Một số hoạt động kinh tế kháng chiến ở Nam Bộ (1945-1954)

MT SHOẠT ĐỘNG KINH TẾ KHÁNG CHIN  
NAM B(1945-1954)  
Lưu Văn Quyết(1)  
(1) Trường Đại hc Khoa học Xã hội và Nhân văn (VNU-HCM)  
Ngày nhận bài 15/01/2021; Ngày gửi phn bin 17/01/2021; Chp nhận đăng 20/02/2021  
Liên hệ Email: luuvanquyet@hcmussh.edu.vn  
Tóm tắt  
V.I. Lênin cho rằng, trong chiến tranh hiện đại, “tổ chức kinh tế có một ý nghĩa  
quyết định”. Thấm nhuần quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và sớm nhận thức đúng  
vai trò của kinh tế đối với quá trình phát triển của cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và  
Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm đề ra chủ trương toàn dân thực hiện kết hợp vừa đánh  
giặc, vừa tăng gia sản xuất. Trong suốt 10 năm kháng chiến chống Pháp tái xâm lược  
(1945-1954), ngoài hoạt động chủ đạo và ngày càng dồn dp ca mt trận chính trị và  
quân sự, ti chiến trường trọng điểm Nam Bộ còn diễn ra mt trn kinh tế không kém  
phần ác liệt và nóng bỏng. Dưới tác động mnh mca chiến tranh, việc xây dựng kinh  
tế kháng chiến miền Nam nói chung, Nam Bộ nói riêng phải đối din vi nhiều khó  
khăn, thử thách to lớn, không chỉ đổ mồ hôi, công sức mà còn cả máu để có thể hoàn  
thành nhiệm vụ “thực túc binh cường”, góp phần đưa kháng chiến đến thng li.  
Từ khóa: Kinh tế kháng chiến, Nam B, hoạt động, Pháp  
Abstract  
SOME RESISTANCE-WAR ECONOMIC ACTIVITIES IN THE SOUTHERN  
VIETNAM (1945-1954)  
V.I. Lenin said that in the modern war, “economic organization plays a decisive  
role”. Recognizing the Marxism-Leninism’s viewpoints and the role of economy in the  
development of the revolution, President Ho Chi Minh and the Communist Party of  
Vietnam soon set out the policy that people agree to suitable for both fighting the enemy  
and producing. During the 10 years of resistance war against the French re-invasion  
(1945-1954) in the key battlefield of the South, along with the increasingly active main  
activities of the political and military fronts, the economic front also took place fiercely  
and ferociously. Under the strong impact of the war, the construction of the resistance  
economy in the South of Vietnam faced many great difficulties and challenges that  
required sweat, blood and tears to complete the mission “the food is plentiful, the army  
is powerful”, contributed to the victory of the resistance.  
56  
Tạp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S1(50)-2021  
1. Gii thiu  
Kinh tế kháng chiến trong bài viết này được hiểu là các hoạt động tổ chức sản  
xuất và huy động tổng hợp ngun lc vt chất, tài chính để phc vcho cuộc kháng  
chiến chống xâm lược. Nguồn lực đó được huy động để đáp ứng những nhu cầu thiết  
yếu như: Lương thực-thực phẩm, trang thiết bị vũ khí, quần áo, thuốc, giấy, mực,…  
phục vụ trực tiếp cho cuộc chiến. Trong một chừng mực nhất định, kinh tế kháng chiến  
đồng thời cũng thực hiện nhiệm vụ kiến quốc và phục vụ đời sống dân sinh. Hồ Chủ  
tịch đã nói: “Kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc, kháng chiến có thắng lợi thì kiến  
quốc mới thành công. Kiến quốc có chắc thành công, kháng chiến mới mau thắng lợi”  
(Hồ Chí Minh, 2011).  
Nam B(bao gm miền Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ) nm ở phía Nam của  
Tquc Vit Nam vi diện tích khoảng 64.400km2. Phía Bắc tiếp lin với Tây  
Nguyên, phía Đông là biển Đông, phía Nam là vịnh Thái Lan, phía Tây giáp  
Campuchia. Nam Bộ là một chiến trường có ý nghĩa chiến lược sống còn” đối vi  
chế độ thực dân cũ và mới min Nam. Mặt khác, Nam Bộ còn là một “kho của, kho  
người”, nơi có tiềm lc ln về nhân tài, vật lc cho chiến tranh. Ngày 23/9/1945 khi  
nền dân chủ cộng hòa vừa được thành lập chưa đầy 1 tháng, Nam Bộ đã đứng lên kiên  
quyết kháng chiến chng thực dân Pháp tái xâm lược. Sau đó Nam Bộ chuyển thành  
chiến trường sau lưng địch, phi hp vi chiến trường chính Bắc Bộ. Trong quá trình  
y, chiến tranh du kích đã phát triển, các lực lượng cách mạng Nam Bộ đã từng  
bước trưởng thành và đẩy mạnh kháng chiến, uy tín và ảnh hưởng của cách mạng đã  
ăn sâu vào cuộc sống hàng triệu người, nhất là nông dân Đồng bằng sông Cửu Long.  
