Đề tài Thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập vuốt bằng chương trình Dynaform

CHƯƠNG I  
TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ DẬP TẤM  
1.1 Khái niệm về dập tấm  
Quá trình công nghệ là toàn bộ các tác động trực tiếp làm thay đổi hình dạng, kích  
thước, tính chất trạng thái của phôi ban đầu để đạt được mục đích nào đó. Quá trình  
công nghệ bao gồm những nguyên công và được sắp xếp theo một trình tự nhất định.  
Dập tấm một phần của quá trình công nghệ bao gồm nhiều nguyên công công  
nghệ khác nhau nhằm làm biến dạng kim loại tấm để nhận được các chi tiết có hình dạng  
và kích thước cần thiết với sự thay đổi không đáng kể chiều dày của vật liệu và không có  
phế liệu dạng phôi.  
Dập tấm thường được thực hiện với phôi ở trạng thái nguội (nên còn được gọi là  
dập nguội) khi chiều dày của phôi nhỏ (thường S<4 mm) hoặc thể phải dập với phôi ở  
trạng thái nóng khi chiều dày vật liệu lớn.  
Nguyên công là một phần của quá trình công nghệ được thực hiện bời một hay một  
số công nhân ở một vị trí nhất định trên máy bao gồm toàn bộ những tác động liên quan để  
gia công phôi đã cho.  
dụ : cắt hình ,đột lỗ, dập vuốt, uốn …  
Khi dập, nguyên công có thể chia thành các bước bước thể bao gồm một số  
động tác.  
Động tác là những tác động mục đích và quy luật của công nhân (chẳng hạn đưa  
phôi đến vị trí khuôn, đặt phôi vào khuôn cho khuôn làm việc...)  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
1
Hình 1.1 Khuôn và sản phẩm sau khi dập  
Ưu điểm của sản xuất dập tấm :  
- Có thể thực hiện những công việc phức tạp bằng những động tác đơn giản  
của thiết bị và khuôn.  
- Có thể chế tạo những chi tiết rất phức tạp mà các phương pháp gia công kim  
loại khác không thể hoặc rất khó khăn.  
- Độ chính xác của các chi tiết dập tấm tương đối cao, đảm bảo lắp lẫn tốt,  
không cần qua gia công cơ.  
- Kết cấu của chi tiết dập tấm cứng vững, bền nhẹ, mức độ hao phí kim loại  
không lớn.  
- Tiết kiệm được nguyên vật liệu, thuận lợi cho quá trình khí hóa và tự  
động hóa do đó năng suất lao động cao, hạ giá thành sản phẩm.  
- Quá trình thao tác đơn giản, không cần thợ bậc cao do đó giảm chi phí đào  
tạo quỹ lương.  
- Dạng sản xuất thường loạt lớn và hàng khối do đó hạ giá thành sản phẩm.  
- Tận dụng được phế liệu, hệ số sử dụng vật liệu cao.  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
2
- Dập tấm không chỉ gia công những vật liệu là kim loại mà còn gia công  
những vật liệu phi kim loại như : techtolit, hétinac, và các loại chất dẻo.  
1.2 Khái niệm phương pháp dập vuốt  
Dập vuốt một nguyên công nhằm biến đổi phôi phẳng hoặc phôi rỗng để tạo ra  
các chi tiết rỗng có hình dạng và kích thước cần thiết.  
Các chi tiết được dập vuốt thường có hình dạng rất khác nhau và được chia thành  
các nhóm như sau :  
Nhóm chi tiết có hình dạng tròn xoay (đối xứng trục), dụ như đáy của nồi hơi,  
các chi tiết hình trụ, các loại bát đĩa kim loại, chi tiết của đèn pha, vỏ đèn, chụp đèn …  
Nhóm các chi tiết dạng hình hộp như các thùng nhiên liệu của động cơ, vỏ hộp,  
vỏ bọc các thiết bị điện tử …  
Nhóm các chi tiết dạng phức tạp như các chi tiết vỏ oto, chi tiết của máy kéo,máy  
bay ...  
