Báo cáo Trầm cảm ở học sinh Trung học phổ thông: Thực trạng và giải pháp

SỞ GIÁO DỤC ĐÀO TẠO HẢI DƯƠNG  
TRƯỜNG THPT NHỊ CHIỂU  
BÁO CÁO  
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC  
ĐỀ TÀI  
TRẦM CẢM Ở HS THPT: THỰC TRẠNG GIẢI PHÁP  
Lĩnh vực:  
Khoa học hội hành vi  
NHÓM THỰC HIỆN  
1. Nhóm trưởng:  
2. Thành viên:  
Phùng Thị Xuân  
Vũ Huyền Trang  
Giáo viên hướng dẫn:  
Nguyễn Thị Đậu  
HẢI DƯƠNG -2018  
1
MỤC LỤC  
LỜI CẢM ƠN  
TÓM TẮT NỘI DUNG DỰ ÁN ………………………………………………….7  
Phần I: Tổng quan vấn đề ……………………………………………………….8  
1.1. Lí do chọn đề tài ………………………………………………………………8  
1.2. Câu hỏi nghiên cứu …………………………………………………………..10  
1.3. Cơ sở thực hiện đề tài…………………………………………………………10  
1.3.1. Cơ sở khoa học………………………………………………….…………..10  
1.3.2. Cơ sở thực tiễn……………………………………………………...………14  
1.4. Mục tiêu nghiên cứu…………………………………………………………..17  
1.5. Ý nghĩa khoa học thực tiễn…………………………………………...……18  
1.6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu………...……………………………………….18  
1.7. Phương pháp nghiên cứu……………………………...………………………18  
1.8. Tính sáng tạo của đề tài …………………………………...………………….19  
Phần II: Kết quả thảo luận…………………………………………………..20  
2.1. Tỉ lệ học sinh mắc trầm cảm………………………...………………………..20  
2.2. Mô tả về trầm cảm………………………………...…………………………..22  
2.2.1. Diễn biến một ngày của trầm cảm đối với học sinh trung học phổ thông….22  
2.2.2. Trầm cảm gây ra sự đau khổ cả về tinh thần lẫn thể xác.…….. ……… …..23  
2.2.3. Trầm cảm khiến mọi thứ trở lên khó khăn tồi tệ hơn.………………….. 23  
2.2.4. Làm thay đổi quan điểm và suy nghĩ của chính mình………………..……..24  
2.2.5. Không còn hứng thú với sở thích của mình ………………………….…….25  
2.2.6. Những yếu tố cảm xúc cứ dồn nén tác động làm cho người bệnh trở nên vô  
cảm…………………………………………………………………………….…..25  
2
2.2.7. Sự tự ti, bi quan, thất bại trong suy nghĩ và hành động ………...…………..25  
2.2.8. Sự khác nhau giữa trầm cảm buồn bã.…………………… ……………..26  
2.2.9. Sự khác nhau giữa trầm cảm tự kỉ……………………………………….26  
2.2.10. Sự khác biệt giới tính khi mắc bệnh ……………………………..………27  
2.2.11. Biểu hiện nhận biết chung của trầm cảm ở học sinh THPT ………..……..29  
2.3. Nguyên nhân dẫn tới căn bệnh trầm cảm……………………………….…….31  
2.3.1. Bệnh lí…………………………………………..…………………………..31  
2.3.2. Áp lực từ phía bên ngoài  
………………………………….……………34  
2.3.3. Áp lực do chính bản thân tạo nên…………………………………….…….42  
2.4. Hậu quả của căn bệnh trầm cảm……………………………………….….45  
2.4.1. Các bệnh liên quan tim mạch và não bộ………………………………..…46  
2.4.2. Giảm sức mạnh của hệ miễn dịch………………………………………….47  
2.4.3. Mất đi cảm giác ngon miệng mất ngủ………………………………….48  
2.4.4. Nhức đầu đau lưng………………………………………………………48  
2.4.5. Biến động trong áp lực máu………………………………………………..48  
2.4.6. Mệt mỏi kiệt sức……………………………………………………….48  
2.4.7. Tự tử………………………………………………………………….…….48  
2.5. Giải pháp giúp học sinh THPT vượt qua căn bệnh trầm cảm………………..49  
2.5.1. Giải pháp thứ nhất: Loại trừ các tác động tiêu cực………………………..50  
2.5.2. Giải pháp thứ hai: Tăng cường các hoạt động tích cực…………………….57  
2.5.3. Giải pháp thứ ba: Bản thân tự điều chỉnh cảm xúc…………………………59  
Phần III: Kết luận khuyến nghị..................………………………………..64  
3.1. Kết luận……………………………………………………………..............64  
3.2. Khuyến nghị…………………………………………………………………64  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
PHỤ LỤC  
3
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT  
Từ viết tắt  
Từ đầy đủ  
Trung học phổ thông  
DANH MỤC CÁC HÌNH  
THPT  
Hình 2.1. Biểu đồ tỉ lệ học sinh THPT mắc bệnh trầm cảm  
Hình 2.2. Kết quả khảo sát về biểu hiện rối loạn cảm xúc của các bạn học sinh.  