Chính sách ruộng đất và các chính sách kinh tế - xã hội khác của Chính phủ kháng  
chiến đã sớm được thc hiện, đem lại lợi ích thiết thc cho cuc sng ca quân, dân,  
chính, đảng Nam Bộ (Hà Minh Hồng, 2008), góp phần quan trong đưa cuộc kháng  
chiến chống Pháp đến thng li.  
2. Tổng quan tài liệu  
Vùng đất Nam Bộ qua các thời klch sử còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục tìm  
hiểu, nghiên cứu để làm rõ, trong đó, các khía cạnh vkinh tế, mà trực tiếp là kinh tế  
kháng chiến thi kchống Pháp tái xâm lược (1945-1954) dù đã và đang được nghiên  
cu, song vẫn còn có nhiều “khoảng trống”. Đã có một số công trình nghiên cứu vlch  
skinh tế Việt Nam nói chung, kinh tế miền Nam nói riêng trong hai cuộc kháng chiến  
chống Pháp và chống Mỹ được công bố như Đặng Phong (2002), Hà Minh Hồng  
(2008), Võ Văn Sen (2011), Võ Văn Sen, Lưu Văn Quyết (2021), Vin Kinh hc  
(1990), Vin lch sử Quân sự Vit Nam (1997), Tng cc hu cn (1985), Cục văn thư  
lưu trữ Nhà nước (2012), Ban Kinh - Tài Trung ương Cục min Nam (2007), Bộ tư lệnh  
Quân khu 9 (1998), Bộ tư lệnh Quân khu 7 (2018),… tuy nhiên phần nhiều các nhà  
nghiên cứu này tp trung tìm hiểu vkinh tế xã hội chủ nghĩa ở min Bc, hoc kinh tế  
57  
trong vùng tạm chiếm min Nam, kinh tế miền Nam dưới tác động ca vin trM,...  
Cho đến nay, các nguồn tư liệu mà chúng tôi tiếp cận được cho thấy, các nội dung liên  
quan đến kinh tế kháng chiến Nam Bộ trong kháng chiến chống Pháp được đề cp hoc  
những khía cạnh đơn lẻ, hoặc còn tổng quát, chưa đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện.  
Trên cơ sở tham khảo các nguồn tư liệu của các nhà nghiên cứu đi trước, thc hiện nghiên  
cứu này chúng tôi tiến hành khai thác phông lưu trữ ca y ban Kháng chiến hành chính  
Nam B, bao gồm các Nghị định, Chth, Quyết định, Báo cáo… về đường li, chủ  
trương, chính sách, quá trình xây dựng, hoạt động, tng kết vkinh tế Nam Btrong  
kháng chiến chống Pháp. Để thc hiện nghiên cứu này, chúng tôi dựa trên cơ sở lý luận  
ca chủ nghĩa Mác Lênin, các quan điểm chỉ đạo của Đảng và tư tưởng Hồ Chí Minh về  
xây dựng hậu phương, xây dựng nn quốc phòng toàn dân và chiến tranh nhân dân. Bên  
cạnh đó, các phương pháp nghiên cứu lch sử, phương pháp logic và phân kỳ lch sử được  
sdụng để làm rõ bối cảnh hình thành chủ trương cũng như những hoạt động ca nn  
kinh tế kháng chiến Nam bộ giai đoạn 1945-1954; đồng thời còn sử dụng phương pháp  
nghiên cứu liên ngành như: thống kê, so sánh, đối chiếu… để có thể nhn thc và đánh  
giá vấn đề nghiên cứu một cách khoa học và khách quan hơn.  
3. Hoạt động kinh tế kháng chiến Nam B(1945-1954)  
Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Vit Nam Dân chCộng hòa nói  
chung, Nam Bộ nói riêng có những thun li nht định nhưng cũng phải đương đầu vi  
những khó khăn rt ln, trong đó vấn đề “giặc đói”. Lúc này, có quá nửa diện tích đồng  
rung Bc Bbbhoang, cả năm 1945 chỉ thu được 500.000 tn (Vin Lch sử Quân  
sViệt Nam, 1997), ngân khố Quc gia chỉ còn 1.230.720 đồng Đông Dương, trong đó  
586.000 đồng là tiền rách không sử dụng được chthu hi (Vin kinh tế hc, 1990), snợ  
ngân khố lên tới 564.367.522 đồng (Vin kinh tế hc, 1960). Vi nhn thc kháng chiến  
mun thng lợi thì đất nước và nhân dân phải vng mnh vkinh tế, ngay trong cuc hp  
đầu tiên của Hội đồng Chính phủ (3/9/1945), Chtch Hồ Chí Minh đã nêu ra sáu nhiệm  
vcấp bách phải làm ngay, trong đó nhiệm vdiệt “giặc đói” được đặt lên hàng đầu, và  
kêu gọi toàn dân bắt tay ngay vào giải quyết những khó khăn vkinh tế để tạo điều kin  
xây dựng đất nước và tiến hành kháng chiến (Võ Văn Sen, Lưu Văn Quyết, 2021).  