Hình 1.2 các chi tiết dạng tròn xoay  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
3
Hình 1.3 Các chi tiết hình hộp  
Hình 1.4 Khuôn dập chi tiết vỏ xe ô tô du lịch  
Tùy theo chiều cao của chi tiết, người ta có thể dập một hay nhiều nguyên công để tạo  
ra chi tiết. ở nguyên công đầu, phôi phẳng đường kính D được dập vuốt để tạo ra thành  
phôi rỗng đường kính d1 và chiều cao h1. các nguyên công sau, phôi rỗng được tiếp  
tục dập vuốt để nhằm mục đích tăng chiều cao và giảm đường kính (hoăc giảm tiết diện  
ngang) của phôi.  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
4
Hình 1.5 Các công đoạn tạo ra chi tiết  
Các chi tiết thường được dập vuốt với phôi ở trạng thái nguội mà không cần phải  
nung phôi. Trừ khi dập vuốt các chi tiết từ các tấm kim loại dày (S > 20 mm) thì người ta  
thể nung phôi để giảm trở lực biến dạng. khi dập vuốt các chi tiết từ phôi tấm bằng hợp  
kim nhôm, để nâng cao mức độ biến dạng sau mỗi nguyên công, người ta có thể nung  
nóng cục bộ vùng biến dạng dẻo. Để chế tạo các chi tiết dập vuốt, người ta sử dụng các  
kim loại tấm có tính dẻo cao như thép cacbon thấp chất lượng và thép kết cấu hợp kim  
thấp, nhôm , hợp kim nhôm , và các kim loại khác …  
Dập vuốt được tiến hành trong các khuôn chuyên dùng bao gồm các bộ phận làm  
việc như : cối có mép làm việc được lượn tròn, chày dập vuốt tấm chặn vật liệu. Khi  
dập các chi tiết chiều dày tương đối S/D lớn thì khuôn dập vuốt không thể không dùng  
tấm chặn. Giữa chày và cối một khe hở Z, trị số khe hở Z tùy thuộc vào phương pháp  
dập (có biến mỏng thành hoặc không biến mỏng thành); chiều dày vật liệu phôi S và thứ tự  
nguyên công. Khi dập vuốt ngoại lực được truyền qua chày, tác dụng vào phần đáy của chi  
tiết dập vuốt còn phần vành của phôi được tự do và không chịu tác dụng của ngoại lực.  
Trong quá trình dập vuốt không biến mỏng , phần mép vành của phôi có thể không  
kéo hết vào trong cối đồng thời sẽ xuất hiện các ứng suất kéoứng suất nén   
.
Thành phần ứng suất nén sẽ tác động theo hướng tiếp tuyến (hướng vòng) vì vậy với  
một tỷ số giữa đường kính chi tiết dập vuốt đường kính phôi nhất định thể gây ra  
hiện tượng nhăn ở vành. Điều đó sẽ dẫn đến việc kéo các sóng nhăn này vào trong khe hở  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
5
giữa chày và cối với ứng suất kéorất lớn gây phế phẩm hàng loạt do đứt đáy hay bị  
rách. Để ngăn ngừa nếp nhăn, trong các khuôn dập vuốt người ta thường sử dụng tấm chặn  
vật liệu, tấm chặn này có tác dụng ép phần vành của phôi vào bề mặt cối, chống lại sự tạo  
thành nếp nhăn của vành phôi. Do vậy trong quá trình dập vuốt không có biến mỏng người  
ta còn chia làm 2 dạng dập : dập vuốt không biến mỏng thành có chặn phôi và không chặn  
phôi.  
Khi dập vuốt từ phôi phẳng sau một nguyên công ta có thể nhận được chi tiết hình  
trụ với chiều sâu không lớn, thường chiều cao tương đối h/d < 0,7 – 0,8. khi dập vuốt các  
chi tiết với chiều sâu lớn hơn, ứng suất kéo ở phần thành chi tiết (tại tiết diện ngang nguy  
hiểm) thường tăng lên rất lớn và có thể gây đứt đáy . vì vậy khi dập vuốt các chi tiết có  
chiều cao tương đối h/d lớn, người ta phải tiến hành dập qua nhiều nguyên công. Khi đó,  
ứng suất kéo hướng kính, phát sinh ở phần thành chi tiết sẽ giảm đi tạo điều kiện thuận lợi  
cho quá trình dập vuốt.  
Trong quá trình dập vuốt phôi ở trạng thái nguội, kim loại thường bị hóa bền, làm  
giảm tính dẻo của kim loại. sự hóa bền quá mức của kim loại thể dẫn đến mất tín dẻo và  
cuối cùng gây phá hủy. vậy quá trình chế tạo các chi tiết chiều cao tương đối lớn  
(h/d >1) giữa các nguyên công dập vuốt người ta thường tiến hành ủ kết tinh lại các bán  
thành phẩm nhằm khử bỏ shóa bền phục hồi tính dẻo của kim loại.  
