Đánh giá chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing kết quả nghiên cứu nhóm sinh viên tốt nghiệp
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO CỦA KHOA MARKETING,
TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH – MARKETING
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU NHÓM SINH VIÊN TỐT NGHIỆP
TRAINING QUALITY ASSESSMENT OF MARKETING IN MARKETING -
FINANCE UNIVERSITY: THE RESULTS FROM A SURVEY OF STUDENTS
GRADUATED FROM THE FACULTY OF MARKETING
Dư Thị Chung1
Ngày nhận: 29/3/2018
Tóm tắt
Ngày nhận bản sửa: 12/4/2018
Ngày đăng: 5/8/2018
Đánh giá chất lượng đào tạo là một trong những hoạt động quan trọng đối với một cơ sở đào tạo
đại học nhằm góp phần nâng cao chất lượng đào tạo. Mục đích chính của nghiên cứu này nhằm
xác định các nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài
chính – Marketing dựa trên kết quả khảo sát 320 sinh viên tốt nghiệp. Nghiên cứu này sử dụng
phần mềm SPSS 22.0 để xử lý và phân tích kết quả nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu cho thấy
rằng có bảy nhân tố với 25 tiêu chí được xác định và có ý nghĩa tác động đến sự hài lòng về chất
lượng đào tạo ngành Marketing, trong đó nhân tố Chương trình đào tạo có tác động mạnh nhất.
Kết quả khảo sát sẽ là cơ sở đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo tại Khoa
Marketing.
Từ khóa: Đánh giá chất lượng, chất lượng đào tạo, đào tạo đại học.
Abstract
Quality assessment of higher education has been playing an important role in the university for
the sake of improving training quality. The main purpose of this research is to identify the factors
affecting faculty of Marketing’s training quality assessment, university of Finance and Marketing
basing on a survey of 320 students graduated from the faculty of Marketing. SPSS version 22.0
has chosen for processing and analyzing the data. The empirical findings show that seven groups
of factors – representing for 25 items have expressed their significant effects to perceived
training quality for the discipline of Marketing, in which the most affected factor is the training
program. As the result from this work, some solutions proposed to upgrade faculty of
Marketing’s quality of training.
Keywords: Quality assessment, training quality, higher education.
1 Trường Đại học Tài chính – Marketing
37
1. Giới thiệu
Chất lượng đào tạo là một trong những
nhất tại văn bản hợp nhất số 06/VBHN-
BGDĐT ngày 04/03/2014 của Bộ giáo dục
và Đào tạo. Trong những năm gần đây,
trường Đại học Tài chính – Marketing nói
chung và khoa Marketing nói riêng cũng
đã từng bước áp dụng các mô hình đánh
giá chất lượng đào tạo, điển hình như mô
hình đánh giá chất lượng AUN (ASEAN
University Network) và Kiểm định của Bộ
Giáo dục và Đào tạo. Xuất phát từ thực
tiễn đào tạo và nhu cầu nâng cao chất
lượng đào tạo đối với khoa Marketing,
nghiên cứu này được tiến hành với mục
đích trọng tâm là đánh giá phản hồi của
sinh viên tốt nghiệp về chất lượng đào tạo
của Khoa. Mục tiêu cụ thể của nghiên cứu:
(i) Xác định các nhân tố đánh giá chất
lượng đào tạo của Khoa Marketing, (ii) Đo
lường mức độ tác động của các nhân tố
chất lượng đào tạo đến sự hài lòng của
sinh viên tốt nghiệp và (iii) Nghiên cứu đề
xuất giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo
của khoa Marketing.
vấn đề đáng quan tâm nhất của các cơ sở
giáo dục và đào tạo, nhất là các cơ sở giáo
dục đại học. Nhiệm vụ quan trọng của các
trường đại học, cao đẳng là đào tạo nguồn
nhân lực đáp ứng nhu cầu của xã hội và
người học. Việc đánh giá chất lượng đào
tạo là vô cùng cần thiết cho việc đổi mới
và nâng cao chất lượng đào tạo, đặc biệt
trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập hiện
nay.
