Ảnh hưởng của mật độ ương lên sinh trưởng và khả năng chịu sốc của cá bè vẫu (Caranx ignobilis) giai đoạn cá giống

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 1/2021  
ẢNH HƯỞNG CỦA MẬT ĐỘ ƯƠNG LÊN SINH TRƯỞNG VÀ KHẢ NĂNG CHỊU  
SỐC CỦA CÁ BÈ VẪU (Caranx ignobilis) GIAI ĐOẠN CÁ GIỐNG  
EEFECT OF STOCKING DENSITY ON GROWTH PERFORMANCE AND RESISTANCE TO  
STRESSES OF JUVENILE GIANT TREVALLY (Caranx ignobilis)  
Phạm Đức Hùng, Nguyễn Thị Hà Trinh, Hoàng Thị Thanh  
Viện Nuôi trồng Thủy sản, Trường Đại học Nha Trang  
Tác giả liên hệ: Phạm Đức Hùng (Email: hungpd@ntu.edu.vn)  
Ngày nhận bài: 17/12/2020; Ngày phản biện thông qua: 10/03/2021; Ngày duyệt đăng: 29/03/2021  
TÓM TẮT  
Một thí nghiệm được tiến hành nhằm đánh giá ảnh hưởng của mật độ ương lên sinh trưởng và hiệu quả  
sử dụng thức ăn của cá bè vẫu. Cá hương (trung bình 2,4 cm và 0,44g/con) được bố trí ngẫu nhiên vào trong  
16 bể composite (300 L/bể) với 4 mật độ ương gồm 0,5; 1; 1,5 và 2,0 con/L. Cá được cho ăn thức ăn tổng hợp  
NRD5/8 và NRD G8 (INVE, Thailand) 4 lần/ngày theo nhu cầu trong 30 ngày. Kết quả cho thấy khối lượng  
cuối và tốc độ tăng trưởng đặc trưng giảm có ý nghĩa khi tăng mật độ ương lên trên 1,0 con/L. Cá bè vẫu đạt  
sinh trưởng tốt nhất khi ương ở mật độ 0,5 đến 1,0 con/L. Tăng mật độ ương từ 0,5 lên 2 con/L không làm ảnh  
hưởng đến tỷ lệ sống của cá. Hệ số chuyển hóa thức ăn giảm dần khi tăng mật độ ương, thấp nhất ở nghiệm  
thức ương với mật độ 2 con/L. Cá bè vẫu ương ở mật độ 0,5 và 1,0 con/L thể hiện khả năng chịu sốc với sự thay  
đổi của nhiệt độ tốt hơn so với cá ương ở các mật độ cao. Tuy nhiên không có sự khác biệt về khả năng chịu  
sốc độ mặn của cá ương ở các mật độ khác nhau. Như vậy, mật độ phù hợp trong ương cá bè vẫu giai đoạn cá  
hương lên cá giống là 1,0 con/L để tối ưu tốc độ sinh trưởng và khả năng chịu sốc của cá.  
Từ khóa: Caranx ignobilis, mật độ, cá bè vẫu, sinh trưởng.  
ABSTRACT  
An experiment was conducted to evaluate the effects of different stocking densities on growth performance,  
feed efficiency and resistance to temperature and salinity changes of fingerling giant trevally. The fingerlings  
(mean length 2.4 cm and weight 0.44 g/fish) were randomly distributed into 16 fiberglass tanks (300 L/tank)  
at four stocking densities, including 0.5; 1.0; 1.5 and 2.0 fish/L. The giant trevally was fed commercial diets  
(NRD5/8, G8, INVE, Thailand) four times daily until satiation for 30 days. The results showed that the final  
body weight and specific growth rate of giant trevally were significantly reduced as increasing the stocking  
density above 1.0 fish/L. The highest growth rates were achieved in fish cultured at stocking density of 0.5 and  
1.0 fish/L. The feed conversion ratio was significantly reduced as increasing the stocking density, resulting  
lowest feed conversion ratio at fish raised at 2.0 fish/L. Fish cultured at densities of 0.5 and 1.0 fish/L showed  
significantly higher re-sistance ability to temperature compared to those cultured at higher stocking densities.  
However, no significant difference was observed on resistance to salinity of fish at different stocking densities.  
Thus, the optimum stocking density for fingerling giant trevally rearing could be 1.0 fish/L to maximise growth  
and resistance to stresses.  