Các nguyên công tiếp theo khi dập vuốt được thực hiện trên các khuôn có chặn phôi  
(hình1.7) hoặc không có chặn tùy thuộc vào chiều dày tương đối cuả phôi và mức độ biến  
dạng.  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
6
Hình 1.6 sơ đồ vị trí  
Hình 1.7 dập vuốt thuận ngược  
Các nguyên công tiếp theo khi dập vuốt cũng thể thực hiện theo phương pháp  
dập vuốt thuận hoặc ngược. khi chày truyền áp lực vào phôi rỗng ở mặt trong của đáy phôi  
thì được gọi phương pháp dập vuốt thuận, còn khi chày truyền áp lực vào mặt ngoài của  
đáy phôi thì gọi dập vuốt ngược (hình 1.7c) vì khi đó phôi được kéo vào trong cối theo  
hướng ngược lại so với hướng dập vuốt lần thứ nhất .  
Dập vuốt ngược thường được sử dụng để dập vuốt các chi tiết dạng phức tạp như  
các chi tiết hai đáy hoặc có 2 lớp vỏ. ngoài ra dập vuốt ngược còn được sử dụng để đồng  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
7
thời thực hiện 2 nguyên công dập vuốt trong cùng một bộ khuôn nhằm tăng mức độ biến  
dạng .  
Trong sản xuất hàng loạt lớn và hàng khối, dập vuốt thường được thực hiện trên các  
máy ép trục khuỷu tác dụng đơn hoặc máy ép song động. thông thường các chi tiết có kích  
thước lớn và trung bình (vỏ ô tô, chậu, xoong nồi ...) thường được dập trên các máy ép  
thủy lực song động hoặc máy ép song động cơ khí.  
Hình 1.8 máy ép thủy lực  
Hình 1.9 Máy ép trục khuỷu  
1.3 Các phương pháp chống nhăn trong dập vuốt sâu  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
8
Trong quá trình dập vuốt sâu, chày đẩy tấm kim loại vào khoang trống của cối, kết  
quả một sản phẩm rỗng. Một chi tiết được gọi vuốt sâu nếu độ sâu của bằng ít nhất  
một nửa đường kính của nó. Nếu không, nó chỉ đơn giản được gọi chung là dập.  
Dập vuốt sâu là một quá trình sử dụng rộng rãi trong sản xuất hàng loạt các mặt  
hàng gia dụng, chẳng hạn như lon súp, vỏ bọc pin, bình chữa cháy, và các bồn rửa chén.  
Một quá trình dập vuốt sâu có thể một hoặc nhiều công đoạn vuốt, tùy thuộc vào sự  
phức tạp của chi tiết.  
1.3.1 Hiện tượng nhăn trong dập vuốt sâu  
Một trong những khuyết tật cơ bản xảy ra trong các quá trình vuốt sâu là hiện tượng  
nhăn của vật liệu kim loại tấm, thường xuất hiện trên phần vành hoặc bề mặt của chi tiết  
này. Bề mặt của phôi chịu ứng suất vuốt phân bố ở góc lượn ứng suất nén tiếp tuyến  
trong quá trình dập, đôi khi kết quả gây ra nếp nhăn. Nhăn thể ngăn ngừa được nếu  
khuôn của quá trình vuốt sâu được thiết kế đúng.  
Hình1.10 hiện tượng nhăn trên vành sản phẩm  
Nguyên nhân của hiện tượng nhăn trong dập vuốt sâu bao gồm:  
o Áp lực chặn phôi  
o Độ sâu của chi tiết và bán kính góc cuả chi tiết  
o Lực ma sát giữa phôi, mặt bích chặn phôi, bề mặt cối và chày  
o Khe hở giữa phôi, mặt bích chặn phôi, bề mặt cối và chày  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
9
o Hình dạng phôi và độ dày  
o Hình dạng của chi tiết cần dập vuốt  
o Tốc độ của chày  
Những yếu tố khác, chẳng hạn như nhiệt độ của cối loại hợp kim của phôi, cũng  
thể ảnh hưởng đến quá trình dập vuốt. Một biến đổi ở bất kỳ yếu tố nào đều ảnh hưởng  
đến khả năng nhăn hoặc nứt ở sản phẩm vuốt sâu.  