Trong dịch vụ giáo dục đào tạo thì các
trường đại học là nhà cung cấp còn người
học là khách hàng. Elliott & Shin (2002)
cho rằng các trường đại học cũng thuộc
ngành dịch vụ mà nhiệm vụ chính là đáp
ứng nhu cầu và mong đợi của sinh viên.
Đối với người học, chất lượng đào tạo
được xem như một trong yếu tố đầu tiên
tác động đến việc chọn trường đại học
cũng như sự hài lòng của sinh viên trong
quá trình học tập và sau khi hoàn thành
khóa học. Elliott & Shin (2002) cũng đã
chỉ ra rằng sự hài lòng của sinh viên có tác
động tích cực đến ý định học tiếp trong
tương lai của sinh viên và các nỗ lực tuyển
dụng của nhà trường vì thế các nghiên cứu
về phản hồi của người học là rất cần thiết.
Hoạt động đánh giá chất lượng đào tạo là
một xu hướng tất yếu trên thế giới cũng
như ở Việt Nam, vì thế ngày 01/11/2007,
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành
Quyết định số 65/2007/QĐ-BGDĐT liên
quan đến các tiêu chuẩn đánh giá chất
lượng giáo dục trường đại học và được bổ
sung theo thông tư số 37/2012/TT-
BGDĐT ngày 30/10/2012 và được hợp
2. Tổng quan nghiên cứu, khung lý
thuyết và phương pháp nghiên cứu
2.1 Khái niệm về chất lượng đào tạo
Chất lượng luôn là vấn đề quan trong
nhất của tất cả các trường đại học, và việc
phấn đấu nâng cao chất lượng đào tạo bao
giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan
trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo đại học
nào. Mặc dù có tầm quan trọng như vậy
nhưng chất lượng đào tạo vẫn là một khái
niệm khó định nghĩa, khó xác định, khó đo
lường, và có nhiều cách hiểu khác nhau
cũng như rất nhiều tranh luận xung quanh
vấn đề này đã diễn ra tại các diễn đàn về
chất lượng đào tạo.
38
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Chất lượng đào tạo trong giáo dục đại
được đánh giá bằng đầu vào, đây chính là
trình độ của sinh viên được tuyển chọn
vào trường. Thứ hai, chất lượng giáo dục
được đánh giá bằng đầu ra hay chính là
sản phẩm của giáo dục đại học được thể
hiện bằng mức độ hoàn thành công việc
của sinh viên tốt nghiệp hay khả năng
cung cấp các hoạt động đào tạo của trường
đó. Thứ ba, chất lượng giáo dục được đánh
giá bằng giá trị gia tăng: “Giá trị gia tăng”
được xác định bằng giá trị của “đầu ra” trừ
đi giá trị của “đầu vào”, kết quả thu được
là “giá trị gia tăng” mà trường đại học đã
đem lại cho sinh viên và được đánh giá là
chất lượng giáo dục đại học. Thứ tư, chất
lượng giáo dục được đánh giá bằng giá trị
học thuật: chủ yếu dựa vào sự đánh giá
của các chuyên gia về năng lực học thuật
của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong từng
trường trong quá trình thẩm định công
nhận chất lượng đào tạo đại học. Điều này
có nghĩa là trường đại học nào có đội ngũ
giáo sư, tiến sĩ đông, có uy tín khoa học
cao thì được xem là trường có chất lượng
cao. Thứ năm, chất lượng giáo dục được
đánh giá bằng văn hóa tổ chức riêng: “Văn
hoá tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình
liên tục cải tiến chất lượng. Vì vậy một
trường được đánh giá là có chất lượng khi
nó có được “Văn hoá tổ chức riêng” với
nét đặc trưng quan trọng là không ngừng
nâng cao chất lượng đào tạo. Cuối cùng,
chất lượng giáo dục được đánh giá bằng
kiểm định: Quan điểm này xem trọng quá
trình bên trong trường đại học và nguồn
thông tin cung cấp cho việc ra quyết định.