Hình 2.3. Biểu hiện của trầm cảm nhẹ  
Hình 2.4. Gen gây ra bệnh trầm cảm  
Hình 2.5. Bố mẹ ơi đừng bắt con học  
Hình 2.6. Bạo lực gia đình  
Hình 2.7. Áp lực học tập, thành tích  
Hình 2.8. Nỗi ám ảnh từ các môn học  
Hình 2.9. Bị bạn bắt nạt  
Hình 2.10. Tự tạo áp lực cho chính mình  
Hình 2.11. Hậu quả của trầm cảm  
Hình 2.12. Trầm cảm sát thủ giấu mặt trong xã hội hiện đại  
Hình 2.13. Làm bạn với con  
Hình 2.14. Kế hoạch GDTT đạo đức HChí Minh cho HS của THPT Nhị Chiểu  
Hình 2.15. Các hoạt động ngoại khóa của trường THPT Nhị Chiểu.  
4
Hình 2.16. Thanh niên TN THPT Nhị Chiểu tiếp sức mùa thi và giới thiệu sách  
Hình 2.17. tuyên truyền phổ biến kiến thức về trầm cảm của học sinh lớp 11A.  
Hình 2.18. Ngày hội thể thao.  
5
LỜI CẢM ƠN  
Nghiên cứu khoa học một sân chơi vô cùng bổ ích cho học sinh trung học.  
Đây nơi tìm ra những bạn trẻ tài năng và sáng tạo, giúp các bạn học sinh có thể  
thể hiện năng lực của bản thân. Chúng em vô cùng cảm ơn Sở giáo dục đào tạo  
Hải Dương đã tổ chức cuộc thi này để chúng em có thể được tham gia, thể hiện tư  
duy của bản thân. Bên cạnh đó, trong quá trình nghiên cứu, chúng em đã nhận được  
sự giúp đỡ của các quan, đơn vị sau:  
- Trường THPT Nhị Chiểu huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương  
- Trường THPT Kinh Môn II - huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương  
- Trường THPT Trần Quang Khải - huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương  
- Trung tâm giáo dục thường xuyên huyện Kinh Môn, Hải Dương  
- Trường THPT Đông Triều, Quảng Ninh.  
Nhóm tác giả chúng em xin chân thành cảm ơn Ban giám hiệu các nhà trường,  
các thầy cô giáo và các bạn học sinh đã nhiệt tình giúp đỡ, tạo điều kiện cho chúng  
em thực hiện đtài này.  
6
TÓM TẮT NỘI DUNG DỰ ÁN  
“Trầm cảm ở học sinh THPT – Thực trạng Giải pháp” một đề tài  
thuộc lĩnh vực hội và hành vi. Ý tưởng đề tài xuất phát từ một thực trạng đang  
rất “nóng” hiện nay, khi mà cứ vài tháng, thậm chí vài tuần chúng ta lại nghe được  
những thông tin đau lòng từ các phương tiện truyền thông về những vụ tự tử, mà  
đối tượng lại là các bạn học sinh THPT. Tại sao lại có tình trạng như vậy? Sau một  
thời gian tìm hiểu về vấn đề, chúng tôi đã tìm ra được một trong những nguyên  
nhân dẫn đến tự tử đó chính là bệnh Trầm Cảm. Vậy chúng ta cần làm gì giúp cho  
các bạn học sinh THPT vượt qua trầm cảm để những vụ việc đáng tiếc trên không  
tiếp tục gia tăng trong xã hội hiện đại? Từ cơ sở khoa học, cơ sở thực tiễn và các  
phương pháp nghiên cứu, đề tài hướng tới tìm ra thực trạng giải pháp giúp các  
bạn học sinh THPT giảm áp lực và suy nghĩ tích cực. Kết quả, đề tài đã chỉ ra tỉ lệ  
học sinh mắc trầm cảm, tác hại của trầm cảm và phân tích được nguyên nhân trong  
đó đặc biệt chú ý đến nguyên nhân do chính các bạn học sinh tự tạo áp lực cho  
mình. Qua đó đã đề xuất được ba nhóm giải pháp khả thi có khả năng ứng dụng  
trong thực tiễn. Đề tài thể hiện niềm đam mê nghiên cứu khoa học kĩ thuật và ý  
thức trách nhiệm trước một căn bệnh đang làm ảnh hưởng tới chất lượng cuộc sống  
của các bạn trẻ đặc biệt là các bạn học sinh THPT - những mầm xanh tương lai của  
đất nước.  
7
PHẦN I  
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ  
1.1. Lý do chọn đề tài  
Tôi là ai? Mục đích sống của tôi là gì? đây lẽ một câu hỏi gây hoang  
mang cho rất nhiều bạn học sinh trung học hiện nay. Có những ngày, tôi lang thang  
trong mớ cảm xúc hỗn độn, đi tìm cái gọi đam mê mà hàng ngàn hàng vạn bạn  
trẻ đang tìm kiếm để rồi tôi thấy mình nhỏ bé và bất tài. Tôi mệt mỏi với đống bài  
tập nhàm chán. Tôi hoang mang với kì thi THPT Quốc gia sắp diễn ra. Tôi bất lực  
với mọi thứ, đã có lúc tôi ước giá như mình chưa từng tồn tại. Tôi không hiểu  
cảm giác đó là gì? Tôi bị kéo theo những suy nghĩ đó một cách ngu ngốc trong một  
khoảng thời gian khá lâu. Cho đến một ngày, tôi đọc một bài báo nói về căn bệnh  
trầm cảm. Lúc đó, khái niệm về trầm cảm của tôi rất mơ hồ sự tò mò đã thôi  
thúc tôi tìm hiểu về đtài này.  
lẽ rằng trong tất cả chúng ta đều có lúc cảm thấy buồn bã, u tối nhưng để  
vượt qua cảm giác đó không phải là ai cũng thể làm được. Yếu đuối ư? Không  
hề. Trầm cảm giống như một sợi dây mà ta càng giãy thì càng bị siết chặt, càng cố  
thoát khỏi thì càng đau đớn. Trước khi qua đời, nam ca Hàn Quốc Jonghuyn đã  
viết một tâm thư gửi chị gái, trong đó đoạn: Bên trong tôi mọi thứ đã vỡ vụn.  