Nam B, ch3 tuần sau ngày tuyên bố độc lp, ngày 23/9/1945 nhân dân lại  
phải đứng lên cầm súng chiến đấu chng li thực dân Pháp quay trở lại xâm lược. Trong  
vòng một tháng (từ ngày 23/9 đến ngày 23/10/1945) cuộc kháng chiến đã lan ra khắp  
min Đông, miền Tây Nam Bộ và kéo ra tới tn Nha Trang - Khánh Hoa (Nam Trung  
B) (Lưu Văn Quyết, 2019). Chưa đủ thi gian chun bị, nhân dân Nam Bộ va phi  
tiến hành kháng chiến, va phi tiến hành xây dựng, vận hành nền kinh tế kháng chiến  
để phục vụ lực lượng quân, dân, chính, đảng chiến đấu chống thực dân Pháp. Do xa  
Trung ương, lại bị đặt trong điều kiện bị chiếm đóng, kiểm soát ngay từ đầu, cùng với  
đó là cuc kháng chiến ngày một ác liệt,… vì thế những hoạt động về kinh tế ở Nam Bộ  
58  
Tạp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S1(50)-2021  
gặp rất nhiều khó khăn. Tuy nhiên, do sớm xác định kinh tế luôn là nhu cu cp thiết, có  
vai trò quan trọng, có ý nghĩa lớn lao góp phần quyết định thng li ca cuộc kháng  
chiến,… dưới sự lãnh đạo của các tổ chức Đảng, ngay từ những ngày đầu kháng chiến,  
mặt trận kinh tế ở Nam Bộ đã theo sát sự phát triển của chiến trường; chính quyền  
kháng chiến đã tổ chức bộ máy kinh tài các cấp, thực hành xây dựng, phát triển kinh tài  
nhằm đáp ứng một phần những yêu cầu của quân, dân, chính, đảng. Thực chất đây là  
các bộ phận của nền kinh tế thời chiến được thành lập và đi vào hoạt động nhằm “tự lực  
cánh sinh”, “vừa kháng chiến, vừa kiến quốc” (Võ Văn Sen, Lưu Văn Quyết, 2021).  
Từ cuối năm 1945, các tỉnh ở Nam Bộ, chính quyền kháng chiến các cấp đã phát  
động các phong trào lạc quyên, cứu đói, tuần lễ vàng, quyên góp gạo, tiền ủng hộ bộ đội,  
lập hủ gạo nuôi quân,... Để có kinh tế vận hành kháng chiến trường kỳ, ngày 1/11/1947,  
Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 102/SL cho phép phát hành ở Nam Bộ các tín phiếu  
1 đồng, 5 đồng, 10 đồng, 20 đồng, 50 đồng, 100 đồng, 500 đồng có giá trị như giấy bc  
Vit Nam. Tiếp đó, ngày 2/3/1947, Chtch Hồ Chí Minh ký tiếp Sc lnh s147-SL,  
cho phép phát hành tại Nam Bộ và lưu hành trong toàn quốc giy bc loi mới 1 đồng, 5  
đồng, 20 đồng, 50 đồng và 100 đồng, lúc này “giấy bạc Cụ Hồ” lưu hành ở Nam Bộ đã  
thay thế tiền Đông Dương ngân hàng của chính quyền thực dân (Ban Kinh – Tài Trung  
ương Cục min Nam, 2007). Đầu năm 1948, Nam Bộ được Trung ương chấp thun cho  
tự ấn loát và phát hành các tờ bạc 1 đồng, 5 đồng, 20 đồng, 50 và 100 đồng riêng (được  
gọi chung là “giấy bc Việt Nam” để phân biệt “giấy bc Trung ương” do miền Bắc phát  
hành). Cơ sở in tiền kháng chiến Nam Bộ đầu tiên đặt ở Đồng Tháp với tên gọi Ban n  
loát đặc bit (mật danh là Ban trồng ta s10). Vic Nam Bộ được tự in đồng tiền riêng là  
một bước ngot rt quan trng, không chỉ tránh được tình trạng chậm trễ, bấp bênh của  
đường chuyển tiền từ miền Bắc vào Nam, mà còn giúp thu phục “nhân tâm”, tăng thêm  
sức mạnh và uy tín chính quyền kháng chiến trong lòng dân (Quc Minh, 2017).  
Để đảm bảo công tác thu - chi tài chính đạt hiệu quả, phục vụ cho kháng chiến trường  
kỳ, ngày 8/12/1947 Chủ tịch Ủy ban Hành chính Nam Bộ ra Nghị định quy định về cách  
thức phân phối số thâu của Ủy ban Kháng chiến Hành chính các tỉnh. Theo đó, kể từ ngày  
1/1/1948, sự phân phối số thâu của Ủy ban Hành chính kháng chiến tỉnh phải thực hiện theo  
cách thức: Trong tổng số thâu của tỉnh lấy 40% để dành cung cấp cho các ngành thuộc quân  
sự, 20% để bỏ vào quỹ dự trữ, 40% còn lại tỉnh sẽ dùng để trang trải các chi phí thuộc  
ngành hành chính (Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ, 1947a). Để tiến hành thâu  
góp, kiểm soát và giữ tiền một cách hiệu quả, năm 1948 Ủy ban Kháng chiến hành chính  
Nam Bộ ra Nghị định thành lập quỹ “đồng bạc kháng chiến” ở Sài Gòn - Chợ Lớn. Theo  
quy định, số tiền thu được từ quỹ “đồng bạc kháng chiến” sẽ giao về Ủy ban Kháng chiến  
hành chính địa phương để chi dùng cho việc quân sự (Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam  
Bộ, 1948a); đồng thời, cho phát hành công phiếu, trái phiếu kháng chiến,… Với tinh thần  
yêu nước và lòng tin đối với chính quyền cách mạng, nhân dân Nam Bộ vừa chiến đấu, vừa  
kiến quốc, nhiệt tình đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến.  