Bích chặn phôi giữ các cạnh của tấm kim loại trong khi đó các lực của chày đẩy  
kim loại tấm vào khoang của cối làm loại tấm biến dạng thành hình dạng thích hợp, thay vì  
chỉ đơn giản là kéo phôi vào trong khoang của cối.  
Bích chặn phôi không giữ các cạnh của phôi tại chỗ. Trong một vài trường hợp,  
rách có thể xảy ra trên các thành của sản phẩm. Bích chặn phôi cho phép phôi trượt một  
phần nào bằng cách cung cấp lực ma sát giữa các bích chặn tấm phôi đó. Lực chặn phôi  
thể áp dụng lưu chất, bằng cách sử dụng đệm không khí hay nitơ, hoặc một đệm lưu  
chất nào đó.  
Độ sâu cối càng lớn, càng nhiều phôi bị kéo xuống khoang của cối nhiều nguy  
cơ bị nhăn trên các thành và mặt bích của sản phẩm. Độ sâu tối đa của khoang chày là một  
sự cân bằng giữa sự bắt đầu nhăn khởi phát của các đứt gãy, điều này ta không mong  
muốn.  
Các bán kính lượn của chày và cạnh khoang của cối kiểm soát dòng chảy của phôi  
vào khoang của cối. Sự nhăn trên thành sản phẩm thể xảy ra nếu bán kính lượn của  
chày và góc cạnh khoang cối là quá lớn. Nếu bán kính quá nhỏ, phôi dễ bị rách vì áp lực  
cao.  
1.3.2 Các phương pháp chống nhăn ở vùng vuốt sâu  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
10  
a. Dùng bích chặn phôi  
Phương pháp đơn giản để loại bỏ nhăn ở các vùng sâu,được rút ra là sử dụng bích  
chặn phôi. Trong quá trình vuốt sâu, một hằng số áp lực chặn phôi được áp dụng trong  
suốt quá trình rút toàn bộ phôi vào cối.  
Khi thay đổi áp lực đã tạo ra một số thành công. Một đệm khí nén hoặc thuỷ lực có  
thể thay đổi áp lực chặn phôi tuyến tính theo các bậc của máy. Điều này gia tăng độ sâu  
cho phép cuả sản phẩm.  
Một đệm của cối điều khiển số thể được sử dụng để cung cấp một áp lực chặn  
phôi thay đổi trong quá trình hành động dập vuốt. Trên biểu đồ tối áp lực chặn phôi, lực  
chặn ban đầu phải lớn để cung cấp cho biến dạng ban đầu.  
Đệm giảm căng để kéo phôi vào trong khoang , và sau đó dần dần tăng trở lại lên để  
đảm bảo căng cứng cho sản phẩm vuốt. Một đệm cối điều khiển số thể đột ngột tăng độ  
sâu cho phép khi ngăn chặn cả hai hiện tượng nhăn nứt.  
b. Thiết kế tối ưu chày và cối  
Thiết kế của chày và khoang của cối thể được tối ưu hóa để giảm xác suất nhăn.  
Chọn một bán kính mặt bích đó đủ lớn để tránh nứt thể giảm thiểu tối đa khả năng  
nhăn. Ngoài ra, xem xét việc giảm thiểu sự phức tạp và không đối xứng nếu thể. Kết  
hợp nhiều nguyên công vuốt trong quy trình có thể nhiều lợi thế trong việc ngăn chặn  
nhăn ở các sản phẩm vuốt sâu.  
Thiết kế hình hình dạng phôi để giảm thiểu vật liệu dư thừa thể làm giảm khả  
năng nhăn. Phôi kim loại tấm cấu trúc hạt vốn có, do đó, những ứng suất thể khác  
nhau tùy thuộc vào thiết kế của cối định hướng của các hạt này. Điều chỉnh các hạt  
trong một thiết kế không đối xứng để giảm thiểu hỗn hợp ứng suất hạt nhấn mạnh  
những ứng suất tổng của quá trình vuốt sâu.  
c. Các yếu tố khác để xem xét  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
11  
Điều kiện bề mặt của mỗi thành phần thể được thiết kế riêng để cải thiện hiệu  
suất tổng thể. Dầu mỡ bôi trơn làm giảm ma sát giữa phôi và chày và cối ,có thể chất lỏng  
(thể ướt) hoặc màng (khô). Nói chung, chúng được áp dụng cho phôi trước khi vuốt.  