Căn bệnh trầm cảm gặm nhấm tôi một cách chậm rãi, cuối cùng cũng đã nuốt  
chửng tôi. Và tôi không thể nào đánh bại được nó. thể thấy rằng, không phải là  
họ không muốn thoát ra mà là không thể thoát ra được cái hố sâu vô hình ấy.  
Một số người cho rằng: trầm cảm một căn bệnh của người lớn. Nhưng hiện  
nay, rất nhiều nghiên cứu cho rằng trầm cảm diễn ra ở cả trẻ em và đặc biệt học  
sinh trung học. Theo các chuyên gia y tế và giáo dục, ở độ tuổi học sinh, do những  
thay đổi về hormone tăng trưởng trong giai đoạn dậy thì khiến khả năng kiềm chế  
tâm lý rất kém. Và đối với các bạn học sinh do phải chịu áp lực từ nhiều phía, nhiều  
sự thay đổi của đời sống nên gây ra rất nhiều biến đổi về mặt tâm, sinh lí. Đó là  
8
một loạt các trạng thái khác nhau như lo âu, chán nản, buồn bã, mệt mỏi, vọng,  
đơn… Không giống như tự sát, trầm cảm diễn ra không ngừng với cường độ  
thấp. Tự tử dấu chấm hết cho cuộc đời: chúng ta biết đến và nhìn thấy ngay lập  
tức.  
Ngày nay trầm cảm một trong những rối loạn tâm thần phổ biến và gia tăng  
thành xu hướng ở nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là các nước đang phát triển.  
Trầm cảm một vấn đề lớn cần được quan tâm đặc biệt là công tác chăm sóc sức  
khỏe cộng đồng. Trầm cảm chính là tiếng kêu khóc trong sự im lặng. Họ giằng xé,  
cào cấu bản thân một cách bất lực. người cho rằng, trầm cảm cũng giống như bị  
bóng đè. Mặc dù lí trí kêu gọi mình phải tỉnh táo nhưng cơ thể lại không thể cử  
động, không thể chống đỡ được, cảm thấy mình như bị giam cầm trong cái xác của  
chính mình. Những người bị trầm cảm sẽ không yêu cầu mọi người một cách trực  
tiếp nhưng lại người cần sgiúp đỡ nhất.  
Như vậy, trầm cảm âm thầm bào mòn con người, âm thầm cướp đi bạn bè,  
người thân và ảnh hưởng sâu sắc đến chất lượng cuộc sống như vui chơi học tập  
của các bạn học sinh trung học. Tuy nhiên, khi rơi vào tình trạng lập, ít ai cảm  
nhận được dấu hiệu của chúng. Thật khó để biết cách đối phó với trầm cảm, đặc  
biệt là khi nó kéo dài suốt một khoảng thời gian. Nên không phải ai cũng sự  
nhận thức đúng đắn về vấn đề này. Sự hiểu biết không đầy đủ về trầm cảm cũng có  
nguy cơ tăng mạnh đối với những cá nhân có dấu hiệu hoặc nguy cơ mắc trầm cảm  
từ trước đó. Học sinh có dấu hiệu trầm cảm nhưng không có hiểu biết về cách tự  
mình giải quyết hay cố tình lảng tránh đều thể dẫn đến những hậu quả nghiêm  
trọng. vậy, chúng tôi quyết định nghiên cứu đề tài này nhằm đưa ra một số giải  
pháp giúp học sinh trung học phổ thông thoát khỏi cái bóng của trầm cảm. Các bạn  
những người đặc biệt hơn người khác. Chúng tôi sẽ giúp bạn nhận ra được bạn  
đặc biệt ở chỗ nào và từ đó đưa bạn ra khỏi bóng tối bạn nghĩ sẽ không bao  
giờ thoát khỏi được.  
9
1.2. Câu hỏi nghiên cứu  
Học sinh trung học phổ thông cần làm gì để thoát khỏi bệnh trầm cảm? Làm thế  
nào để cảm hứng sống: sống hết mình với nhiệt huyết tuổi trẻ, với hoài bão và  
đam mê? Từ câu hỏi nghiên cứu chúng tôi đưa ra Slogan: “CHÁY HẾT MÌNH” và  
nghiên cứu đề tài trên các khía cạnh:  
- Thực trạng vấn đề: Tỉ lệ học sinh THPT mắc bệnh trầm cảm  
- Nguyên nhân  
- Hậu quả  
- Giải pháp  
1.3. Cơ sở thực hiện đề tài  
1.3.1. Cơ sở khoa học  
Để được một nền y học phát triển như hiện nay, chúng ta không thể không kể  
đến Hypocrate - người đặt nền móng cho nền y học hiện đại. Thuyết thể dịch - một  
nghiên cứu vĩ đại của ông lần đầu tiên trong lịch sử đã cất tiếng gọi tên thuật ngữ  
Trầm Cảm. Như vậy thể nói con người đã biết đến trầm cảm từ hàng nghìn  
năm trước. Ở thời Ai Cập cổ đại, đức vua Saul đã có các biểu hiện của trầm cảm  
như trong sách kinh Cựu Ước đã viết. Nhưng trong thời kì này mọi người tin rằng  
bệnh này do sự trừng phạt của Chúa trời nên các linh mục những vị thuốc trị liệu  
chính. Đến năm 120 -180 sau Công Nguyên, Aretaeus đưa ra khái niệm về trầm  
cảm nội sinh và trầm cảm ngoại sinh. Vào thế kỷ thứ 19, trầm cảm được xem là  
một sự yếu đuối về cá tính do sự di truyền học. Trong những thập niên 50-60, trầm  
cảm được chia làm 2 loại, nội tại thần kinh. Khi trầm cảm bắt nguồn từ bên  
trong cơ thể, thể do nguồn gốc từ gen hoặc căn thì được gọi loại nội tại.  
