Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi

Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 11 - 2021  
ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN CÓ HÀM LƯỢNG PROTEIN  
KHÁC NHAU LÊN TĂNG TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ LÓC  
(Channa striata) GIAI ĐOẠN 10 ĐẾN 40 NGÀY TUỔI  
Trần Ngọc Tuyền1* Nguyễn Văn Triều2  
1Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô  
2Khoa Thủy sản, Trường Đại học Cần Thơ  
(*Email: tntuyen@tdu.edu.vn)  
Ngày nhận: 17/10/2020  
Ngày phản biện: 19/11/2020  
Ngày duyệt đăng: 20/02/2021  
TÓM TẮT  
Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu đánh giá ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng  
protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa striata) giai đoạn 10  
đến 40 ngày tuổi. Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 5 nghiệm thức, mỗi  
nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Cá lóc (73,4±6,22 mg) được ương trong bể composite 35 lít  
nước với mật độ 2 con/lít trong thời gian 30 ngày. Trong thí nghiệm này, thức ăn tương  
ứng với 5 hàm lượng protein (30%, 35%, 40%, 45% và 50%) được thử nghiệm. Các chỉ  
tiêu được ghi nhẫn gồm: tăng trưởng khối lượng, tỷ lệ sống, hệ số thức ăn và hiệu quả sử  
dụng protein. Kết quả cho thấy tỷ lệ sống của cá không bị ảnh hưởng bởi hàm lượng  
protein trong thức ăn. Tăng trưởng hàng ngày của cá nhanh nhất ở 45% protein và khác  
biệt có ý nghĩa giữa các nghiệm thức. Ngoài ra, chỉ số FCR đạt thấp nhất ở nghiệm thức cá  
ăn thức ăn mức protein 45%. Bên cạnh đó, hiệu quả sử dụng protein cũng đạt cao nhất ở  
nghiệm thức cá ăn thức ăn mức protein 45%. Như vậy, ương cá lóc giai đoạn cá 10 ngày  
tuổi đến 40 ngày tuổi thì thức ăn chứa 45% protein lả thích hợp nhất.  
Từ khóa: Hàm lượng protein, tăng trưởng, thức ăn, tỷ lệ sống  
Trích dẫn: Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2021. Ảnh hưởng của thức ăn có hàm  
lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa  
striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi. Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát  
triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô. 11: 241-251.  
*Ths. Trần Ngọc Tuyền – Giảng viên Khoa Sinh học ứng dụng, Trường Đại học Tây Đô  
241  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 11 - 2021  
nghiên cứu xác định thức ăn có hàm lượng  
protein phù hợp cho sự tăng trưởng, tỷ lệ  
sống của cá lóc là vấn đề rất cấp thiết.  
1. GIỚI THIỆU  
Các lóc là một trong những loài cá  
đồng được đánh giá có giá trị kinh tế cao.  
Cá lóc có đặc điểm dễ nuôi, cá có khả  
Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác  
năng chịu đựng tốt với điều kiện khắc định thức ăn có hàm lượng protein phù  
nghiệt của môi trường và có giá trị dinh hợp cho sự tăng trưởng và tỷ lệ sống của  
dưỡng cao. Cá lóc là loài ăn tạp, sử dụng cá lóc giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi. Từ  
được các phế phẩm nông nghiệp, chính các kết quả đạt được của đề sẽ tài góp  
những đặc điểm trên nên cá lóc đã trở phần bổ sung thêm một số thông tin kỹ  
thành đối tượng được nhiều người nuôi thuật về ương cá lóc, đồng thời giúp người  
quan tâm (Dương Nhựt Long et al., 2014). ương cá chủ động chọn loại thức ăn cho  
Bên cạnh những thuận lợi nêu trên thì hiện cá nhằm giảm chi phí đầu tư.  
nay nghề sản xuất và nuôi cá lóc cũng  
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU  
đang gặp phải một số khó khăn như: chất  
Nghiên cứu được thực hiện tại trại sản  
xuất giống thủy sản phường Phú Thứ,  
quận Cái Răng, thành phố Cần Thơ. Thí  
nghiệm được tiến hành trên hệ thống bể  
composite có thể tích 35 L/bể và được đặt  
trong nhà có mái che và sục khí liên tục.  