Ngày nay, tấm màn khô được chấp nhận bởi vì chúng giảm bớt một phần cần thiết  
phải rửa sau khi vận hành.  
Trước đây, thử, hư hỏng và kinh nghiệm vận hành giúp tối ưu hóa sản phẩm thiết  
kế khuôn. Ngày nay, máy tính hỗ trợ thiết kế và mô hình phần tử hữu hạn được sử dụng để  
tạo ra sản phẩm và khuôn,sau đó thiết kế để phỏng quá trình vuốt sâu, giảm đáng kể  
chi phí cho các dụng cụ và lao động trong quá trình thiết kế.  
1.4 Sử dụng gân vuốt và khe hở giữa chày và cối trong quá trình dập vuốt sâu  
Trong quá trình dập vuốt các chi tiết hình hộp thì trở lực kéo phôi vào trong cối ở  
những vị trí khác nhau của đường bao là không giống nhau. các thành thẳng trở lực kéo  
phôi vào trong cối nhỏ hơn so với các phần cong (góc hộp), thêm vào đó ở các phần cong ,  
trở lực kéo phôi vào trong cối sẽ tăng lên nếu bán kính cong góc của cối giảm đi. Chính  
vậy mà các chi tiết hình hộp đã được dập vuốt (kể cả các bán thành phẩm) đều chiều  
cao không đồng đều . Chiều cao các phần góc hộp thường lớn hơn ở các phần thành  
thẳng. Ngoài ra, sự không đồng đều về điều kiện kéo phôi dọc theo đường bao của cối  
cũng gây ra sự không đồng đều về trạng thái ứng suất ở phần thành thẳng của chi tiết điều  
đó thể dẫn đến sự phá hủy chi tiết (đứt hoặc rách).  
Để thể tạo ra, mặc chỉ tương đối, sự đồng đều về điều kiện kéo phôi vào  
trong cối trên toàn bộ đường bao thì các thành phẳng, người ta làm tăng trở lực kéo phôi  
một cách nhân tạo bằng các gân vuốt đặc biệt. Những gân vuốt này có tác dụng cản trở sự  
chuyển dịch của phôi đối với cối. Hình dạng, kích thước phương pháp cố định gân vuốt  
được đưa ra trong các sổ tay công nghệ. Số lượng gân vuốt được xác định bằng thực  
nghiệm. Gân vuốt chỉ sử dụng khi thực sự cần thiết bởi việc đặt chúng làm cho  
khuôn phức tạp thêm và tăng giá thành của khuôn.  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
12  
vậy trong quá trình dập vuốt chi tiết hình hộp, ở góc của đường bao chi tiết xảy  
ra sự tăng dày của phần vành, hiện tượng này,hiện tượng này cần phải được tính đến khi  
xác định trị số khe hở giữa chày và cối của khuôn dập vuốt. Như vậy trị số khe hở giữa  
chày và cối ở phần góc của hình hộp cần phải làm lớn hơn so với phần thẳng. Theo số liệu  
kinh nghiệm, ở các phần thẳng, khe hở giữa chày và cối là Z =1,2S ; còn ở phần cong, khe  
hở là Z = ( 1,3 – 1,4 )S. Hướng lấy khe hở Z các nguyên công có thể tùy ý trừ nguyên  
công cuối cùng. Khi dập vuốt chi tiết cần có kích thước ngoài chính xác thì khe hở Z được  
lấy bằng cách giảm kích thước của chày, còn kích thước của cối được lấy bằng kích thước  
giới hạn nhỏ nhất của chi tiết. Ngược lại khi dập vuốt cần có kích thước trong chính xác thi  
khe hở được lấy bằng cách tăng kích thước của cối, còn kích thước của chày lấy bằng kích  
thước giới hạn lớn nhất của chi tiết.  
Kết luận:  
Qua quá trình tìm hiểu về tầm quan trọng của gia công tạo hình kim loại tấm giới  
thiệu về các giải pháp công nghệ ứng dụng trong công nghiệp nước ta hiện nay và thế giới  
đã giúp ta có cái nhìn tổng quan về công nghệ dập tấm, hình thành lý luận và có thể áp  
dụng vào sản xuất.  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
13  
CHƯƠNG II  
THUYẾT BIẾN DẠNG DẺO KIM LOẠI  
2.1 Khái niệm  
Kim loại khi chịu tác dụng của ngoại lực đều xảy ra ba giai đoạn biến dạng đàn  
hồi,biến dạng dẻo, phá hủy.  