Nếu kiểm toán tài chính xem xét các tổ
chức có duy trì chế độ sổ sách tài chính
hợp lý không, thì kiểm định chất lượng
học theo định nghĩa của Harvey & Green
(1993) được thể hiện ở năm khía cạnh: sự
xuất sắc, sự hoàn hảo, sự phù hợp với mục
tiêu, sự đáng giá với chi phí bỏ ra, và sự
chuyển đổi về chất. Trong khi đó, tổ chức
quốc tế về đảm bảo chất lượng giáo dục
đại học (INQAHE) đưa ra một định nghĩa
khác về chất lượng đào tạo, cụ thể: Chất
lượng đào tạo đại học (hay giáo dục đại
học) là tuân theo các chuẩn quy định, hoặc
nếu chưa có bộ tiêu chí chuẩn quy định về
chất lượng thì tổ chức giáo dục phải “đạt
được mục tiêu đề ra”. Những chuẩn quy
định hay mục tiêu đề ra được xây dựng bởi
cơ quan quản lý giáo dục dựa trên các điều
kiện kinh tế, xã hội đặc thù của địa
phương. Chất lượng đào tạo cũng có thể
hiểu là đạt được mục tiêu và đáp ứng
mong đợi của các bên liên quan (Lê Thị
Linh Giang, 2014). Bộ Giáo dục và Đào
tạo (2007) đã ban hành bộ tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng đào tạo ở trường đại học
với tên gọi “Quy định về tiêu chuẩn đánh
giá chất lượng giáo dục trường đại học”.
Trong đó, chất lượng giáo dục đại học
được định nghĩa cụ thể như sau: “Chất
lượng giáo dục ở trường đại học là sự đáp
ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm
bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đại
học của Luật Giáo dục, phù hợp với yêu
cầu đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát
triển kinh tế – xã hội của địa phương và cả
nước”.
Cục Khảo thí và kiểm định chất lượng
giáo dục tại Việt Nam đã đúc kết sáu quan
điểm về chất lượng trong giáo dục đại học
như sau: Thứ nhất, chất lượng giáo dục
39
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
quan tâm xem các trường đại học có thu
Hướng thứ hai, các nhà nghiên cứu đánh
giá mối quan hệ giữa chất lượng đào tạo
với các yếu tố khác ví dụ chất lượng đào
tạo và sự hài lòng của học viên (Diamantis
và Benos, 2007; Bùi Ngọc Ánh và Đào
Thị Hồng Vân, 2013; Nguyễn Thị Bảo
Châu và Thái Thị Bích Châu, 2013; Phan
Thị Thanh Hằng, 2014; Trần Xuân Kiên,
2006) hay chất lương đào tạo và cảm nhận
về chất lượng đào tạo (Clemenz, 2001;
Huỳnh Trường Huy và Nguyễn Nhật
Khiêm, 2012). Diamantis và Benos (2007)
đã nghiên cứu về sự hài lòng của sinh viên
Khoa Quốc tế và Châu Âu. Kết quả nghiên
cứu cho thấy sự hài lòng của sinh viên bị
ảnh hưởng bởi cả 4 yếu tố: chương trình
đào tạo, yếu tố hữu hình, hỗ trợ hành
chính và hình ảnh của Khoa. Clemenz
(2001) với đề tài “Đo lường cảm nhận về
chất lượng dịch vụ trong đào tạo các
nghiệp vụ khách sạn”, sử dụng mô hình
SERQUAL. Kết quả nghiên cứu cho thấy
được 9 nhóm nhân tố ảnh hưởng đế chất
lượng đào tạo ngành du lịch, bao gồm:
môi trường đào tạo, tổ chức đào tạo, sự
đồng cảm, tính thực tế, sự tương tác, tính
hữu hình, trách nhiệm, sự tin cậy và sự
thoải mái. Nghiên cứu của Bùi Ngọc Ánh
và Đào Thị Hồng Vân (2013) cho thấy
thành phần chất lượng đào tạo tác động
đến sự hài lòng của sinh viên, theo thứ tự
từ cao xuống thấp, đó là: Chương trình
đào tạo, cơ sở vật chất, năng lực phục vụ
và nhân tố giảng viên.
thập đủ thông tin phù hợp và những người
ra quyết định có đủ thông tin cần thiết hay
không, quá trình thực hiện các quyết định
về chất lượng có hợp lý và hiệu quả
không.