lượng con giống hàng năm chưa đảm bảo,  
chưa chủ động đáp ứng cho người nuôi;  
dịch bệnh ngày càng tăng; hệ thống ao  
nuôi chưa hoàn thiện, thiếu ao chứa, ao xử  
lý nước thải dẫn đến tình trạng ô nhiễm  
môi trường nước, giá thức ăn tăng, hiệu  
quả ương nuôi còn thấp… Hiện nay có rất  
nhiều nghiên cứu về dinh dưỡng của cá  
lóc như: xác định nhu cầu duy trì, hiệu  
quả sử dụng protein và năng lượng (Ngô  
Minh Dung và Trần Thị Thanh Hiền,  
2017); nghiên cứu khả năng tiêu hóa  
nguồn nguyên liệu protein của cá (Ngô  
Minh Dung và trần Thị Thanh Hiền,  
2017); nghiên cứu sự biến đổi về hoạt tính  
enzyme tiêu hóa của ống tiêu hóa ở cá  
(Ngô Minh Dung và ctv., 2017)… Tuy  
nhiên, chưa có tài liệu công bố về ảnh  
hưởng của hàm lượng protein khác nhau  
trong thức ăn lên tăng trưởng và tỷ lệ sống  
của cá lóc giai đoạn cá bột lên giai đoạn  
cá hương. Trong hoạt động nuôi thủy sản,  
thức ăn chiếm tỷ lệ cao trong tổng chi phí  
chung từ 50-80% (Trần Thị Thanh Hiền  
và Nguyễn Anh Tuấn, 2019), do đó việc  
2.1. Bố trí thí nghiệm  
Cá lóc dùng để thí nghiệm khoảng 10  
ngày tuổi, khối lượng trung bình là  
73,4±6,22 mg/con. Thí nghiệm được bố trí  
hoàn toàn ngẫu nhiên gồm 05 nghiệm thức  
cho cá ăn với 5 loại thức ăn có mức  
protein khác nhau, mỗi nghiệm thức được  
lặp lại 03 lần. Cá được thả ương với mật  
độ 2 con/L trong thời gian 30 ngày.  
2.2. Thức ăn thí nghiệm  
Thức ăn sử dụng trong suốt thời gian  
thực hiện thí nghiệm là thức ăn viên nổi  
cỡ 0,6 mm và chuyên dùng cho cá có vẩy.  
Thành phần hóa học của các loại thức ăn  
dùng để thí nghiệm được trình bày ở Bảng  
1.  
242  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Bảng 1. Thành phần hóa học của thức ăn dùng để ương cá lóc  
Số 11 - 2021  
Tỷ lệ phần trăm (%)  
Thức ăn  
Protein  
30  
Lipid  
8,00  
Xơ  
Độ ẩm  
Loại 1: 30%  
protein  
Loại 2: 35%  
protein  
Loại 3: 40%  
protein  
Loại 4: 45%  
protein  
Loại 5: 50%  
protein  
7,00  
11,0  
8,00  
8,00  
8,00  
8,00  
35  
40  
45  
50  
7,00  
7,00  
7,00  
7,00  
11,0  
11,0  
11,0  
11,0  
cân khối lượng cá để đánh giá ảnh  
hưởng của thức ăn công nghiệp có hàm  
lượng protein khác nhau lên cá lóc. Các  
kết quả được ghi nhận bao gồm: tăng  
trưởng khối lượng của cá, tỷ lệ sống, hệ  
số thức ăn (FCR) và hiệu quả sử dụng  
protein (PER).  
2.3. Chăm sóc và quản lý  
Cá được cho ăn thỏa mãn nhu cầu  
(khoảng 10-12 %/khối lượng thân/ngày)  
và cho ăn 4 lần trong ngày vào các thời  
điểm 7 giờ, 11 giờ, 15 giờ và 19 giờ.  
Thức ăn thừa được siphon sau khi cá ăn  
no ở mỗi lần cho ăn. Trong quá trình thí  
nghiệm, nước trong hệ thống bể ương cá  
được thay 1 lần/ngày vào mỗi buổi sáng  
và thay khoảng 1/3 thể tích nước trong  
mỗi bể.  
Tăng trưởng khối lượng (Weight  
Growth-WG)  
WG (mg) = Wc - Wđ  
Tốc độ tăng trưởng khối lượng theo  
ngày (Daily Weight Growth-DWG)  
2.4. Ghi nhận các kết quả  
Chỉ tiêu về môi trường: Các yếu tố  
như nhiệt độ và pH được ghi nhận 2  
lần/ngày (lúc 6 giờ và 14 giờ). Đối với  
nhiệt độ nước, dùng nhiệt kế để đo; đối  
với pH nước sử dụng bộ test pH (Sera)  
để xác định.  
