được triều đình sắc phong hòa thượng, được đứng vào hàng
tăng thống theo sổ bộ quản lý của giáo hội đương thời. Kết quả của
quá trình chuẩn hóa đó dường như đã diễn ra theo hai hướng, có ông
đạo mang dòng Lâm Tế về ngôi chùa vốn có của mình như ông Hà
Minh Nhựt, có ông dù bị quản thúc trong chùa chính thống vẫn cố
gắng giữ vai trò lãnh đạo việc mở đất dựng chùa của tín đồ như Đoàn
Minh Huyên. Dù vậy, có vẻ các ông đạo vẫn giữ mối liên hệ nhất định
với các phong trào hội kín, như tổ chức Thiên Địa Hội, đang hoạt
động đương thời.
Từ khi thực dân Pháp xâm lược Việt Nam, nhất là khi quyền lực cai
trị dần rơi vào tay người Pháp, đã có sự thay đổi cách tiếp cận của
triều đình nhà Nguyễn đối với các ông đạo nói riêng, các tôn giáo dân
gian Nam Bộ nói chung. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong
khoảng thập niên 60 - 70 của thế kỷ 19. Theo Trần Hoàng Vũ, “bốn
năm sau khi Đoàn Minh Huyên viên tịch (1860), khâm phái của triều
Nguyễn là Hoàng Văn Tuyển đã tâu về triều đình việc trong các tỉnh
Long Tường, An Giang, nhân dân bị mê hoặc vì thuyết họa phước của
sơn tăng, từ các tháng 11 tháng 12 bỏ nhà cửa đưa gia quyến đến ở
sinh sống tại xứ tục danh là Láng Cháy thuộc phủ hạt Tịnh Biên, già
trẻ trai gái có đến số ngàn”18. Sau khi thực dân Pháp chiếm trọn Nam
Kỳ năm 1867, phong trào đấu tranh cứu nước của sĩ phu cả nước dâng
cao, trong đó có các chí sĩ yêu nước được chỉ huy bởi các ông đạo ở
Nam Bộ. Cũng theo Trần Hoàng Vũ, “tờ tâu đề ngày 26 tháng Giêng
năm Tự Đức 26 (1873) của các đại biểu kháng chiến 5 tỉnh Nam Kỳ
dâng lên vua Tự Đức trình bày về lực lượng chống Pháp ở Nam Kỳ,
đề nghị triều đình cử người về Nam Kỳ chiêu tập lực lượng. Tài liệu
còn kể ra danh sách các thủ lĩnh nghĩa quân ở Bảy Núi, trong đó người
thứ 33 là thiền sư (hiệu đạo Lành) Trần Văn Thành”19.
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
71
Nếu nhìn lại cuộc vận động Cần Vương diễn ra ở Nam Bộ thì
chúng ta hoàn toàn có thể khẳng định những suy luận phía trên là rất
có căn cứ. Phong trào này được các ông đạo thế hệ sau và các hội kín
hưởng ứng nhiệt liệt. Tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa đến nay vẫn truyền tai
nhau niềm tin về việc vua Hàm Nghi đã không bị Pháp lưu đày sang
Algérie, mà đến Thất Sơn chỉ đạo phong trào kháng Pháp, rồi sang núi
Tà Lơn ẩn trú và qua đời tại đây. Rồi sau này có thêm Phan Xích
Long (Phan Phát Sanh), tự xưng là Đông cung Thái tử con vua Hàm
Nghi, từ căn cứ Tà Lơn và Thất Sơn trực tiếp lãnh đạo phong trào hội
kín. Trong chùa của đạo Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa và cả
Phật giáo Hòa Hảo luôn có bàn thờ Trăm Quan Cựu Thần, tức những
vị quan cũ của triều đình có tinh thần yêu nước, và thậm chí tham gia
vào phong trào kháng Pháp của các tôn giáo dân gian, các hội kín.
Kết luận
Hiện tượng các ông đạo ở Nam Bộ, như Phan An nhận xét là một
“hiện tượng tôn giáo lý thú ở Nam Bộ” mà hầu như không thấy ở Bắc
và Trung Bộ đương thời. Vấn đề này đã được giới nghiên cứu Nam
Bộ học, như: Sơn Nam, Tạ Chí Đại Trường, Phạm Bích Hợp, Ngô
Văn Lệ, Phan Lạc Tuyên, Phan An, Đinh Văn Hạnh, Trần Hồng Liên,
Nguyễn Ngọc Thơ, v.v… quan tâm nghiên cứu. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều góc khuất cần tiếp tục soi rọi tìm hiểu.