Dựa trên những khái niệm khác nhau
về chất lượng đào tạo ở Việt Nam cũng
như trên thế giới, có thể nhận thấy rằng
đánh giá chất lượng đào tạo là hoạt động
nhằm xác định lại việc thực hiện đào tạo
có đáp ứng được mục tiêu đào tạo do cơ sở
đào tạo đề ra hay không. Một trong các
mục tiêu quan trọng của cơ sở giáo dục đại
học là đáp ứng được nhu cầu và mọng đợi
của người học về chất lượng đào tạo, vì
thế nghiên cứu về phản hồi, đánh giá của
người học là một hoạt động cần thiết của
cơ sở đào tạo đại học. Khoa Marketing,
trường Đại học Tài chính – Marketing là
một trong những khoa đang tham gia vào
đánh giá chương trình đào tạo theo tiêu
chuẩn mạng lưới các trường đại học Đông
Nam Á (AUN-QA), vì thế nghiên cứu về
phản hồi của sinh viên tốt nghiệp về chất
lượng đào tạo là một vấn đề cần thiết. Kết
quả nghiên cứu vừa là minh chứng cho
công tác kiểm định và là cơ sở để khoa
Marketing có thể nâng cao chất lượng đào
tạo trong thời gian tới.
2.2 Một số nghiên cứu về chất lượng
đào tạo
Các nghiên cứu liên quan đến chất
lượng đào tạo tập trung vào các nhóm, thứ
nhất là các nghiên cứu nhằm khái niệm
hóa và xây dựng các tiêu chí đánh giá chất
lượng đào tạo (Lê Thị Linh Giang, 2014;
Phạm Lê Hồng Nhung và cộng sự, 2012).
Nguyễn Thị Bảo Châu và Thái Thị
Bích Châu (2013) thực hiện đề tài “Đánh
giá mức độ hài lòng của sinh viên khối
ngành Kinh tế đối với chất lượng đào tạo
40
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
của Khoa Kinh tế & Quản trị Kinh doanh,
ngũ giảng viên, (iv) khả năng thực hiện
cam kết, và (v) sự quan tâm của nhà
trường. Tác giả đã sử dụng phương pháp
phân tích nhân tố để sàng lọc và nhóm các
nhân tố có tác động đến sự hài lòng về
chất lượng đào tạo. Kết quả phân tích cho
thấy rằng thành phần nhân tố về sự nhiệt
tình của giảng viên đóng vai trò quan
trọng nhất dẫn đến sự hài lòng của sinh
viên.
Trường Đại học Cần Thơ”. Kết quả nghiên
cứu đã chỉ ra 2 nhóm có ảnh hưởng đến sự
hài lòng của sinh viên, đó là: tác phong,
năng lực của giảng viên và cơ sở vật chất
trong đó, sự ảnh hưởng của nhóm tác
phong, năng lực của giảng viên có ảnh
hưởng mạnh hơn.
Phan Thị Thanh Hằng (2014) với đề
tài “Sự hài lòng của học sinh – sinh viên
về chất lượng chương trình đào tạo tại
trường Cao đẳng kinh tế đối ngoại” được
thực hiện trên cơ sở mô hình chất lượng
dịch vụ của Parasuraman & ctg (1998) và
mô hình sự hài lòng của sinh viên theo
Diamantis và Benos (2007). Kết quả đề tài
cho thấy sự hài lòng của sinh viên về chất
lượng chương trình đào tạo tại bị tác động
nhiều nhất bởi nhóm giảng viên và chương
trình đào tạo hơn là nhóm yếu tố cơ sở vật
chất và các hoạt động hỗ trợ.