DWG (mg/ngày) = (Wc - Wđ)/T  
Tỷ lệ sống (Survival Rate, SR)  
SR (%) = (Số cá thu được/Số cá thả  
ương) x 100  
Hệ số thức ăn (Feed Convertion  
Chỉ tiêu tăng trưởng và tỷ lệ sống:  
Trước khi bố trí thí nghiệm, thu ngẫu  
nhiên 30 cá thể để xác định khối lượng  
trung bình. Khối lượng cá được xác định  
bằng cân điện tử. Kết thúc thí nghiệm,  
Ratio, FCR)  
FCR = Khối lượng thức ăn sử  
dụng/Khối lượng cá gia tăng  
Hiệu quả sử dụng protein (PER):  
thu toàn bộ số lượng cá ở các bể ương và Chỉ số này là khối lượng động vật thủy  
243  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 11 - 2021  
sản tăng lên trên một đơn vị khối lượng bằng cách phân tích ANOVA một nhân  
protein ăn vào. Chỉ số PER phản ánh tố và phép thử LSD. Phân tích thống kê  
được chất lượng các loại thức ăn có mức được thực hiện bằng phần mềm  
protein khác nhau khi được chế biến Statistica 5.0.  
cùng nguồn nguyên liệu protein.  
3. KẾT QUẢ THẢO LUẬN  
PER = (Wc-Wđ)/% Protein trong thức  
3.1. Các yếu tố môi trường thí  
ăn  
nghiệm  
Chú thích: Wđ và Wc lần lượt là khối  
lượng của cá lúc thả và lúc thu (mg)  
Các yếu tố môi trường nước như nhiệt  
độ và pH quá cao hoặc quá thấp sẽ ảnh  
T là thời gian thực hiện thí nghiệm hưởng bất lợi đến tăng trưởng và phát  
(ngày).  
triển của hầu hết các loài cá nuôi. Tuy  
nhiên, các yếu tố môi trường nước thích  
hợp và ít biến động sẽ giúp cho cá tăng  
trưởng nhanh và ít bệnh. Trong suốt thời  
gian thí nghiệm, các yếu tố môi trường  
nước giữa các nghiệm thức tương đối ổn  
định và được thể hiện ở Bảng 2.  
2.5. Phương pháp xử lý số liệu  
Các số liệu về tăng trưởng của cá, tỷ  
lệ sống, hệ số thức ăn và hiệu quả sử  
dụng protein được tính toán giá trị trung  
bình, độ lệch chuẩn và so sánh sự khác  
biệt giữa trung bình các nghiệm thức  
Bảng 2. Biến động nhiệt độ, pH trong hệ thống thí nghiệm ương cá lóc  
Hàm lượng protein (%)  
Chỉ tiêu Buổi  
30  
35  
40  
45  
50  
Nhiệt độ  
Sáng 25,2±0,03 25,1±0,01 25,1±0,03 25,2±0,04  
Chiều 29,4±0,17 29,3±0,09 29,5±0,14 29,4±0,15  
Sáng 7,64±0,01 7,66±0,02 7,63±0,03 7,64±0,06  
Chiều 7,83±0,04 7,85±0,07 7,87±0,05 7,83±0,06  
25,1±0,02  
29,3±0,05  
7,66±0,04  
7,85±0,09  
(oC)  
pH  
Ghi chú: Số liệu được trình bày dạng số trung bình ± độ lệch chuẩn  
Từ số liệu ghi nhận ở Bảng 2 cho oC. Như vậy, với giá trị nhiệt độ ghi  
thấy, nhiệt độ nước trong hệ thống bể nhận được (Bảng 2) trong quá trình thí  
ương cá tương đối ổn định và chênh lệch nghiệm hoàn toàn phù hợp cho sự phát  
không đáng kể giữa các nghiệm thức. triển của cá lóc.  
Nhiệt độ trung bình trong ngày dao động  
Trong quá trình thí nghiệm, pH giữa  
o
o
25,1±0,01 C đến 29,5±0,14 C. Theo  
Dương Nhựt Long và ctv., (2014), cá lóc  
sống và phát triển tốt ở nhiệt độ từ 25-30  
các nghiệm thức tương đối ổn định và  
chênh lệch không đáng kể. Chất nước có  
pH dao động trong khoảng 7,63 ±0,03  
244  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 11 - 2021  
đến 7,87±0,05 (Bảng 2). Theo Nguyễn  
Phú Hòa, (2014), khoảng pH thích hợp  
cho sự phát triển của cá thường dao  
động từ 6,50-9,00. Như vậy, với các giá  
trị pH nước ghi nhận được (Bảng 2) đều  
phù hợp cho sự phát triển của cá.  