Trong một loạt các ông đạo với hành tung bí ẩn, như: Đạo Khùng,
Đạo Đèn, Đạo Chợ, Đạo Gò Mối, Đạo Đọt, Đạo Nằm, Đạo Dừa,
v.v… ở Nam Bộ, chỉ một bộ phận các ông đạo bị mệnh danh là “gian
đạo sĩ”. Đây là cách chính quyền phong kiến lẫn thực dân gọi các ông
đạo chuyên rao giảng về thuyết tận thế và Hội Long Hoa, gián tiếp
hoặc trực tiếp tham gia các hội kín, kêu gọi canh triều hoán đại, hoặc
phản Pháp phục Nam.
Do nhu cầu hành đạo và hoạt động bí mật, nên việc giấu diếm thân
thế và hành trạng, thay tên đổi họ, hành tung thoắt ẩn thoắt hiện của
các ông đạo là chuyện hiển nhiên dễ hiểu. Chính điều đó khiến cho
những hình dung của người đời sau về các ông đạo thường không
chính xác, nhất là khi diện mạo thật của các ông được bao phủ bởi
huyền thoại. Nhà Nguyễn từ thời Thiệu Trị đến hết thế kỷ 19 dường
72
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 3 - 2019
như đã nhận ra mối quan hệ mật thiết giữa các ông đạo Nam Bộ với
phong trào đấu tranh vũ trang của các tôn giáo dân gian và hội kín ở
Hoa Nam. Ở phương diện chống thực dân xâm lược, các ông đạo là
những người yêu nước, có lý tưởng về một cuộc đời thái bình thịnh
thế, và trên thực tế đã dâng hiến cuộc đời mình cho lý tưởng đó. /.
CHÚ THÍCH:
1
Nội dung câu sấm “Tứ bửu linh tự”:
Chữ Bửu là hiệu Phật Vương
Chữ Sơn Phật Thầy tin tưởng phước dư
Chữ Kỳ là hiệu Bổn Sư
Chữ Hương Phật Trùm bốn chữ phải mang.
Hiện nay, các tín đồ đều biết rõ Phật Thầy chỉ ngài Đoàn Minh Huyên (Phật
Thầy Tây An) sáng lập Bửu Sơn Kỳ Hương, Bổn Sư là ngài Ngô Lợi sáng lập Tứ
Ân Hiếu Nghĩa, Phật Trùm là ngài Tà Ponl ở Lương Phi, Tri Tôn. Riêng đức
Phật Vương là ai hiện có nhiều ý kiến tranh luận chưa thống nhất. Tác giả Vĩnh
Thông nghi vấn là Năm Ông Phật Vương (Ngũ Công Vương Phật), có tín đồ cho
là Tô Quang Xuân, trong sách Ngọc lịch đồ thơ tập chú của đạo Tứ Ân Hiếu
Nghĩa ghi là Trần Liêm.
2
3
Nhiều thuyết cho rằng ông bị đưa về triều đình, bị an trí trong chùa Kim Chưởng
của kinh thành Huế. Chúng tôi chưa có căn cứ xác định rõ chùa Kim Chưởng tọa
lạc ở đâu. Tuy nhiên, thuyết này có vẻ không đáng tin cậy vì nếu ngài Tô Quang
Xuân viên tịch ở Huế, thì khó thể nào di quan từ kinh thành về an táng ở Cà Mau
theo lệnh vua được, bởi với điều kiện giao thông thời đó, việc mang kim thân
ngài từ Huế về đến Cà Mau mất rất nhiều thời gian.
Nghê Văn Lương (1972), Cà Mau xưa và Long Xuyên nay, Trung tâm học liệu
Bộ Giáo dục, Sài Gòn, tr. 154-158.
4
5
6
Tác giả dịch nghĩa dựa trên nguyên tác văn bản chữ Hán lưu giữ tại chùa.
Có lẽ người biên soạn nhầm lẫn, thời điểm này gọi là Trấn Vĩnh Thanh.
Chúng tôi lược thuật dựa trên tư liệu giới thiệu tại chùa, ngày thu thập 13/8/2018.
7
Lê Thu Vân (2018), “Văn hóa của người Việt vùng Cù lao Ông Chưởng nhìn từ
truyện kể dân gian”, in trong Võ Văn Thắng (chủ biên, 2018), Triết lý nhân sinh
của người dân Nam Bộ, Việt Nam (quyển 2), Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế
tại Đại học An Giang, Nxb. Đại học Cần Thơ, tr. 185-191.
8
9
Nguyễn Văn Hầu (1973), Sấm truyền đức Phật Thầy Tây An, Ban quản tự Tòng
Sơn Cổ Tự, Ban Chẩn tế Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, tr. 28-48.
Nguyễn Văn Hầu (1973), Sấm truyền đức Phật Thầy Tây An, Ban Quản tự Tòng
Sơn Cổ Tự, Ban Chẩn tế Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo, tr. 28-48.