59  
Xác định ruộng đất là một trong những vấn đề lớn của sản xuất nông nghiệp. Từ  
sau Cách mạng tháng tám đến hết năm 1952, Đảng và Chính phủ chưa chủ trương làm  
cách mạng ruộng đất, nhưng đã có nhiều biện pháp để giải quyết vấn đề ruộng đất một  
cách hợp tình hợp lý. Ngày 13/11/1945, Nhà nước đã ra thông tư về việc giảm 25% mức  
địa tô đối với tá điền, cấy thuê. Tháng 5/1950, Nhà nước ban hành quy chế lĩnh canh,  
nhằm đảm bảo quyền lợi ổn định cho những người lĩnh canh. Ngày 1/7/1949, Nhà nước  
ban hành quy chế 75/SL về việc tạm cấp ruộng đất của Việt gian và thực dân Pháp cho  
nông dân, bộ đội, du kích và những người tá điền đã từng lĩnh canh trên mảnh đất đó.  
Mức tạm cấp tối đa ở Bắc Bộ và Trung Bộ là 0,5 ha/người, ở Nam Bộ là 1 ha/người  
(Đặng Phong, 2002). Ở Nam Bộ, đầu năm 1951, Trung ương Cục chủ trương mở đợt vận  
động địa chủ hiến điền. Thực hiện chủ trương này, trong năm 1951 đã có 445.000 nông dân  
Nam Bộ được cp 253.682 ha ruộng đất của Pháp và Việt gian (Báo Nhân dân miền Nam,  
1952). Tính chung ở Nam Bộ, có khoảng 6.000 địa chủ đã bỏ ruộng đất ở vùng nông  
thôn về ở trong các thành phố. Toàn Nam Bộ đã chia khoảng 564.547 ha cho 527.153  
nhân khẩu, tính trung bình mỗi người được chia gần 2 ha (Đặng Phong, 2002). Nhbin  
pháp này mà ở mt stnh thuộc Tây Nam bộ, chtrong mt thi gian ngắn không chỉ gii  
quyết được nhu cầu lương thực mà còn đóng góp cho chính quyền cách mạng thông qua  
hình thức thuế và đảm phụ nông nghiệp. Cthể, năm 1951, Bạc Liêu nộp 600.000 giạ, năm  
1952 là 800.000 giạ; những năm 1953-1954, thuế nông nghiệp nhiều nơi tăng lên gấp đôi,  
gp ba: Cần Thơ nộp 1.800.000 gi(36.000 tấn), Sóc Trăng 1.750.000 giạ (35.000 tn), Bc  
Liêu là hơn 2.000.000 giạ (40.000 tn) (Văn Tiến Dũng, 1996).  
Nhằm thiết lập, sửa soạn và dân chủ hóa nền nông nghiệp kháng chiến, Ủy ban  
Kháng chiến hành chính Nam Bộ đã vạch ra chính sách đối với kinh tế Nông nghiệp  
(Cục Văn thư và Lưu trữ Nhà nước, 2012). Trong những năm 1947-1949, ở các vùng  
giải phóng, các hoạt động xây dựng bảo vệ căn cứ cách mạng, quân sự, an ninh, kinh  
tế,… đều được đẩy mạnh. Các tổ chức kinh tài các cấp đã đứng ra tổ chức cho quân,  
dân, chính, đảng tự lực sản xuất, khai hoang, mở ruộng, trồng lúa, khoai, bắp, đậu, bí,  
rau, củ, quả…; chăn nuôi heo, gà, tôm, cá; làm muối, nước mắm, khai thác củi, đốt than,  
dệt vải, mở xưởng giấy, nhà in; tiến hành thu mua lương thực, thực phẩm, thuốc men,  
tiền bạc trong nhân dân... Công tác tăng gia sản xuất, tự túc lương thực phát triển thành  
phong trào. Ủy ban Kháng chiến hành chính các cấp chỉ đạo cân đối mậu dịch trong  
vùng tự do, tự túc tối đa các nhu cầu ăn, ở, sinh hoạt và công tác. Hàng loạt các nông  
trường sản xuất, chăn nuôi, các xí nghiệp dệt, da, giấy, gốm, lò đường,… được thành  
lập và hoạt động có hiệu quả, cung ứng một phần nhu cầu của bộ đội, cán bộ, du kích và  
nhân dân trong căn cứ. Tính đến năm 1947, hoạt động kinh tế nông nghiệp kháng chiến  
ở các tỉnh thành Nam Bộ trung bình đạt 80 triệu giạ lúa, cụ thể: Tỉnh Bà Rịa sản xuất  
được 600.000 giạ, Biên Hòa 550.000 giạ, Thủ Dầu Một 700.000 giạ, Gia Định  
2.000.000 giạ, Chợ Lớn 5.000.000, Tân An 4.600.000, Mỹ Tho 10.000.000 giạ, Bến Tre  
5.000.000, Cần Thơ 7.000.000 giạ, Sóc Trăng 4.000.000 giạ, Bạc Liêu 13.000.000 giạ,  
Rạch Giá 11.000.000 giạ, Long Xuyên 300.000 giạ,… (Ủy ban Kháng chiến hành chính  
60  
Tạp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S1(50)-2021  
Nam Bộ, 1947b). Đến cuối năm 1949 số lúa thu hoạch được tại các căn cứ tăng gấp 20  
lần so với vụ mùa cuối năm 1947 (Bộ Tư lệnh Quân khu 7, 2018). Tuy nhiên, do sản  
xuất còn nhỏ lẻ cũng như sự đánh phá ác liệt của quân Pháp, các hoạt động kinh tế  
kháng chiến ở Nam Bộ cũng gặp nhiều khó khăn, tổn thất.  