3.2. Ảnh hưởng của thức ăn lên  
tăng trưởng về khối lượng của cá  
Kết quả tăng trưởng về khối lượng  
của cá lóc được ghi nhận ở Bảng 3.  
Bảng 3. Tăng trưởng khối lượng của cá lóc  
Nghiệm thức  
(% protein)  
NT1: 30  
NT2: 35  
NT3: 40  
Wđ  
(mg)  
Wc  
(mg)  
WG  
(mg)  
DWG  
(mg/ngày)  
73,4 ± 5,31  
73,4 ± 5,31  
73,4 ± 5,31  
73,4 ± 5,31  
73,4 ± 5,31  
1.934 ± 6,08  
2.364 ± 5,51  
2.728 ± 4,51  
3.152 ± 3,51  
2.859 ± 4,04  
1.861 ± 6,08a  
2.291 ± 5,51b  
2.655 ± 4,51c  
3.079 ± 3,51e  
2.786 ± 4,04d  
62,0 ± 0,20a  
76,4 ± 0,18b  
88,5 ± 0,15c  
103 ± 0,12e  
92,9 ± 0,13d  
NT4: 45  
NT5: 50  
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về  
thống kê (p< 0,05). Wđ: Khối lượng cá ban đầu; Wc: Khối lượng cá khi kết thúc thí  
nghiệm; WG: Tăng trưởng khối lượng; DWG: Tốc độ tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng.  
Tăng trưởng khối lượng của cá lóc liệu ở Bảng 3 khẳng định, khi ương cá  
tăng dần từ nghiệm thức 1 (30% lóc giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi thì tốc  
protein) đến nghiệm thức 4 (45% độ tăng trưởng khối lượng của cá tăng  
protein). Tốc độ tăng trưởng khối lượng khi hàm lượng protein trong thức ăn  
tuyệt đối theo ngày (DWG) của cá đạt tăng từ 30-45% và tốc độ tăng trưởng  
cao nhất (103 mg/ngày) ở nghiệm thức khối lượng của cá tăng trưởng chậm lại  
cá được cho ăn thức ăn chứa 45% khi được cung cấp thức ăn vượt quá nhu  
protein và khác biệt có ý nghĩa thống kê cầu protein của cá lóc (50% protein).  
(p<0,05) so với khối lượng cá ở bốn  
Theo Ngô Minh Dung và Trần Thị  
nghiệm thức còn lại (Bảng 3). Ở nghiệm  
Thanh Hiền (2017), cá lóc có khối  
thức thức ăn chứa 50% protein thì tốc  
lượng 37,9-38,2g được ương với 5  
độ tăng trưởng khối lượng (DWG) của  
nghiệm thức cho cá ăn với các khẩu  
cá lóc đạt 92,8 mg/ngày, cao hơn có ý  
phần: 0% (NT1); 0,75% (NT2); 1,5%  
nghĩa (p<0,05) so với các nghiệm thức  
(NT3); 2,25% (NT4) và 3,0% (NT5)  
trong thời gian 28 ngày. Kết quả, ở  
nghiệm thức cá bị bỏ đói thì khối lượng  
30, 35 và 40% protein nhưng lại thấp  
hơn 1,11 lần so với nghiệm thức 45%  
protein. Như vậy, thức ăn có hàm lượng  
giảm 0,13 g/ngày. Tuy nhiên, tốc độ  
protein quá cao (50% protein) đã làm  
tăng trưởng về khối lượng của cá tăng  
giảm tốc độ tăng trưởng của cá lóc. Số  
dần khi tăng khẩu phần thức ăn cho cá.  
245  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 11 - 2021  
Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối lượng protein của cá ở các giai đoạn  
theo ngày của cá lóc dao động từ 0,20- khác nhau và tối ưu hóa hàm lượng  
0,93 g/ngày và giá trị này khác biệt có ý protein trong thức ăn của cá là yếu tố rất  
nghĩa thống kên (p<0,05) giữa các cần thiết. Nhu cầu protein được định  
nghiệm thức.  
nghĩa là lượng protein tối thiểu mà  
nhằm thỏa mãn các nhu cầu acid amin  
để đạt tăng trưởng tối đa (NRC, 1983).  