Xét biến dạng dẻo biến dạng mà sau khi đã bỏ lực tác dụng vẫn còn một phần  
biến dạng dư được giữ lại và trên các phần tử của vật thể không nhận thấy sự phá huỷ.  
Biến dạng dẻo ở kim loại bao gồm biến dạng dẻo của đơn tinh và đa tinh.  
Biến dạng dẻo của đơn tinh thể:  
biến dạng dẻo theo cơ chế trượt và song tinh.Kim loại khác nhau thì có tính dẻo  
khác nhau.  
Biến dạng dẻo của đa tinh thể:  
Đa tinh thể tập hợp của các đơn tinh. Biến dạng của đa tinh gồm 2 dạng:  
Biến dạng trong nội bộ hạt :  
Gồm sự trượt và song tinh. Sự trượt xảy ra đối với các hạt phương kết hợp với  
phương của lực tác dụng 45 độ sẽ trượt trước rồi đến các mặt khác. Sự song tinh sảy ra khi  
lực tác dụng lớn đột ngột gây ra biến dạng dẻo của kim loại.  
Biến dạng ở vùng tinh giới :  
Tại đây chứa nhiều tạp chất dễ chảy mạng tinh thể bị rối loạn cho nên sự trượt và  
biến dạng thường ở nhiệt độ t0 >9500 C.  
Giải thích sự trượt.  
Theo thuyết lệch, kim loại kết tinh không sắp xếp theo qui luật một cách lý tưởng  
thực tế những chỗ lệch, các nguyên tử ở vị trí lệch luôn có xu hướng trở về vị trí cân  
bằng. Khi có lực tác dụng thì đầu tiên sự di động xảy ra các điểm lệch, các vùng lân cận  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
14  
cũng dịch chuyển theo. Cuối cùng lại tạo nên chỗ lệch mới. Quá trình cứ tiếp tục đến khi  
không còn lực tác dụng nữa.  
Hình 2.1 Sơ đồ lệch  
Hiện tượng trượt còn được giải thích bằng một hiện tượng khác đó sự khuyếch  
tán khi nhiệt độ tăng cao, các nguyên tử di động mạnh dần dịch chuyển sang một vị trí  
cân bằng khác, làm mạng tinh thể bị biến dạng dưới hình thức trượt. Biến dạng đàn hồi là  
biến dạng mà khi thôi tác dụng lực, kim loại sẽ trở về vị trí ban đầu.  
Giải thích hiện tượng song tinh  
Dưới tác dụng của ứng suất tiếp, trong tinh thể sự dịch chuyển tương đối của  
hàng loạt các mặt nguyên tử này so với các mặt khác. Qua một mặt phẳng cố định nào đó  
gọi mặt song tinh. Hiện tượng song tinh xảy ra rất nhanh và mạnh khi biến dạng đột  
ngột, tốc độ biến dạng lớn.  
Hình 2.2 Sơ đồ song tinh  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
15  
2.2 Các hiện tượng xảy ra khi biến dạng dẻo  
Sự thay đổi hình dạng hạt: sự thay đổi hình dạng hạt chủ yếu nhờ quá trình trượt.  
Hạt không những thay đổi về kích thước mà còn có thể vỡ ra thành nhiều khối nhỏ làm  
tăng cơ tính.  
Sự đổi hướng của hạt: Trước khi biến dạng các hạt sắp sếp không theo một hướng  
nhất định nào. Sự hình thành tổ chức sợi dẫn đến sự sai khác về cơ, lí tính của kim loại  
theo những hướng khác nhau, làm cho kim loại mất tính đẳng hướng.  
Sự tạo thành ứng suất dư: Khi gia công áp lực do biến dạng không đều và không  
cùng một lực nên trong nội bộ vật thể sau khi biến dạng còn để lại ứng suất gọi ứng suất  
dư.  
Có 3 loại ứng suất dư:  
Ưng suất dư loại 1 (): Là ứng suất dư sinh ra do sự biến dạng không đồng đều  
1
giữa các bộ phận của vật thể.  