Tháng 3/1951, Hội nghị Trung ương lần thứ nhất (khóa II) quyết định thành lập  
Trung ương Cục miền Nam. Để phù hợp với hoạt động chiến trường lúc bấy giờ, Trung  
ương Cục tiến hành hợp nhất về tổ chức cơ quan Trung ương Cục miền Nam và cơ quan  
Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ (nhưng tách rõ chức năng cơ quan Đảng và  
chính quyền). Tài chính Nam bộ có hai bộ phận với những nhiệm vụ: Cơ quan tài chính  
của Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam bộ lo thu chi bên phía chính quyền, quân đội;  
Ban Tài chính của Trung ương Cục miền Nam lo các nhu cầu chi tiêu của cấp ủy. Ban Tài  
chính Trung ương Cục lúc này có hai nhiệm vụ chính: (1) Bảo đảm sản xuất trong vùng  
giải phóng; (2) Đấu tranh kinh tế với địch ở vùng tạm chiếm thông quan xuất nhập khẩu  
(Ban Kinh - Tài Trung ương Cục min Nam, 2007). Dưới sự chỉ đạo của Trung ương  
Cục, Ban Kinh tài kháng chiến dần định hình và phát triển rộng khắp ở các tỉnh, huyện  
trong vùng giải phóng trên địa bàn Khu 7, Khu 8, Khu 9 và cả ở một số địa bàn giáp ranh.  
Bên cạnh các cửa hàng buôn bán của cư dân, tư thương là hệ thống cửa hàng thương  
nghiệp quốc doanh mọc lên ở khắp nơi. Đặc biệt, với sự ra đời ngân khố, tín dụng sản  
xuất và Ngân hàng nhân dân, đánh dấu sự lớn mạnh của hệ thống kinh tài ở Nam Bộ với  
các ngành: công nghiệp, nông nghiệp, mậu dịch, tài chính, thuế, ngân hàng.  
Thc hin công tác đấu tranh kinh tế vi địch, theo Nghị định ca y ban Hành chính  
kháng chiến Nam B, từ ngày 2/7/1947, trong toàn Nam Bộ cấm không được xài, giữ giy  
bc của Pháp do Ngân hàng Đông Dương phát hành (y ban Kháng chiến hành chính Nam  
b, 1947c). Ban Đấu tranh kinh tế gồm các ngành ngân hàng, thuế và mậu dịch được thành  
lập do ông Ung Văn Khiêm làm trưởng ban để thng nht chỉ đạo đấu tranh từ Ủy ban Nam  
Bộ đến tận các tỉnh và các cửa khẩu. Lúc này, bên cạnh Ngân hàng Nhân dân Nam bộ còn  
có Ngân hàng Xuất nhp khẩu liên tỉnh Bc Cn Sóc (Bạc Liêu, Cần Thơ, Sóc Trăng)  
để chỉ đạo công tác đấu tranh tin t. Nhvn dng chủ trương ba mặt cân đối có kết quả  
(gim bớt phát hành giấy bạc chi cho ngân sách, củng cố lưu thông tiền tệ và sức mua ca  
đồng tiền, bình ổn vật giá), Ngân hàng Nhân dân Nam bộ không chỉ đảm bo cung cấp tài  
chính cho phân liên Khu miền Đông và các tỉnh khác ở Nam bộ trong giai đoạn cui cuc  
kháng chiến mà còn tích luỹ được hàng trăm đồng bạc Đông Dương để đổi thu tin khi  
Hiệp định Genève được thc thi (Ban Kinh Tài Trung ương Cục min Nam, 2007).  