Tương tự, ở một số loài cá khác ăn  
thiên về động vật như: cá lăng vàng  
(Mystus nemurus) (Khan et al., 1993);  
Cá lóc có đặc tính ăn tạp, thức ăn chủ  
cá trê trắng (Clarias batrachus) yếu là động vật. Trong tự nhiên, cá trê  
(Meenakshi Jindal, 2011); cá kết ăn côn trùng, giun đất, tôm, cua, cá…  
(Micronema bleekeri) (Nguyễn Văn Ngoài ra, ở điều kiện nuôi trong ao, cá  
Triều và ctv., 2014) cũng đã khẳng định lóc có thể ăn các phụ phẩm từ trại chăn  
cá kết tăng trưởng chậm lại khi hàm nuôi, nhà máy chế biến thủy sản, chất  
lượng protein trong thức ăn trên 49%. thải từ lò mổ (Dương Nhựt Long, 2004).  
Cá kết có khối lượng 269±28,9 mg được Kết quả thí nghiệm ương cá lóc với các  
ương với các loại thức ăn có hàm lượng hàm lượng protein khác nhau cho thấy,  
protein tăng dần 24%, 29%, 34%, hàm lượng protein phù hợp cho sự tăng  
39%,44%, 49% và 54%. Kết quả, tăng trưởng của cá lóc là 45%. Nhu cầu  
trưởng khối lượng của cá tăng từ 16,3- protein trong thức ăn của cá thay đổi tùy  
41,9 mg/ngày khi cá được cho ăn mức theo loài, theo giai đoạn phát triển, đặc  
protein 24-49% nhưng tăng trưởng của điểm dinh dưỡng của cá (Trần Thị  
cá chậm lại (20,5 mg/ngày) khi cá được Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn,  
cho ăn thức ăn chứa 54% protein.  
2009). Một số loài cá khác có tập tính ăn  
động vật cũng có nhu cầu protein tương  
tự cá lóc, bao gồm: cá trê vàng Clarias  
macrocephalus) cỡ 18,1 mg là 40,0%  
(Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn  
Triều, 2017); cá kết (Micronema  
bleekeri) cỡ 269 mg là 43,2% (Trần  
Ngọc Tuyền, 2008) hoặc cá trê  
Heterobranchus longifilis là 45%  
(Olufeagba et al., 2002).  
Khi sử dụng thức ăn với hàm lượng  
protein thấp chưa đáp ứng nhu cầu thì  
cá sẽ tăng trưởng chậm. Trái lại, cho cá  
ăn thức ăn chứa lượng protein cao vượt  
quá nhu cầu cần thiết, sẽ rất lãng phí (Lê  
Thanh Hùng, 2008). Hàm lượng protein  
trong thức ăn là yếu tố quyết định đến  
tốc độ tăng trưởng của cá, giá thành và  
hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất  
giống. Vì vậy, việc xác định được hàm  
246  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Bảng 4. Khối lượng trung bình và hệ số biến động CV của cá lóc  
Số 11 - 2021  
Nghiệm thức  
Khối lượng  
Độ lệch  
Hệ số  
(% protein)  
trung bình (mg)  
về khối lượng  
CV  
NT1: 30  
1.934  
2.364  
2.728  
3.152  
2.859  
6,08  
5,51  
4,51  
3,51  
4,04  
0,0031  
0,0023  
0,0017  
0,0011  
0,0014  
NT2: 35  
NT3: 40  
NT4: 45  
NT5: 50  
(CV- Hệ số biến động: tỷ lệ giữa độ lệch và khối lượng của cá)  
Khối lượng của cá lúc kết thúc thí  
Tóm lại, khi ương cá lóc với thức ăn  
nghiệm (Bảng 4) dao động trong khoảng chứa hàm lượng protein khác nhau thì sự  
1.934-3.152 mg/con và có sự khác biệt phân hóa sinh trưởng cũng khác nhau.  
giữa 5 nghiệm thức. Cá đạt khối lượng Hàm lượng protein trong thức ăn đã ảnh  
thấp nhất ở nghiệm thức 30% protein và hưởng đến sự tăng trưởng của cá, hàm  
cao nhất ở nghiệm thức 45% protein. Hệ lượng protein thấp hoặc cao vượt quá  
số biến động (CV) lớn nhất là 0,0031 ở nhu cầu thì cá phát triển càng chậm và  
nghiệm thức 30% protein và nhỏ nhất là cá phân hóa càng rõ ràng về khối lượng.  
0,0011 ở nghiệm thức 45% protein. Kết  
quả này khẳng định khi ương cá lóc giai  
đoạn cá 10 ngày tuổi lên 40 ngày tuổi thì  
cá ít phân hóa khối lượng khi được sử  
3.3. Tỷ lệ sống, hệ số tiêu tốn và  
hiệu quả sử dụng thức ăn của cá lóc  
Tỷ lệ sống, hệ số tiêu tốn và hiệu quả  
sử dụng protein của cá lóc được trình  
bày ở Bảng 5.  
dụng thức ăn chứa 45% protein.  