Còn trầm cảm do thần kinh là do các yếu tố ảnh hưởng từ thúc đẩy trực tiếp từ môi  
trường như do bị ức chế tinh thần nặng.  
Sang đến thập niên 70-80 các nhà nghiên cứu chuyển tập trung từ nguyên nhân  
sang ảnh hưởng của rối loạn trầm cảm đến người bệnh. Điều đó nghĩa những  
10  
nghiên cứu về nguyên nhân và ảnh hưởng của trầm cảm của những nhà chuyên  
môn là tương đối chính xác. Trên thực tế thì ngay từ hàng nghìn năm trước con  
người và các nhà khoa học phần xác định được hướng đi nhận định được tác hại  
vô cùng khủng khiếp của trầm cảm. Nhận ra được vấn đề cấp bách này đến năm  
1992, trầm cảm được các chuyên gia nghiên cứu hoàn thiện về khái niệm của căn  
bệnh và phân loại trong Bảng phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 của WHO. Mới  
nhất là trong hướng dẫn chẩn đoán thống kê các rối loạn tâm thần lần thứ 5 đã  
chỉ trầm cảm được phân vào nhóm rối loạn cảm xúc. Rối loạn cảm xúc được  
chia làm hai loại thường gặp hưng cảm (rối loạn lưỡng cực) trầm cảm có  
nghĩa là vui cực độ buồn cực độ. Qua hàng loạt các nghiên cứu từ hàng nghìn  
thế kỉ trước tuy vẫn nhiều ý kiến tranh cãi khác nhau về mặt y khoa nhưng hầu  
hết các nhà khoa học vẫn nhất trí đồng ý rằng: Rối loạn trầm cảm một hội chứng  
phản ánh tâm trạng buồn hoặc một nỗi khổ quá mức bình thường.  
Theo tổ chức y tế thế giới WHO thì trầm cảm được biết đến một chứng rối  
loạn sắc khí trong tâm thần học. Do hoạt động của bộ não rối loạn nên tạo nên bất  
thường trong hành vi và suy nghĩ. Cũng thể hiểu theo một khái niệm tương tự thì  
trầm cảm một biểu hiện của trạng thái ức chế trong tất cả các hoạt động của tâm  
thần cả thể chất. Đó chính là một trạng thái bị đè nén, kìm hãm do sự tiềm tàng  
phẫn uất ở trong lòng rất lâu không được giải phóng của tất các hoạt động tâm thần  
thể chất. Gây ra những cảm giác buồn phiền, căng thẳng mất hứng kéo dài  
dai dẳng. Do sự kìm nén ấy nên những người mắc bệnh luôn luôn cảm thấy buồn  
rầu mệt mỏi, cáu gắt cớ, luôn có những suy nghĩ tiêu cực về cuộc sống, chán  
ghét mọi thứ. Tình trạng này không gây ảnh hưởng nhỏ đến cuộc sống mà còn  
khiến cho cuộc sống của người bệnh trở nên vô nghĩa chỉ muốn thoát khỏi đi tìm  
cái chết để cứu bản thân mình. Cuộc sống của họ chỉ mang một màu trầm buồn,  
những cảm xúc tiêu cực trầm cảm gây ra như đám dây leo, bám rễ thật sâu vào  
11  
tâm hồn đang dần héo úa và hút cạn nguồn sinh lực cuối cùng họ. Nỗi buồn, sự thất  
vọng và chán nản cứ bám lấy, bủa vây họ mỗi ngày, mỗi giờ.  
hội ngày càng phát triển khiến cho những vấn đề bệnh lí còn nguy hiểm hơn  
cả. Suốt một năm 2017 dư luận hội đã dấy lên một hồi chuông báo động nguy  
cấp về tình trạng trầm cảm gia tăng và có xu hướng trẻ hóa. Dựa vào những nguyên  
nhân, hình thức và nguyên lí gây bệnh thì theo tổ chức y tế thế giới trầm cảm chia  
làm nhiều loại khác nhau: trầm cảm nặng, trầm cảm nhẹ, trầm cảm xuất hiện từng  
giai đoạn, trầm cảm tái diễn, trầm cảm nặng và tái diễn, trầm cảm mức độ nhẹ liên  
tục, trầm cảm di chứng của rối loạn khí sắc trầm cảm, rối loạn phân liệt cảm xúc.  
Trầm cảm nặng được phân chia thành 2 loại đó là không loạn thần với biểu hiện  
buồn thảm, ủ rũ, bi quan, chán nản loạn thần với những biểu hiện như hoang  
tưởng, ảo giác, ảo thanh xui khiến như: tự tử, giết người, không ăn, bỏ nhà và nhảy  
lầu là nguy hiểm nhất.  