Để chống chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh của địch, quản lý chặt vic xut  
nhp khẩu để bo vệ và phát triển sn xuất khu căn cứ tdo, chống địch phá hoại, cướp bóc  
tài sản nhân dân, bảo vsn phẩm khu căn cứ,trong nhng năm 1952-1953 Ban Kinh tài  
Nam Btiếp tc chủ trương đẩy mạnh đấu tranh kinh tế với địch. Theo đó, đối với vùng  
tm chiếm, chủ trương của ta là giáo dục nhân dân đấu tranh chng bắt xâu, bắt lính, đóng  
thuế nhẹ, tăng lương, bớt giờ làm việc, bớt dùng các mặt hàng xa xỉ phm của địch; gii  
61  
thích cho nhân dân thấy rõ âm mưu lừa gt, bóc lột và bần cùng hóa nông dân của Pháp,  
chống chính sách lấy chiến tranh nuôi chiến tranh. Đối với các vùng giao dịch giữa ta và  
địch, tăng cường kiểm soát xuất nhp khẩu và giáo dục nhân dân ý thức đấu tranh kinh  
tế với địch. Hướng dẫn nhân dân tranh thgiao dịch buôn bán với địch có lợi cho ta và  
phá vùng đai trắng miền Đông Nam bộ. Đồng thi, tiến hành bảo vệ tài sản, phát triển  
du kích chiến tranh, phá tan tiểu quy mô các cơ sở và cất dấu tài sản (y Ban Kháng  
chiến hành chính Nam Bộ, 1954).  
Nhm phá chủ trương bao vây kinh tế của địch, nhiu tnh Nam Bộ đã xây dựng  
nhiu tuyến đường hành lang tiếp tế từ các vùng địch tm chiếm vi vùng tự do, và gia  
các vùng, các khu với nhau. Lúc này, các đường dây vận chuyển được tchức dưới  
nhiều hình thức công khai và bí mật. Khu Sài Gòn – ChLn tchức được hàng chục  
cơ sở vận động, thu mua, tiếp nhận và là đầu cu chuyển hàng hóa về các chiến trường  
trên toàn Nam bộ. Năm 1949, Ban Vn tải liên tỉnh miền Đông Nam bộ xây dựng mt  
hành lang vận ti chiến lược tmiền Tây về Khu 7 với quãng đường 300km, xuyên qua  
các vùng địch kiểm soát. Đây là hành lang đảm bo cung cp go, thc phẩm, tài liệu từ  
miền Tây lên miền Đông. Để vn chuyn hàng từ các đầu ngun về căn cứ ca Khu,  
Khu 7 thành lập trung đội vn ti 20 (về sau phát triển thành đại đội) để thc hin nhim  
vụ này. Bên cạnh đó, ta cũng chủ trương không bán hàng hóa về vùng địch tm chiếm  
và không tiêu thụ các mặt hàng xa xỉ phm từ đô thị v(Ủy Ban kháng chiến hành  
chính Nam Bộ, 1948b). Khắp các tỉnh miền Đông Nam bộ phong trào phá hoại kinh tế  
của địch din ra mnh m, ni bật là phong trào phá hoại cao su của Pháp. Ở Sài Gòn -  
ChLớn, các hoạt động phá hoại cơ sở kinh tế ca địch liên tục tiếp din với các phong  
trào đấu tranh bãi công, biểu tình,... Từ tháng 2 đến tháng 9/1949 ở Khu 7, công nhân đã  
đốt 85.995kg mủ khô, 106.012 lít mủ nước,(Bộ Tư lệnh Quân khu 7, 2018).  
Đẩy mạnh hơn nữa vic sn xut tự túc trong các cơ quan và bộ đội, năm 1951,  
Trung ương Cục ra chth, chỉ rõ “nhim vcấp bách lúc này là phải phát động mt  
phong trào tự cp, tự túc mạnh mẽ trong cơ quan và bộ đội. Tnay mi cơ quan, mỗi  
đơn vị phi tiến tới làm đủ ăn, đủ mc, mỗi người trong cơ quan đơn vphi thiết tha  
vi vic sn xut tự túc như người trong gia đình. Bất cứ cơ quan lớn hay nh, bộ đội  
chlực hay địa phương, từ cán bộ đến nhân viên, đội viên mỗi tháng phải sn xut 10  
ngày, làm việc 20 ngày. Nghĩa là mỗi người trong một năm phải để ra 120 ngày tham  
gia sn xuất, và một người sn xut phải nuôi 3 người” (Trung ương Cục, 1951). Để  
công tác đạt kết qu, Chthị còn quy đnh mi cp phi thành lập mt Ban sn xut để  
chịu trách nhiệm trước Trung ương về phong trào sản xut tự túc, thành phn bao gm:  
Miền Đông có Đại din Bộ tư lệnh Nam Bộ, đại diện Phân Sở Kinh tế Canh nông  
Liên khu miền Đông, đại diện Ban Căn cứ địa Nam Bộ, đại diện phòng Quân nhu tài  
chính Nam Bộ; Cp tnh có: Bí thư tỉnh ủy, đại din tỉnh đội bộ, Trưởng Ty Kinh tế và  
Canh nông, ban Quân Nhu tỉnh đội bộ, đại diện ban Căn cứ địa. Các cơ quan cùng hoạt  
động làm thành một khi, mi khối có một tiu ban sn xut tự túc ở các cơ quan và đơn  
62  
Tạp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S1(50)-2021  
vnm trong tiu ban (Trung ương Cục 1951). Quán triệt chthcủa Trung ương Cục,  
Btư lệnh Nam bộ đề ra nhim vcthể cho Khu 7 là: Giữ vững và nâng cao mức kinh  
tế của nhân dân và quân đội, phát triển mnh mẽ và sâu rộng du kích chiến trong toàn  
Khu,… giành giật bo vệ các vùng nhân lực và vật lc. Trong những năm 1951-1954,  
các hoạt động kinh tế kháng chiến ở các cơ quan, đơn vị, căn cứ, vùng tự do,… ở Nam  
Btiếp tc din ra hết sức sôi nổi, phong trào tăng gia sản xut, sn xut tiết kim, giữ  
gìn đất đai, lúa gạo, gia súc,... được đẩy mnh. Trên các đường giao thông, các cơ sở  
cao su, các khu vực kinh tế tại các đô thị,bộ đội và nhân dân địa phương triển khai  
việc phá hoại, ly của địch đbồi dưỡng ta (Bộ Tư lệnh Quân khu 7, 2018).  