Bảng 5. Tỷ lệ sống, hệ số thức ăn và hiệu quả sử dụng protein của cá lóc  
Nghiệm thức  
Tỷ lệ sống  
Hệ số thức ăn  
Hiệu quả sử dụng  
(% protein)  
(SR,%)  
FCR  
protein (PER)  
NT1: 30  
100±0,00a  
100±0,00a  
100±0,00a  
100±0,00a  
100±0,00a  
1,69 ± 0,01e  
1,64 ± 0,02d  
1,56± 0,02c  
1,46 ± 0,01a  
1,50 ± 0,01b  
62,0 ± 0,20a  
65,5 ± 0,16b  
66,4 ± 0,11c  
68,4 ± 0,08d  
61,9 ± 0,09a  
NT2: 35  
NT3: 40  
NT4: 45  
NT5: 50  
Ghi chú: Các giá trị trong cùng một cột có chữ cái khác nhau thì khác biệt có ý nghĩa về  
thống kê (p<0,05). SR: Tỷ lệ sống; FCR: Hệ số thức ăn; PER: Hiệu quả sử dụng protein.  
247  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 11 - 2021  
Bảng 5 cho thấy tỷ lệ sống của cá ở cả protein cao trong giới hạn cho phép sẽ  
5 nghiệm thức đều đạt tối đa (100%). giúp người nuôi sử dụng thức ăn có hiệu  
Kết quả khẳng định, hàm lượng protein quả. Quá trình này cũng xảy ra đối với  
trong thức ăn từ 30-50% không ảnh cá lóc, khi phân tích các chỉ tiêu WG,  
hưởng lên tỷ lệ sống của cá lóc. Theo SGR và FCR cho thấy, ở nghiệm thức cá  
Ngô Minh Dung và Trần Thị Thanh sử dụng 45% protein cho WG, SGR cao  
Hiền (2017), cá lóc có khả năng sống sót nhất và FCR thấp nhất. Mối quan hệ  
rất cao mặc dù bị bỏ đói trong một giữa hàm lượng protein trong thức ăn và  
khoảng thời gian. Mặt khác, theo hệ số thức ăn của nhóm cá ăn thiên về  
Nguyễn Thị Ngọc Lan (2004), tỷ lệ sống động vật đã được nhiều tác giả chứng  
của cá lóc bông không bị ảnh hưởng bởi minh: cá trê trắng (Clarias batrachus)  
chế độ cho ăn. Theo Nguyễn Văn Triều (Meenakshi Jindal, 2011); cá trê phi H.  
ctv., (2014), tỷ lệ sống của cá kết longifilis (Jamabo and Alfred-Ockiya,  
cũng không bị ảnh hưởng bởi hàm lượng 2008; Otchoumou et al., 2011) và cá trê  
protein trong thức ăn đã sử dụng.  
C. gariepinus (Sotolu, 2010); cá trê vàng  
(Clarias microcephalus) (Trần Ngọc  
Tuyền và Nguyễn Văn Triều, 2017).  
Ở nghiệm thức cá lóc sử dụng thức  
ăn 30% protein cho giá trị FCR cao nhất  
(1,69), hệ số FCR giảm dần theo sự tăng  
Hiệu quả sử dụng protein (PER)  
dần của hàm lượng protein trong thức ăn không những thay đổi theo loại protein  
và đạt giá trị thấp nhất ở nghiệm thức ăn vào mà còn thay đổi theo hàm lượng  
45% protein (1,46). Theo Tiêu Quốc protein trong thức ăn. Theo Nguyễn Thị  
Sang và ctv., (2013), khi nuôi cá lóc giai Ngọc Lan (2004), hiệu quả sử dụng  
đoạn 60 ngày tuổi lên cá thương phẩm protein ở cá lóc bông tăng khi hàm  
thì hệ số thức ăn của cá lóc dao động từ lượng protein trong thức ăn càng cao.  