Khác với trầm cảm nặng, trầm cảm nhẹ xuất hiện đơn độc về mức độ, không  
gây nên sự đau buồn trở ngại đối với hoạt động hàng ngày, thường kéo dài ít  
nhất 2 tuần, không có hiện tượng hoang tưởng, ảo giác.  
Trầm cảm xuất hiện từng giai đoạn: tái diễn nhiều đợt và có thể xen kẽ với giai  
đoạn hưng cảm. Giữa các giai đoạn trầm cảm hưng cảm thời kỳ khí sắc bình  
ổn hoàn toàn. Loại trầm cảm này còn được gọi bệnh loạn thần hưng trầm cảm. Tỉ  
lệ mắc bệnh ở nam nữ gần như nhau, sau tuổi trung niên thì giai đoạn trầm cảm  
thường xuất hiện nhiều hơn giai đoạn hưng cảm và kéo dài hơn.  
Trầm cảm tái diễn biểu hiện giống như loại trầm cảm nặng trầm cảm nhẹ đã  
nêu trên nhưng không xuất hiện đơn độc mà tái diễn nhiều đợt trong đời người.  
Giai đoạn trầm cảm kéo dài từ 3 - 12 tháng, trung bình 6 tháng. Bệnh thường khởi  
phát chậm, thường gặp ở độ tuổi từ 50. Phần lớn bệnh được phục hồi hoàn toàn và  
tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm loại này ở nữ ghi nhận gấp đôi nam.  
12  
Trầm cảm nặng và tái diễn gần giống như các bệnh trước kia gọi trầm cảm,  
trầm uất, loạn thần hưng trầm cảm, trầm cảm sinh thể, trầm cảm nội sinh. Trong  
đời, con người ít nhất thường có hai giai đoạn trầm cảm nặng hay nhẹ tái diễn, mỗi  
giai đoạn thường kéo dài trên 2 tuần, giữa hai giai đoạn trầm cảm phải một thời  
kỳ lành bệnh ít nhất 6 tháng.  
Trầm cảm mức độ nhẹ liên tục biểu hiện, đơn độc nhưng kéo dài, có khi gần hết  
tuổi thanh niên, gây nên sự đau buồn trở ngại cho sinh hoạt lao động, làm việc  
học tập của người bệnh. Bệnh thể nặng lên và tiến triển như rối loạn trầm  
cảm tái diễn hay xen kẽ với các giai đoạn hưng cảm. Nếu các giai đoạn trầm cảm  
hưng cảm xen kẽ nhau được gọi là khí sắc tuần hoàn; nếu mức độ khí sắc trầm,  
nhẹ, kéo dài thì gọi loạn khí sắc.  
Trầm cảm di chứng của các rối loạn khí sắc trầm cảm: biểu hiện đơn độc hoặc  
tái diễn nhưng mức độ nhẹ, không kéo dài gồm các trạng thái hỗn hợp trầm cảm và  
hưng cảm, trầm cảm ẩn, rối loạn xúc cảm khác không liên quan đến nghiện rượu,  
nghiện ma túy, rối loạn nội tiết hay rối loạn tâm thần thực tổn.  
Phân liệt cảm xúc: biểu hiện các triệu chứng phân liệt triệu chứng cảm xúc  
xuất hiện đồng thời, nổi bật như nhau. Lưu ý thể trầm cảm xuất hiện sau cơn loạn  
thần cấp tính của bệnh tâm thần phân liệt không xếp vào loại trầm cảm này. Các  
triệu chứng trầm cảm biểu hiện như đã nêu trên. Các triệu chứng phân liệt ở bệnh  
nhân biểu hiện ý nghĩ vang lên thành tiếng nói trong đầu, bị những lực lượng xa  
lạ nào đó điều khiển, mưu hại; nghe thấy những tiếng nói gièm pha, buộc tội mà  
thực tế không có... Phần lớn bệnh nhân được phục hồi hoàn toàn sau điều trị, một  
số ít trường hợp tiến triển thành thiếu sót phân liệt như thờ ơ với ngoại cảnh, có  
hành vi kỳ dị...  
Trầm cảm thể kéo dài hoặc tái phát nhiều lần, làm suy giảm đáng kể khả  
năng làm việc, khả năng tương tác đương đầu với cuộc sống. Trường hợp nặng nhất  
13  
thể dẫn tới tự tử. Ở mức độ nhẹ, bệnh thể chữa trị bằng nhiều cơ chế điều trị  
về tâm lí, dinh dưỡng …mà không cần dùng thuốc. Với mức độ vừa nặng thì có  
người bệnh thể kết hợp nhiều phương pháp vào cùng trị liệu như kết hợp điều trị  
tâm lí khoa học điều trị bằng thuốc.  
Như vậy căn bệnh trầm cảm trên thực tế nhiều loại khác nhau nên rất khó để  
người bệnh thể phát hiện nhận thức được các triệu chứng mình mắc phải có  
liên quan gì đến trầm cảm không. Dù cho mắc bệnh trầm cảm ở mức độ nào đi  
chăng nữa thì trong cơn bộc phát sẽ dẫn tới các hệ lụy vô cùng tàn khốc tồi tệ có  
thể tự tử hay sát hại người khác. Theo như công bố của Mỹ thì cứ 40 giây trôi  
qua lại một sinh mạng kết thúc do chính suy nghĩ và hành vi của mình dồn nén.  