Qua quá trình nghiên cứu tài liệu, tổng
hợp và đánh giá các đề tài nghiên cứu liên
quan, nhóm nghiên cứu nhận xét thấy mặc
dù có nhiều đề tài khác nhau sử dụng các
nhóm nhân tố khác nhau nhưng hầu hết
các thang đo chất lượng đào tạo đều có
chung đặc điểm, đó là các nhân tố đều
xoay quanh hoặc thể hiện được 5 nhân tố
của thang đo chất lượng dịch vụ của
Parasuraman và cộng sự (1988), bao gồm:
hữu hình, đáp ứng, đảm bảo, tin cậy và
đồng cảm. Các nhân tố này được điều
chỉnh và đặt tên lại trong các nghiên cứu
về chất lượng đào tạo, cũng như bổ sung
thêm các nhân tố khác dựa trên các nghiên
cứu trước đây. Từ cơ sở này, mô hình
nghiên cứu được đề xuất như sau bao gồm
bảy nhân tố: Cơ sở vật chất, Sự đồng cảm,
Sự tin cậy, Sự bảo đảm, Chương trình đào
tạo, Kết quả mong đợi và nhân tố Giảng
viên.
Trong nghiên cứu về đánh giá sự hài
lòng của sinh viên về chất lượng đào tạo
tại trường đại học kinh tế và quản trị kinh
doanh, Đại học Thái Nguyên, Trần Xuân
Kiên (2006) đã khảo sát 260 sinh viên tại
trường và sử dụng công cụ thang đo
SERVQUAL, kết quả biến thể qua năm
thành phần: (i) cơ sở vật chất, (ii) sự nhiệt
tình của giảng viên, (iii) trình độ của đội
41
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất
Cơ sở vật chất
H1(+)
Sự đồng cảm
Sự tin cậy
H2(+)
H3(+)
Sự hài lòng về
chất lượng đào tạo của
Khoa Marketing
H4(+)
Sự đảm bảo
H5(+)
H6(+)
Chương trình đào tạo
Kết quả mong đợi
Giảng viên
H7(+)
2.3 Khung lý thuyết và phương pháp
nghiên cứu
SERVQUAL gồm năm thành phần chính –
tin cậy, đáp ứng, đảm bảo, đồng cảm, và
phương tiện hữu hình. Một biến thể của
SERVQUAL chính là công cụ đo lường
chất lượng dịch vụ dựa trên cảm nhận của
khách hàng SERVPERF được đề xuất bởi
Cronin và Taylor (1992). Mô hình này
cũng dựa trên năm thành phần chính của
công cụ (Parasuraman và cộng sự, 1988).
Tuy nhiên, điểm khác biệt giữa hai công
cụ đó là cách thức đo lường. Parasuman và
cộng sự (1988) đo lường chất lượng dịch
Xây dựng thang đo
Chất lượng dịch vụ nói chung và chất
lượng đào tạo (giáo dục) nói riêng từ lâu
đã trở thành chủ đề được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm và đánh giá với nhiều
phương pháp khác nhau. Điển hình nhất
trong số đó là mô hình chất lượng dịch vụ
do Parasuraman và cộng sự (1988) đề
xuất, thường được biết đến với công cụ
42
Tạp chí Nghiên cứu Tài chính – Marketing số 46, tháng 8/2018
vụ dựa vào sự khác biệt giữa cảm nhận và
Nghiên cứu sơ bộ: Sử dụng phương
pháp nghiên cứu định tính với kỹ thuật
thảo luận nhóm bao gồm 8 sinh viên tốt
nghiệp từ hai chuyên ngành Quản trị
marketing và Quản trị thương hiệu. Giai
đoạn nghiên cứu này nhằm điều chỉnh và
bổ sung biến quan sát cho thang đo chất
lượng đào tạo theo quan điểm của cựu
sinh viên.