Tại các vùng tự do, các hoạt động gia tăng sản xuất, chính sách giảm tô, giảm tc,  
tm cp ruộng đất tiếp tục được thc thi, nn kinh tế dân chủ và độc lập bước đầu được  
xây dựng, nông dân làm chủ nhiu ruộng đất. tỉnh Bà Rịa ChLớn tình hình sản xut  
vụ mùa trong năm 1951-1952 cthể như sau: Năm 1951 tổng số dân trong tỉnh là 13.082  
người đã làm được 1.718 mẫu 97 sào rẫy, 1.202 mẫu 97 sào ruộng (trung bình mỗi người  
dân làm được 22 sào); năm 1952 tổng số dân trong tỉnh là 9.691 người đã làm được 1.422  
mẫu 25 sào rẫy, 894 mẫu 21 sào ruộng (trung bình mỗi người dân làm được 24 sào).  
Trong khi đó vic sn xut của các cơ quan, bộ đội trong tỉnh cũng phát triển mnh: Năm  
1951 làm được 38 mu rẫy, năm 1952 làm được 255 mẫu 15 sào rẫy và 175 mẫu rung.  
Ngoài ra đối với vùng du kích và vùng địch hu, xác định dây là vùng quan trọng, chiếm  
hơn 95% tổng ruộng đất cày cấy trong toàn tỉnh, vì thể tỉnh đã chủ trương phát triển nn  
sn xuất lên cao để tăng mức sinh sống cho nhân dân, đồng thi vic to ngun dtrcho  
vùng căn cứ cũng đã có bước phát triển mnh (Ban Kinh tài tỉnh Bà Rịa - ChLn 1952).  
Tỉnh Long Châu Sa, diện tích cấy sạ trong vùng du kích phát triển đến 60%, các vùng căn  
cứ tăng lên 15%, sản lượng thu hoạch được trong các căn cứ đạt khong 16.000 gi(Ban  
Kinh tài tỉnh Long Châu Sa 1954). Tính chung toàn Nam B, mc sn xuất và tiêu thụ lúa  
go của nông dân Nam Bộ tăng từ 650.000 tn (thi k1937-1938) lên đến 1.329.000 tn  
(thi k1950-1952) (Võ Văn Sen, 2011). Vi scgng cao của quân, dân Nam Bộ, các  
hoạt động kinh tế kháng chiến đã đạt được nhng kết quto lớn, đáp ứng được mt phn  
nhu cu thiết yếu của quân, dân, chính, đảng, góp phần quan trọng đưa cuộc kháng chiến  
chống Pháp đến thng lợi hoàn toàn.  
4. Kết lun  
Bi cnh lch sử và thực tin cuộc kháng chiến chống Pháp đã đặt ra nhim vcho  
quân, dân Nam Bộ va phải xây dựng, phát triển lực lượng kháng chiến; va phải xây  
dng, cng chthng chiến khu, căn cứ địa cánh mạng, mrộng vùng giải phóng; va  
phải xây dựng, kiện toàn hệ thống kinh tài phục vụ kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của  
Đảng, mặt trận kinh tế kháng chiến ở Nam Bộ đã nắm vững quan điểm tự lực cánh sinh,  
kháng chiến lâu dài, dựa vào nhân dân. Dù vẫn còn khó khăn, nhưng nền kinh tế kháng  
chiến ở Nam bộ đã dần đáp ứng được một phần nhu cầu của các tổ chức quân, dân,  
63  
chính, đảng. Mặc dù bị chiến tranh tàn phá ở một số vùng, nhưng nạn đói không xảy ra;  
ở một số vùng giải phóng ở Tây Nam bộ còn dư thóc, gạo, nông sản để bán ra vùng địch  
tạm chiếm. Thc tin chiến trường Nam Bộ và thực tin hoạt động ca kinh tế kháng  
chiến trong những năm kháng chiến chng Pháp (1945-1954) đã để li nhng trang sử  
vàng và những bài học quý báu trong đấu tranh bo vệ, xây dựng và kiến thiết đất nước  
trong quá khứ cũng như trong giai đoạn hin nay.  
TÀI LIU THAM KHO  
[1] Ban Kinh - Tài Trung ương Cục min Nam (2007). Lch sBan Kinh tế - Tài chính Trung  
ương Cục miền Nam trong kháng chiến chng M, cứu nước (1954-1975). NXB Chính trị  
Quc gia.  
[2] Ban Kinh tài tỉnh Long Châu Sa (1954). Báo cáo của Ban Kinh tài tỉnh Long Châu Sa  
vkinh tế tài chính. S193/KT, tháng 2/1954.  