Trầm cảm đáng sợ hơn ta tưởng. Theo như phát biểu của bác Tô Thanh  
Phương (Phó giám đốc Bệnh viện Tâm thần Trung ương I) thì “ Không có gì đau  
đớn bằng căn bệnh trầm cảm. Người bị bệnh trầm cảm chỉ muốn tìm đến cái chết.  
Thậm chí đau đớn như bệnh ung thư con người còn chịu đựng được chứ trầm cảm  
thì khó ai chịu đựng được ”  
1.3.2. Cơ sở thực tiễn  
Theo thông báo của tổ chức Y tế thế giới WHO thì tính đến năm 2020 trầm cảm  
căn bệnh đứng thứ hai trong số những căn bệnh phổ biến của thế giới sẽ là  
gánh nặng bệnh tật hàng đầu vào năm 2030. Hiện nay trung bình hàng năm thế giới  
khoảng trên 200 triệu người bị mắc bệnh trầm cảm, nghĩa mỗi quốc gia có từ  
3-5% dân số mắc phải, ở Việt Nam con số này là 2,8%. Trầm cảm một trong  
những nguyên nhân chính dẫn đến tsát 45% - 70% người tự sát do mắc bệnh trầm  
cảm và 15% người tử vong khi thực hiện hành vi tự sát đó. Theo số liệu thống ở  
Nhật Bản vào năm 2014 trung bình một ngày ở Nhật có 70 người tự sát trong đó  
1/3 trong số đó bị trầm cảm. Ở Việt Nam khoảng 4000 người tự sát mỗi năm do  
mắc bệnh trầm cảm. Trầm cảm thể gặp ở nhiều dân tộc, nhiều nơi tùy thuộc vào  
nhiều yếu tố như độ tuổi, nghề nghiệp, giới tính, trình độ, tính cách, môi trường xã  
14  
hội xung quanh…. Tỉ lệ trầm cảm ở trẻ em là từ 0,45% - 2,5%, tỉ lệ này còn rõ ràng  
hơn khi với trẻ vị thành niên là 0,4% - 8,3% trong đó từ 15% - 20% là bị trầm  
cảm nặng. Ở độ tuổi vị thành niên đặc biệt là các bạn đang học THPT thì đây chính  
thời cơ thuận lợi cho bệnh phát triển. Do trong độ tuổi này có nhiều biến đổi về  
thể chất và tinh thần, nên có nhiều biểu hiện lệch lạc trong hành vi và cách suy nghĩ  
chiếm đa số là suy nghĩ tiêu cực trầm cảm. Nếu không phát hiện sớm kịp  
thời chữa trị thì sẽ làm ảnh hưởng lớn đến chất lượng học tập, đến sức khỏe, giao  
tiếp sự phát triển của về thể chất tinh thần, tính cách của người mắc bệnh.  
Ở Nhật Bản, Kashani và Sherman (1998) nghiên cứu nhận thấy tần suất mắc  
trầm cảm từ 1-2% ở trẻ tiền dậy thì, từ 2-5% ở trẻ vị thành niên (Fleming và Offort,  
1990). Ở Đức, Essau và cộng sự nghiên cứu 1035 học sinh từ độ tuổi từ 12-17 thì  
17,9% bị trầm cảm. Còn ở Mĩ, đối với Jackson và Lurie (2006) thì theo nghiên cứu  
ở tuổi vị thành niên có 20-25% bạn mắc ít nhất một giai đoạn của trầm cảm. Một số  
nghiên cứu khác còn cho thấy tần xuất mắc trầm cảm ở bạn gái từ 13-17 tuổi cao  
hơn các bạn nam. Nhưng khi các bạn nam mắc phải trầm cảm thì có nguy cơ tự sát  
cao hơn các bạn nữ. Nguyên nhân ban đầu được các nhà tâm lí học cho rằng các  
bạn nam không dám chia sẻ, tâm sự, thể hiện nỗi buồn, sự mệt mỏi chán nản của  
mình với ai khác do định kiến “phái mạnh” thì phải mạnh mẽ luôn kiểm soát được  
cảm xúc của mình nên đã khiến cho các bạn nam giấu mình đi để cho trầm cảm  
gặm nhấm suy nghĩ của mình.  
Tại Việt Nam, theo tiến sĩ bác Hoàng Cẩm đã tiến hành nghiên cứu về  
chứng rối loạn hành vi, cảm xúc của trẻ em và trẻ vị thành niên ở một số tỉnh ở Hà  
Nội cho thấy 2,2% trẻ em và trẻ vị thành niên từ 4-18 tuổi mắc chứng lo âu và trầm  
cảm. Giáo sư tiến sĩ Nguyễn Đạt nghiên cứu về rối loạn trầm cảm một số  
hành vi tâm lí hội liên quan đến học sinh trung học phổ thông khu vực Nội  
cho biết là 18,8% là biểu hiện rối loạn trầm cảm, 9,9% khẳng định bị trầm cảm.  
Kết quả nghiên cứu của BV tâm thần ban ngày (Hà Nội) với trên 1.200 học sinh ở  
15  
Nội (bậc tiểu học và THCS), có gần 19,4% học sinh có vấn đề sức khỏe tâm  
thần chung, trong số các ca tự sát có 10% ở lứa tuổi t10 đến 17.  