kỳ vọng, trong khi đó Cronin và Taylor
(1992) đo lường chỉ dựa vào cảm nhận của
đối tượng tham gia đánh giá. Cho đến nay,
cả hai phương pháp trên có thể được sử
dụng đồng thời và chưa có bằng chứng
nào cho thấy phương pháp thứ nhất tối ưu
hơn phương pháp thứ hai. Tuy nhiên,
trong thực tế người tham gia đánh giá
thường gặp khó khi phân biệt giữa cảm
nhận và kỳ vọng. Điều này dẫn đến sự
khác biệt giữa hai tiêu chí này dường như
không đáng kể. Trong trường hợp như thế,
công cụ SERVPERF có vẻ phù hợp hơn
do đặc điểm đơn giản của nó. Vì vậy, công
cụ SERVPERF sẽ được chọn và kế thừa
các nghiên cứu trước về chất lượng đào
tạo để tiến hành đánh giá chất lượng đào
tạo đối với ngành Marketing. Thang đo sơ
bộ sẽ được đưa vào thảo luận nhóm với
các sinh viên tốt nghiệp để điều chỉnh các
thang đo, làm cơ sở thiết kế bảng câu hỏi.
Trong bảng câu hỏi, các thành phần thang
đo thể hiện qua các phát biểu được hỏi với
thang Likert với năm mức độ tương ứng 1:
Rất không đồng ý đến 5: Rất đồng ý.
Thang đo Sự hài lòng của sinh viên về
chất lượng đào tạo được kế thừa từ nghiên
cứu của Phan Thị Thanh Hằng (2014) gồm
3 biến quan sát và sử dụng thang đo Likert
(5 mức độ) để đặt câu hỏi.
Nghiên cứu chính thức: Sử dụng
phương pháp nghiên cứu định lượng với
qui mô mẫu là 320, mẫu được chọn theo
phương pháp thuận tiện, kỹ thuật thu thập
dữ liệu thông qua bảng câu hỏi bằng cách
phát bảng hỏi trực tiếp. Thời gian tiến
hành khảo sát từ ngày 14/07 đến
21/07/2017 trong đợt sinh viên tập trung
nhận bằng tốt nghiệp tại trường. Dữ liệu
sau khi thu thập được nhập liệu, làm sạch
và phân tích độ tin cậy của thang đo bằng
phương pháp xác định hệ số Cronbach’s
Alpha và phân tích nhân tố khám phá
EFA. Phân tích tương quan và hồi quy đa
biến được sử dụng nhằm kiểm định các giả
thuyết nghiên cứu và đánh giá mức độ tác
động của các nhân tố độc lập đến biến phụ
thuộc. Tiêu chuẩn chọn hệ số Cronbach’s
Alpha lớn hơn hoặc bằng 0.6 (Slater,
1995), hệ số tương quan biến tổng phải đạt
trên 0.3 (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị
Mai Trang, 2011). Phân tích nhân tố khám
phá (EFA) phải thỏa điều kiện hệ số
KMO: 0.5 ≤ KMO ≤ 1, với mức ý nghĩa
kiểm định Barlett ≤ 0.05. Phương pháp
trích nhân tố sử dụng là Principal
Component và phép xoay là Varimax. Số
lượng nhân tố sẽ nhận tại điểm dừng Eigen
–value tối thiểu bằng 1, yêu cầu về tổng
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu này nhằm tìm hiểu đánh
giá của sinh viên tốt nghiệp về chất
lượng đào tạo của khoa Marketing
(ngành Marketing), trường Đại học Tài
chính – Marketing được thực hiện thông
qua hai giai đoạn:
43
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá chất lượng đào tạo của khoa Marketing, trường Đại học Tài chính – Marketing kết quả nghiên cứu nhóm sinh viên tốt nghiệp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- danh_gia_chat_luong_dao_tao_cua_khoa_marketing_truong_dai_ho.pdf