1,21-1,68. Điều này cũng xảy ra tương Vấn đề này cũng được khẳng định trên  
tự trên các loài cá khác như: ở cá trê H. cá lóc giống (Ngô Minh Dung và Trần  
longifilis hệ số thức ăn giảm khi hàm Thị Thanh Hiền, 2017) và cá trê vàng  
lượng protein trong thức ăn tăng đến (Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn  
40% thì hệ số thức ăn đạt 1,33 (Jamabo Triều, 2017). Ở cá lóc giai đoạn 10 ngày  
and Alfred-Ockiya, 2008; Otchoumou et tuổi, hiệu quả sử dụng protein tốt nhất ở  
al., 2011); ở cá trê (C. gariepinus) hệ số nghiệm thức cá ăn thức ăn 45% protein  
thức ăn là 1,28 khi cho cá ăn thức ăn với giá trị PER cao hơn có ý nghĩa thống  
40% protein (Sotolu, 2010); ở cá trê kê (p < 0,05) so với các nghiệm thức  
vàng (C. macrocephalus) hệ số thức ăn còn lại. Tuy nhiên, nếu hàm lượng  
là 1,32 khi cho cá ăn thức ăn 40% protein trong thức ăn quá cao thì sẽ dẫn  
protein (Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn đến thừa protein, cơ thể phải tốn năng  
Văn Triều, 2017). Theo Trần Thị Thanh lượng để tiêu hóa lượng protein thừa,  
Hiền và Nguyễn Anh Tuấn (2009), khi làm cho tăng trưởng giảm, dẫn đến hiệu  
thức ăn được cung cấp có hàm lượng quả sử dụng protein cũng sẽ giảm. Kết  
248  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 11 - 2021  
quả thí nghiệm ương cá lóc cho thấy,  
5. Lê Thanh Hùng, 2008. Thức ăn và  
hiệu quả sử dụng protein thấp nhất ở dinh dưỡng thủy sản. Nhà xuất bản  
nghiệm thức 50% protein (Bảng 5). Nông nghiệp.  
Trong khi đó, ở nghiệm thức 45%  
protein tăng trọng bình quân của cá đạt  
cao nhất (3.079 mg/con) và hiệu quả sử  
dụng protein đạt giá trị tối ưu so với tất  
6. Ngô Minh Dung Bùi Minh  
cả các nghiệm thức còn lại.  
học - Trường Đại học Cần Thơ. Tập 49.  
Trang 84-90.  
4. KẾT LUẬN  
Cá lóc 10 ngày tuổi, có khối lượng  
trung bình là 73,4±6,22 mg/con được  
ương trong cùng điều kiện thí nghiệm,  
thức ăn chứa 45% protein cho tốc độ  
7. Ngô Minh Dung và Trần Thị  
tăng trưởng tuyệt đối về khối lượng lớn Thanh Hiền, 2017. Nhu cầu duy trì và  
nhất, hệ số tiêu tốn thức ăn thấp nhất và hiệu quả sử dụng protein, năng lượng  
hiệu quả sử dụng thức ăn đạt cao nhất.  
của cá lóc (Channa striata). Tạp chí  
Khoa học - Trường Đại học Cần Thơ.  
Tập 53. Trang 1-9.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Dương Nhựt Long, 2004. Giáo  
trình kỹ thuật nuôi thủy sản nước ngọt.  
Khoa Thủy sản-Trường Đại học Cần  
Thơ.  
8. Ngô Minh Dung và Trần Thị  
Thanh Hiền, 2017. Phương pháp thu  
phân và khả năng tiêu hóa nguồn nguyên  
liệu protein của cá lóc (Channa striata).  
Tạp chí Khoa học Công nghệ Việt Nam.  
Tập 81. Trang 114-120.  
2. Dương Nhựt Long, Nguyễn Anh  
Tuấn và Lam Mỹ Lan, 2014. Kỹ thuật  
nuôi cá nước ngọt. Nhà xuất bản Đại học  
Cần Thơ.  
9. NRC National Research Council.,  
1983. Nutrient requirements of fish  
National Academy press. Washington.  
114pp.  
3. Jamabo, N. A., F. J. Alfred -  
Ockiya, 2008. Effects of dietary protein  
levelson the growth performance of  
Heterobranchus bidorsalis (Geoffrey-  
Saint-Hillarie) fingerlings from Niger  
delta. Afr. J. Biotechnil. 7 (14): 2483-  
2485.  
10. Nguyễn Phú Hòa, 2014. Chất  
lượng môi trường nước trong nuôi trồng  
thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp.  
11. Nguyễn Thị Ngọc Lan, 2004.  
Nghiên cứu sử dụng thức ăn chế biến để  
ương nuôi cá lóc bông. Luận văn cao  
học ngành Nuôi trồng thủy sản. Khoa  
Thủy sản - Trường Đại học Cần Thơ.  
4. Khan, M. S., J. K. Ang and A. M.  
Ambak, 1993. Optimum dietary protein  
requirement of a Malaysia freshwater  
catfish, Mystus nemurus. Aquaculture,  
Volume 112, Issue 2-3: 227-235.  