Theo cách nhìn tổng quan qua các thí nghiệm khảo sát thực tế ở một số địa bàn  
như trên cho thấy: các nhà khoa học, bác sĩ tiến sĩ khoa tâm lí đã đưa ra những  
đánh giá về tỉ lệ mắc bệnh trầm cảm nhưng chưa đưa ra được con số cụ thể chính  
xác về số ca mắc trầm cảm ở tuổi vị thành niên. Vì điều kiện về địa điểm, công cụ  
và tiêu chí đánh giá khai thác thực tế khác nhau nên giữa các con số xuất hiện sự  
chênh lệch. Nhưng đó chính là cơ sở nền tảng để xây dựng nên những tiêu chí đánh  
giá cụ thể và chính xác hơn.  
Qua hàng loạt những con số chắc hẳn đã gợi ra cho mỗi người những suy nghĩ  
phần nào nhận thức được sự nguy hại của căn bệnh ghê gớm này. Tuy nhiên  
thực tế hiện nay có thể trả lời rằng hiểu biết của mọi người trong xã hội, của nhà  
trường và các bậc phụ huynh nhất nông thôn còn hạn chế. Thậm chí mọi người  
còn tỏ ra rất thờ ơ coi thường căn bệnh, cho rằng đây một bệnh không vấn đề gì,  
cỏn con có thể chữa triệt để bằng thuốc nên không cần lo lắng hay biết về chứng rối  
loạn trầm cảm. thể nói đây một vấn đvô cùng nguy hiểm đến chính bản thân  
người mắc bệnh cả chính những người xung quanh khi mọi người “quá hạn hẹp”  
về kiến thức trầm cảm. dụ như ở thành phố Hồ Chí Minh có một gia đình khi  
con bị trầm cảm giai đoạn cuối dẫn đến có hành vi tự tử mới phát hiện đưa con  
đi chữa trị. Theo lời kể của người mẹ thì gia đình làm kinh doanh buôn bán nên đa  
số không có thời gian dành cho con và cũng không có mấy khi tìm hiểu hay để tâm  
đọc báo về trầm cảm. Nên khi con nói thường xuyên đau đầu, mệt mỏi, mất ngủ…  
cũng không để tâm lắm, coi đó một chuyện bình thường. Những câu chuyện bi  
thương do trầm cảm gây ra như giết hại những người thân trong gia đình hoặc phá  
hại của cải… không phảo hiếm trong xã hội hiện nay. Bao nhiêu câu chuyện do  
bế tắc trong cuộc sống khiến bản thân người mắc bệnh đi tìm con đường kết thúc  
đời mình để buông xuôi giải tỏa mọi thứ bởi không phả ai cũng thể tự mình vượt  
qua.  
16  
Thực tế đó đã thôi thúc chúng tôi tiến hành điều tra, khảo sát và trực tiếp phỏng  
vấn các bạn học sinh THPT nhất là trong khu vực tỉnh Hải Dương để tìm hiểu học  
sinh THPT có bị trầm cảm hay không? (Dựa trên phân loại các biểu hiện trầm cảm  
của tổ chức y thế giới). Mắc bệnh ở mức độ nào?... Để từ đó đưa ra những cảnh báo  
sớm và cung cấp những kiến thức cơ bản về trầm cảm để giúp cho mọi người trong  
hội hiểu biết hơn về căn bệnh trầm cảm, đặc biệt các bạn học sinh THPT tự  
mình điều chỉnh cảm xúc để vượt qua căn bệnh trầm cảm bởi các nhà khoa học đã  
khẳng định trầm cảm thể chữa khỏi nếu được phát hiện sớm.  
1.4. Mục tiêu nghiên cứu  
Xuất phát từ chính bản thân: Chính mình cũng cảm thấy chông chênh, bất an,  
cảm thấy bất lực khi bước vào tuổi mới lớn, phải chọn lựa lối đi cho riêng mình.  
Bản thân cũng chưa kiểm soát được cảm xúc, hành vi của mình. Đôi khi chính  
mình đang tự gây nên áp lực cho mình.  
Xuất phát từ thực tế: Nhìn lại bản thân và nhìn ra cuộc sống, thấy rất nhiều bạn  
trẻ hiện nay sống còn chưa thoáng. Đôi lúc còn suy nghĩ tiêu cực, luôn cho rằng  
sống một việc rất khó khăn. Những áp lực được gọi là “áp lực tự áp đặt” của các  
bạn học sinh là một điều khiến chúng tôi suy ngẫm.  
Mục đích nghiên cứu của dự án: Tìm ra các giải pháp thiết thực, có tính khả thi  
nhằm giúp các bạn học sinh THPT giảm bớt những căng thẳng khi bị mọi người  
trong xã hội, bản thân mình tự áp đặt cho mình. Từ đó giúp các bạn sống đúng với  
độ tuổi kiểm soát hành vi của mình, sống hết mình với tuổi trẻ, với đam mê. Đặc  
biệt là các bạn học sinh bị trầm cảm nhẹ thể điều chỉnh cảm xúc để không bị  
trầm cảm tái phát. Các bạn bị trầm cảm nặng cải thiện được tình trạng của mình để  
không dẫn đến hậu quả đáng tiếc.  
1.5. Ý nghĩa khoa học thực tiễn  
17  
Đề tài nhằm cung cấp những kiến thức cơ bản về căn bệnh trầm cảm, giúp  
cho mọi người trong xã hội những hiểu biết về căn bệnh trầm cảm. Chúng tôi  
coi đây một tài liệu khoa học phổ cập nhằm tuyên truyền phổ biến những kiến  
thức về trầm cảm hướng tới nhiều đối tượng trong xã hội dễ tiếp cận hơn so với  
các tài liệu khoa học chuyên sâu của các nhà khoa học thuộc các lĩnh vực y học và  
tâm lý học.  