10 Hà Tân Dân (1971), Hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tủ sách sưu khảo sử liệu Phật
giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Sài Gòn.
11 Dật Sĩ, Nguyễn Văn Hầu (1972), Thất Sơn mầu nhiệm, Nxb. Từ Tâm, Sài Gòn.
12 Nông Huyền Sơn (2013), Sự thật về những viên ngọc Phật Trùm. Nguồn An ninh
nhung-vien-ngoc-phat-trum-c46a530542.html, truy cập ngày 16/02/2019.
Nguyễn Thanh Phong. Hiện tượng “gian đạo sĩ
”
ở Nam Bộ
…
73
13 Trần Hoàng Vũ (2011), “Vì sao gọi Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Lành?”, Xưa và
Nay, số 385, tháng 8/2011.
14 Nguyễn Thanh Phong (2018), “Sự dung nạp tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật
trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương”. Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 (178), tr. 110-130.
15 Chữ
Dương trên bài vị bị khắc sai do đặc trưng phát âm của người Nam Bộ
đọc từ Vương thành Dương.
16 Cụ thể, một tượng thờ ở bàn thờ Ngũ Công Vương Phật, một tượng thờ ở bàn thờ
Ngọc Hoàng Thượng Đế, một tượng thờ ở bàn thờ Tổ Sư.
17 Nguyễn Thanh Phong (2018), “Sự dung nạp tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật
trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 (178), tr. 110-130.
18 Trần Hoàng Vũ (2011), “Vì sao gọi Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Lành?”, Xưa và
Nay, số 385, tháng 8/2011.
19 Trần Hoàng Vũ (2011), “Vì sao gọi Bửu Sơn Kỳ Hương là đạo Lành?”, bđd.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan An (2010), “Ông Đạo - một hiện tượng tôn giáo lý thú ở Nam Bộ”, Xưa và
Nay, số 349-350.
2. Hà Tân Dân (1971), Hệ phái Tứ Ân Hiếu Nghĩa, Tủ sách sưu khảo sử liệu Phật
giáo Bửu Sơn Kỳ Hương, Sài Gòn.
3. Dật Sĩ, Nguyễn Văn Hầu (1972), Thất Sơn mầu nhiệm, Nxb. Từ Tâm, Sài Gòn.
4. Nguyễn Văn Hầu (1956), Đức Cố Quản hay cuộc khởi nghĩa Bảy Thưa, Nxb.
Tân Sanh, Sài Gòn.
5. Nguyễn Văn Hầu (1973), Sấm truyền đức Phật Thầy Tây An, Ban Quản tự Tòng
Sơn Cổ Tự, Ban Chẩn tế Giáo hội Phật giáo Hòa Hảo.
6. Phạm Bích Hợp (2007), Người Nam Bộ và tôn giáo bản địa (Bửu Sơn Kỳ Hương
- Cao Đài - Hòa Hảo), Nxb. Tôn giáo, Hà Nội.
7. Đinh Văn Hạnh (1999), Đạo Tứ Ân Hiếu Nghĩa của người Việt Nam Bộ (1867-
1975), Nxb. Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh.
8. Nguyễn Văn Kiềm, Huỳnh Minh (1964), Tân Châu xưa, Nxb. Thanh niên, Sài Gòn.
9. Kinh sách của ngài Ngô Lợi và tín đồ Tứ Ân Hiếu Nghĩa: Ngọc lịch đồ thơ tập
chú, Ngũ Công như Ngũ Công thiên đồ kinh, Ngũ Công cứu kiếp kinh, Ngũ Công
bát nhã kinh, Ngũ Công Quan Âm kinh...
10. Nghê Văn Lương (1972), Cà Mau xưa và Long Xuyên nay, Trung tâm học liệu
Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
11. Huỳnh Minh (1971), Sa Đéc xưa và nay, Cảnh Bằng, Sài Gòn.
12. Nguyễn Thanh Phong (2018), “Sự dung nạp tín ngưỡng Ngũ Công Vương Phật
trong đạo Bửu Sơn Kỳ Hương”, Nghiên cứu Tôn giáo, số 10 (178), tr. 110-130.
13. Nông Huyền Sơn (2013), Sự thật về những viên ngọc Phật Trùm. Nguồn An ninh
nhung-vien-ngoc-phat-trum-c46a530542.html, 16/2/2019.
14. Võ Văn Thắng (chủ biên, 2018), Triết lý nhân sinh của người dân Nam Bộ, Việt
Nam, quyển 2, Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc tế tại Đại học An Giang, Nxb.
Đại học Cần Thơ, Cần Thơ.
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Hiện tượng “Gian đạo sĩ” ở Nam Bộ thế kỷ 19", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- hien_tuong_gian_dao_si_o_nam_bo_the_ky_19.pdf