249  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 11 - 2021  
12. Nguyễn Văn Triều, Trần Ngọc  
Tuyền, Trần Thị Thanh Hiền, Dương  
Nhựt Long và Nguyễn Anh Tuấn. 2014.  
Xác định nhu cầu đạm của cá kết  
(Micronema bleekeri Gunther, 1864)  
giai đoạn giống. Tạp chí Khoa học -  
Trường Đại học Cần Thơ. Số chuyên đề  
thủy sản. Trang 229-235.  
của mật độ lên tăng trưởng, tỷ lệ sống và  
hiệu quả tài chính của mô hình nuôi cá  
lóc (Channa striata) thương phẩm trong  
bể lót bạt. Tạp chí Khoa học, Trường  
Đại học Cần Thơ. Phần B: Nông nghiệp,  
Thủy sản và Công nghệ sinh học. 25  
(2013):223-230.  
16. Trần Ngọc Tuyền, 2008. Nghiên  
13. Otchoumou A. K., M. B. Célestin, cứu đặc điểm dinh dưỡng và thức ăn cho  
A. E. Olivier, L. A. Yao, L. N. Sébastien cá kết giai đoạn từ bột lên giống  
and K. D. Jacques, 2011. Effects of  
increasing dietary protein levels on  
growth, feed utilization and body  
composition of Heterobranchus  
longifilis (Valenciennes, 1840)  
fingerlings. African Journal of  
(Micronema bleekeri Gunther). Luận  
văn cao học ngành Nuôi trồng thủy sản.  
Khoa Thủy sản - Trường Đại học Cẩn  
Thơ.  
17. Trần Ngọc Tuyền và Nguyễn Văn  
Triều, 2017. Ảnh hưởng của thức ăn có  
hàm lượng đạm khác nhau lên tăng  
trưởng và tỷ lệ sống của cá Trê vàng  
(Clarias macrocephalus) giai đoạn cá  
bột lên cá giống (Tạp chí Nghiên cứu  
khoa học và phát triển kinh tế - ĐHTĐ.  
Số 02/2017).  
Biotechnology Vol. 11(2), pp. 524-529.  
14. Sotolu A.O., 2010. Effects of  
varying dietary protein levels on the  
breeding performance of Clarias  
geriepinus broodstock and fry growth  
rate. Livestock Research for Rural  
Development 22(4) 2010.  
18. Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn  
15. Tiêu Quốc Sang, Dương Nhựt  
Anh Tuấn, 2009. Dinh dưỡng và thức ăn  
Long và Lam Mỹ Lan, 2013. Ảnh hưởng thủy sản. Nhà xuất bản Nông nghiệp.  
250  
Tạp chí Nghiên cứu khoa học và Phát triển kinh tế Trường Đại học Tây Đô  
Số 11 - 2021  
EFFECT OF FEEDING DIFFERENT DIETARY PROTEIN LEVELS  
ON GROWTH AND SURVIVAL RATE OF SNAKEHEAD (Channa  
striata) FINGERLINGS OF 10 TO 40 DAY-OLD STAGE  
Tran Ngoc Tuyen1* and Nguyen Van Trieu2  
1Faculty of Applied Biology, Tay Do University  
2Faculty of Aquaculture & Fisheriesand, Can Tho University  
(*Email: tntuyen@tdu.edu.vn)  
ABSTRACT  
The study was conducted to evaluate the effect of protein levels in feeding on growth and  
survival rate of the snakehead (Channa striata) fingerlings of 10 to 40 day-old stage. The  
experiment was randomly set up with 5 treatments and 3 replications. The snakehead  
(73.4±6,22 mg) was nursed in the croncrete tanks (35L) with the density of 2 fish/L for the  
duration of 30 days. In this study, five different protein levels (30%, 35%, 40%, 45% and  
50%). Survival rate, mean weight, FCR were observed in this study. The results showed  
that survival rate of fish was not affected by the protein content in food. Daily weigth  
growth of fish was highest at the protein of 45% and significantly different (p<0.05) from  
the other treatments. In addition, the lowest FCR was gained by feeding pellet feed of 45%  
protein. Besides, protein efficiency used was highest with feed protein level of 45%.  
Therefore, feed protein level was the most suitable for snakehead at 45% CP.  
Keyswords: Feed, growth, protein level, survival rate  
251  
pdf 11 trang yennguyen 22/04/2022 300
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của thức ăn có hàm lượng protein khác nhau lên tăng trưởng và tỷ lệ sống của cá lóc (Channa striata) giai đoạn 10 đến 40 ngày tuổi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_thuc_an_co_ham_luong_protein_khac_nhau_len_tan.pdf