Đề tài nhằm đóng góp giải pháp nâng cao chất lượng các môn học, mở ra các  
phòng tham vấn học đường, các trang mạng hội để tâm sự giữa các bạn học sinh,  
góp phần xây dựng một thế hệ học sinh Việt hòa đồng, sôi nổi, lối sống văn  
minh, lành mạnh, giảm thiểu những suy nghĩ tiêu cực không đáng có.  
Đề tài giúp cho các bạn học sinh THPT cảm thấy thích thú, yêu thích việc  
đến trường, việc được đi học và trân trọng cơ hội được sống của bản thân. Qua đó,  
đưa ra một số đề xuất cho các bậc phụ huynh, các trường THPT… quan tâm, giúp  
đỡ, uốn nắn cũng như phát hiện sớm được những thay đổi hằng ngày của các bạn  
học sinh để không xảy ra những sự việc hay hậu quả đáng tiếc do trầm cảm gây ra.  
1.6. Giới hạn phạm vi nghiên cứu  
Với khả năng của độ tuổi, nhóm tác giả chúng tôi chỉ tập nghiên cứu thực  
trạng bị trầm cảm của các bạn học sinh THPT, khoảng từ 15 đến 18 tuổi- những  
bạn cùng lứa tuổi với chúng tôi.  
1.7. Phương pháp nghiên cứu  
Để nghiên cứu đề tài, nhóm tác giả đã sử dụng những phương pháp chủ yếu sau:  
Thu thập thông tin (qua quan sát thực tiễn lấy tư liệu thông tin cùng hình  
ảnh trên các phương tiện thông tin đại chúng).  
Điều tra, thăm dò ý kiến, lấy số liệu.  
Thống số liệu, đối chiếu, phân tích.  
18  
1.8. Tính sáng tạo của đề tài  
Trầm cảm thể nói là đề tài chưa bao giờ cũ. Bởi cho dù có rất nhiều công  
trình nghiên cứu, các liệu pháp tâm lý, các loại thuốc của những nhà khoa học  
thuộc lĩnh vực y học, tâm lý học…dùng để chữa trị bệnh đã hiệu quả. Nhưng số  
người mắc bệnh, độ tuổi mắc bệnh vẫn tiếp tục gia tăng trẻ hóa. Chính vì vậy  
chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu đề tài này trong phạm vi hẹp đó trầm cảm ở  
học sinh THPT độ tuổi từ 15 đến 18 tuổi. Hướng tiếp cận, giải đề xuất giải  
pháp của một nhóm tác giả có cùng độ tuổi với đối tượng nghiên cứu.  
Một điều đặc biệt nữa của dự án chính là chúng tôi đi sâu tìm hiểu một  
nguyên nhân gây ra căn bệnh trầm cảm chính là do bản thân các bạn học sinh tự tạo  
áp lực cho chính mình. Chúng ta thường cho rằng trầm cảm là do những yếu tố bên  
ngoài tác động như: áp lực từ sự vọng của gia đình, bạn bè, áp lực học tập thi cử  
,… Thế nhưng ít ai để ý rằng áp lực lớn nhất tác động lên lại là chính bản thân.  
Trong mỗi chúng ta dù là tôi hay là bạn đều lấp ló trong mình sự đố kỵ với người  
khác, sự nghi ngờ khả năng của bản thân cho rằng mình bất tài, mình không thể  
làm được... Những suy nghĩ đó đang điều khiển chúng ta khiến chúng ta quay  
cuồng nhưng chúng ta lại không thử làm, không dám làm và không hành động....  
Chúng tôi muốn thông qua vấn đề tâm lí học đường này để các bạn học sinh THPT  
thay đổi quan niệm sống để sống có trách nhiệm với chính mình và ý nghĩa với  
cuộc đời.  
19  
PHẦN II  
KẾT QUẢ THẢO LUẬN  
2.1. Tỉ lệ học sinh mắc trầm cảm  
Qua khảo sát thực tế ở hơn 1000 học sinh trung học phổ thông khu vực Kinh  
Môn- Hải Dương, khu vực Mạo Khê- Quảng Ninh bao gồm: Trường THPT Nhị  
Chiểu, trường THPT Quang Khải trường THPT Kinh môn II và Trung tâm giáo  
dục thường xuyên Kinh Môn, THPT Đông Triều- Quảng Ninh các khối lớp 10,  
11 và 12 về vấn đề biến đổi tâm lí trong tuổi dậy thì. Nhóm thực hiện chúng tôi đã  
rất bất ngờ về con số những bạn đã đang mắc trầm cảm lên tới gần 31,65%. Số  
những bạn không mắc trầm cảm là 69,35%. Điều đáng ngại ở đây là con số này sẽ  
ngày càng có xu hướng tăng nhanh.  
31,65%  
Đã đang bị trầm cảm  
Chưa bị trầm cảm  
69,35%  
Hình 2.1: Biểu đồ tỉ lệ học sinh THPT mắc bệnh trầm cảm  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
docx 69 trang yennguyen 31/03/2022 7700
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Trầm cảm ở học sinh Trung học phổ thông: Thực trạng và giải pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxbao_cao_tram_cam_o_hoc_sinh_trung_hoc_pho_thong_thuc_trang_v.docx