Ứng suất dư loại 2 (): Là ứng suất dư sinh ra do sự biến dạng không đồng đều  
2
giữa các hạt.  
Ứng suất dư loại 3 (): Là ứng suất dư sinh ra do sự biến dạng không đồng đều  
3
trong nội bộ hạt.  
Sự thay đổi thể tích và thể trọng  
Khi biến dạng dẻo trong nội bộ hạt luôn xảy ra hai quá trình:  
Tạo ra những vết nứt, khe xốp, lỗ rỗ tế vi do sự vỡ nát của mạng tinh thể khi trượt  
và song tinh.  
Quá trình hàn gắn những lỗ rỗ,vết nứt khi kết tinh lại. Do đó khi gia công áp lực, tỉ  
trọng thể tích của kim loại bị thay đổi đáng kể  
2.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến tính dẻo của kim loại  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
16  
2.3.1 Trạng thái ứng suất  
Trạng thái ứng suất kéo càng ít, nén càng nhiều thì tính dẻo kim loại càng cao.  
Trạng thái ứng suất nén khối làm kim loại có tính dẻo cao hơn nén mặt phẳng đường  
thẳng còn trạng thái ứng suất kéo khối thì lại làm tính dẻo kim loại kém đi.  
2.3.2 Tốc độ biến dạng nhiệt độ  
Tốc độ biến dạng lượng biến dạng dài tương đối trong một đơn vị thời gian.  
dv  
W   
V.dt  
(2.1)  
Gia công nguội t0 = T  
KTL  
Nếu tăng tốc độ biến dạng sẽ làm giảm tính dẻo của kim loại do có sự biến cứng  
của kim loại.  
Gia công nóng t0 > T  
KTL  
Ở nhiệt độ không quá cao :  
Đối với thép t0  
= C  
9000  
Khi tăng tốc độ biến dạng(W) thì lực ma sát làm tăng nhiệt độ của kim loại lên 1000  
0 C 11000 C nên thép rất dẻo.  
Gia công kim loại ở nhiệt độ quá cao : Nếu tăng W thì lực ma sát làm tăng nhiệt độ  
của kim loại đến vùng quá nhiệt làm độ dẻo giảm , độ cứng tăng lên.  
2.3.3 Thành phần tổ chức kim loại  
Thành phần tổ chức kim loại liên quan với nhau. Kim loại ở trạng thái nguyên  
chất hoặc một pha dung dịch rắn bao giờ cũng có tính dẻo cao hơn dễ biến dạng hơn so  
với kim loại cấu tạo hỗn hợp cơ học hoặc hợp chất hoá học.  
dụ: Thép % C thấp dẻo hơn thép %C cao.  
2.4 Ảnh hưởng của biến dạng dẻo đến tính chất tổ chức của kim loại  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
17  
2.4.1 Ảnh hưởng của biến dạng dẻo đến tổ chức tính kim loại  
Tốc độ biến dạng càng tăng thì sự vỡ nát của các hạt càng lớn, độ hạt càng giảm do  
đó cơ tính càng cao.  
Biến dạng dẻo giúp khử được các khuyết tật như xốp co, rỗ khí, rỗ co, lõm co…  
làm tăng độ mịn chặt của kim loại làm tính tăng lên.  
Biến dạng dẻo thể tạo được các thớ uốn xoắn khác nhau làm tăng cơ tính sản phẩm.  
Tốc độ biến dạng cũng ảnh hưởng lớn tới cơ tính sản phẩm: nếu tốc độ biến dạng  
càng lớn thì sự biến cứng càng nhiều , sự không đồng đều của biến cứng càng nghiêm  
trọng sự phân bố thớ càng không đều do đó cơ tính kém.  
2.4.2 Ảnh hưởng của biến dạng dẻo tới lý tính kim loại  
Biến dạng dẻo làm tăng điện trở, giảm tính dẫn điện và làm thay đổi từ trường trong  
kim loại.  
Tính dẫn điện: biến dạng dẻo tạo ra sự sai lệch trong mạng tinh thể làm tính liên tục  
của điện trường trong tinh thể bị phá vỡ, ngoài ra nó còn tạo những màng chắn cản trở sự  
chuyển động t do của điện tử. Đây là nguyên nhân làm tăng điện trở của kim loại.  