[3] Ban Kinh tài tỉnh Bà Rịa-ChLn (1952). Bn tng kết tình hình kinh tế-tài chính của  
tỉnh Bà Rịa-ChLn. Ngày 30/3/1952.  
[4] Bộ Tư lệnh Quân khu 7 (2018). Miền Đông Nam bộ tkhi thủy đến đầu thế kXXI. NXB  
Chính trị Quc gia - Stht.  
[5] Báo Nhân dân miền Nam. Số 87, ngày 19/12/1952.  
[6] Cục văn thư Lưu trữ Nhà nước (2012). Nam Bộ kháng chiến 1945-1954, tp II Kinh tế.  
NXB Văn hóa – Thông tin.  
[7] Đặng Phong (2002). Lch skinh tế Vit Nam 1945-2000, tp 1, Giai đoạn 1945-1954.  
NXB Khoa học Xã hội.  
[8] Hà Minh Hồng (2008). Những góc nhìn từ lch schiến tranh cách mạng Vit Nam, trong  
sách Nam b1945-1975. NXB Đại hc Quc gia Tp.HCM.  
[9] Hồ Chí Minh (2011). Toàn tập, tp 4. NXB Chính trị Quc gia.  
[10]Lưu Văn Quyết (2019). Công tác dạy và học trong hthống trường trung hc nội trú kháng  
chiến Nam Bthi k1945-1954. Tạp chí Phát triển khoa học và công nghệ - Khoa hc  
Xã hội và Nhân văn, 1(3). Đại hc Quc gia Thành phố Hồ Chí Minh.  
[11]Quc Minh (2017). Đồng tin Nam B. Báo tuổi tr. /https://tuoitre.vn/dong-tien-nam-bo-  
1378018.htm, ngày 31/8/2017.  
[12]Trung ương Cục (1951). Chthcủa Trung ương Cục vviệc động viên cơ quan và  
bộ đội sn xut tự túc. S23/CT-CU, ngày 18/9/1951.  
[13]Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ (1947a). Nghị định của Ban thường vụ Ủy ban  
Kháng chiến hành chính Nam Bộ về cách thức phân phối số thâu của Ủy ban Kháng chiến  
hành chính các tỉnh. Số 86/CT, ngày 8/12/1947.  
[14]Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ (1947b). Phúc trình tổng kết của Ủy ban Kháng  
chiến hành chính Nam Bộ về tình hình kinh tế Nam Bộ. Số 21/PT, ngày 27/12/1947.  
[15]y ban Kháng chiến hành chính Nam bộ (1947c). Nghị định của Ban thường vụ Ủy ban Kháng  
chiến hành chính Nam Bộ vvic cấm lưu hành giấy bc của Pháp phát hành. Số 32/CT, ngày  
2/7/1947.  
[16]Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ (1948a). Nghị định của Ban thường vụ Ủy ban  
64  
Tạp chí khoa học Đại hc ThDu Mt  
S1(50)-2021  
Kháng chiến hành chính Nam Bộ về việc thành lập quỹ “đồng bạc kháng chiến”. Số  
81/NĐ-NB, ngày 14/3/1948.  
[17]Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ (1948b). Nghị định ca Ủy ban Kháng chiến  
hành chính Nam Bộ vvic cm chở bán một ssn phẩm vào Sài Gòn - ChLớn và các  
vùng bị gic chiếm. Số 177/NĐ-NB, ngày 30/6/1948.  
[18]Ủy ban Kháng chiến hành chính Nam Bộ (1954). Mật điện của Ban Kinh tài Nam bộ gi  
BKinh tế Trung ương báo cáo công tác đấu tranh kinh tế với địch. S22/KT-Đ, ngày  
3/9/1954.  
[19]Võ Văn Sen (2011). Vấn đề ruộng đất ở đồng bằng sông Cửu Long ca Vit Nam (1954-  
1975). NXB Đại hc Quc gia Tp.HCM.  
[20]Võ Văn Sen, Lưu Văn Quyết (2021). Nhng biện pháp vượt qua khó khăn về kinh tế ca  
nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong thời gian đầu mới thành lập (8/1945-12/1946).  
Tạp chí Khoa học Xã hội, Viện KHXH vùng Nam Bộ, 1(269).  
[21]Văn Tiến Dũng (1996). Vcuộc kháng chiến chng Mcứu nước. NXB Chính trị Quc gia.  
[22]Vin kinh tế hc (1990). 45 năm kinh tế Vit Nam (1945-1990). NXB Khoa học Xã hội.  
[23]Vin kinh tế hc (1960). Kinh tế Vit Nam 1945-1960. NXB Stht.  
[24]Vin Lch sử Quân sử Vit Nam (1997). Hậu phương chiến tranh nhân dân Việt Nam  
(1945-1975). NXB Quân đội Nhân dân.  
65  
pdf 10 trang yennguyen 21/04/2022 920
Bạn đang xem tài liệu "Một số hoạt động kinh tế kháng chiến ở Nam Bộ (1945-1954)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfmot_so_hoat_dong_kinh_te_khang_chien_o_nam_bo_1945_1954.pdf