Tính dẫn nhiệt: biến dạng dẻo làm giảm tính dẫn nhiệt. Do biến dạng dẻo làm xô  
lệch mạng, làm xô lệch vùng tinh giới, làm giảm biên độ dao động nhiệt của các điện tử.  
Từ tính: các sai lệch tạo ra khi biến dạng dẻo làm thay đổi cách bố trí từ trường cơ  
bản trong kim loại do đó làm thay đổi từ tính, độ thấm từ,…  
2.4.3 Ảnh hưởng của biến dạng dẻo tới hoá tính  
Sau khi biến dạng dẻo năng lượng tự do của các kim loại tăng do đó hoạt tính hoá  
học của kim loại cũng tăng lên.  
2.5 Các định luật cơ bản áp dụng khi gia công bằng áp lực  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
18  
2.5.1 Định luật biến dạng đàn hồi tồn tại song song với biến dạng dẻo  
Khi gia công áp lực nếu trong kim loại xảy ra biến dạng dẻo bao giờ cũng một  
lượng biến dạng đàn hồi kèm theo (được xác định bằng góc đàn hồi, phụ thuộc vào modun  
đàn hồi E của vật liệu chiều dày tấm kim loại)  
Gia công nguội: kim loại dạng tấm sẽ chịu ảnh hưởng lớn.  
Gia công nóng: kim loại dạng khối, ảnh hưởng của biến dạng đàn hồi thể bỏ qua.  
Thường để áp dụng khi thiết kế khuôn dập, vật dập phải kể đến lượng biến dạng dư  
do biến dạng đàn hồi gây ra.  
2.5.2 Định luật ứng suất dư  
Khi gia công áp lực do nung nóng và làm nguội không đều, lực biến dạng, lực ma  
sát… phân bố không đều làm phát sinh ra ứng suất dư tồn tại cân bằng bên trong vật thể  
kim loại. Nếu không cân bằng thì sẽ có quá trình tích, thoát ứng suất làm cho vật thể biến  
dạng ngoài ý muốn để ứng suất dư tồn tại cân bằng.  
2.5.3 Định luật thể tích không đổi  
Thể tích của vật thể trước khi biến dạng bằng thể tích vật thể sau khi biến dạng  
Gọi thể tích vật trước khi gia công là V  
Gọi thể tích vật sau khi gia công là V.  
o
Vật thể chiều cao, rộng, dài trước khi gia công là:  
h0 ,b0 ,l0  
Vật thể chiều cao, rộng, dài sau khi gia công là:  
h ; b ; l  
Theo điều kiện thể tích không đổi ta có : h.b. l = h .b .l  
o o o  
h b l  
. . 1  
h0 b0 l0  
(2.2)  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
19  
h
b
l
ln ln ln 0  
h0 b0 l0  
(2.3)  
1 2 3 0 (*)  
Phương trình (*) gọi phương trình điều kiện thể tích không đổi.  
1,2 ,3 là các ứng biến chính.  
Nhận xét : khi gia công biến dạng nếu tồn tại cả ba ứng biến chính nghĩa là có sự thay đổi  
kích thước cả ba chiều thì đầu của một ứng biến phải trái dấu với hai ứng biến kia và có  
giá trị tuyệt đối bằng tổng của hai ứng biến kia.  
h
11 0 2 ,3 0  
h0  
1 2 3  
1 2 3  
Khi có một ứng biến bằng 0 thì hai ứng biến còn lại phải ngược dấu và có trị số  
tuyệt đối bằng nhau.  
Dập không làm mỏng thành phôi:  
SF SSP 1 0 2 3  
Áp dụng để tính toán kích thước, khối lượng phôi trước khi gia công  
2.5.4 Định luật trở lực nhất  
Khi biến dạng kim loại, một chất điểm bất kì trên vật thể biến dạng sẽ di chuyển  
theo hướng trở lực nhất hay di chuyển đến đường viền có chu vi bé nhất.  
Áp dụng để thiết kế hình dáng của phôi trước khi gia công.  
2.6 Lý thuyết ứng suất  
2.6.1 Trạng thái ứng suất  
Đtài: thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập  
vuốt bằng chương trình dynaform  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 99 trang yennguyen 28/03/2022 4400
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Đề tài Thiết kế bồn rửa chén và khuôn dập vuốt bằng chương trình Dynaform", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docde_tai_thiet_ke_bon_rua_chen_va_khuon_dap_vuot_bang_chuong_t.doc