Key words: Caranx ignobilis, stocking density, giant trevally, growth performance  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
cá nuôi. Tuy nhiên ương cá ở mật độ thấp cũng  
làm tiêu tốn nhiều thức ăn, tăng tỷ lệ phân đàn,  
giảm hiệu quả kinh tế do không tối ưu được  
diện tích ương. Trong các hệ thống nuôi thâm  
canh, cá thường được thả nuôi ở mật độ cao để  
tối ưu hiệu quả sử dụng diện tích nuôi và tối đa  
Trong ương cá biển, mật độ ương được xem  
là một yếu tố quan trọng có ảnh hưởng lớn đến  
chất lượng của con giống và hiệu quả kinh tế  
của hoạt động ương. Ương với mật độ thấp có  
thể giúp kiểm soát tốt môi trường, tỷ lệ sống của  
36 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 1/2021  
năng suất đạt được và giảm chi chí ương. Mặc  
dù vậy điều này có thể làm tăng sự cạnh tranh  
về không gian sống, thức ăn. Do đó ương cá ở  
mật độ cao có thể làm giảm sinh trưởng, tăng  
mức độ phân đàn [8, 9, 14], cũng như làm giảm  
khả năng chống chịu với các yếu tố bất lợi về  
môi trường hay các tác nhân gây bệnh [5]. Tỷ  
lệ sống của cá chẽm châu Âu (Dicentrarchus  
labrax) giảm có ý nghĩa khi tăng mật độ ương  
từ 5 lên 20 con/L. Tốc độ tăng trưởng của cá  
chim vây vàng (Trachi-notus blochii) giai đoạn  
cá hương được cải thiện khi tăng mật độ ương  
từ 1,0 con lên 1,5 con/L, tuy nhiên ở mật độ  
ương trên 2,5 con/L cá giảm tăng trưởng, tỷ lệ  
sống cũng như tăng hệ số phân đàn [8]. Trong  
khi đó ở cá chim (Trachinotus ovatus), tốc độ  
tăng trưởng giảm và hệ số FCR tăng khi tăng  
mật độ nuôi từ 100 lên 300 con/m3 [16]. Ngược  
lại, theo Ngô Văn Mạnh (2008) [7], tăng mật  
độ ương cá chẽm giai đoạn cá hương từ 5, 10,  
15, 20 con/L trong hệ thống mương nổi không  
làm ảnh hưởng đến sinh trưởng, tỷ lệ sống.  
Tuy nhiên, hệ số FCR có xu hướng giảm và hệ  
số phân đàn tăng ở các nhóm cá chẽm ương ở  
mật độ cao [7]. Tương tự, cá rô bạc (Bidyanus  
bidyanus) không thể hiện sự khác biệt về tăng  
trưởng và tỷ lệ sống khi tăng mật độ nuôi từ  
12 lên 200 con/m3 [12]. Rõ ràng, ảnh hưởng  
của mật độ lên sinh trưởng, tỷ lệ sống… có sự  
khác biệt giữa các loài cá cũng như hệ thống  
nuôi. Do đó xác định mật độ ương thích hợp  
cho từng đối tượng ở các giai đoạn nuôi khác  
nhau là cần thiết để tối ưu diện tích và hiệu quả  
ương nuôi.  
nhiều hạn chế như: ấu trùng có khả năng thích  
nghi với thức ăn tổng hợp kém, tỷ lệ sống thấp,  
kỹ thuật ương ấu trùng lên cá hương, cá giống  
còn gặp nhiều khó khăn. Trong thực tế khi áp  
dụng quy trình ương đã được nghiên cứu thành  
công trên cá chim vây vàng trong ương cá bè  
vẫu đều không mang lại hiệu quả. Để góp phần  
hoàn thiện kỹ thuật sản xuất giống cá bè vẫu,  
nghiên cứu này được tiến hành nhằm xác định  
ảnh hưởng của mật độ ương lên sinh trưởng,  
hiệu quả sử dụng thức ăn cũng như khả năng  
chịu sốc của cá bè vẫu với nhiệt độ và độ mặn,  
qua đó xác định mật độ tối ưu trong ương cá bè  
vẫu từ cá hương lên cá giống.  
II. Đối tượng, vật liệu và phương pháp  
nghiên cứu  
1. Đối tượng và vật liệu nghiên cứu  
Cá bè vẫu giai đoạn cá giống từ nguồn sản  
xuất giống nhân tạo. Ấu trùng được ương bằng  
luân trùng và artemia làm giàu và thức ăn tổng  
hợp NRD (INVE Thailand). Khi cá ăn hoàn  
toàn thức ăn công nghiệp thì bắt đầu tiến hành  
thí nghiệm. Nghiên cứu được tiến hành tại trại  
giống cá biển tại Cát Lợi, Lương Sơn, Nha  
Trang, Khánh Hòa.  
2. Phương pháp nghiên cứu  
Cá bè vẫu có chiều dài trung bình 2,43 cm  
và khối lượng 0,46 g được bố trí ương ngẫu  
nhiên hoàn toàn trong các bể composite 300  
L/bể với 4 mật độ ương: 0,5; 1,0; 1,5 và 2,0  
con/L, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần. Cá  
được được cho ăn bằng thức ăn NRD, INVE,  
Thái Lan cỡ hạt từ 300 – 1.200 µm, cho ăn 4  
lần vào 8h, 12h, 16h và 20h theo nhu cầu trong  
30 ngày. Hàng ngày thay 50 % nước và thay  
toàn bộ sau mỗi 3 ngày nuôi. Các thông số môi  
trường như nhiệt độ, độ mặn và amonia được  
kiểm tra hàng tuần và duy trì trong ngưỡng  
thích hợp; oxy hòa tan > 4,5 mg/L; NH3/NH4+  
< 0,05; nhiệt độ 28 – 30 ºC; độ mặn 29 – 31  
ppt. Các chỉ tiêu đánh giá: sinh trưởng, phân  
đàn, tỷ lệ sống, hệ số FCR.  
Cá bè vẫu Caranx igobilis hay còn gọi là cá  
bè quỵt là đối tượng nuôi biển có giá trị kinh  
tế cao nhờ tốc độ tăng trưởng nhanh, giá bán  
cao và khả năng thích nghi tốt với điều kiện  
nuôi. Hiện nay cá bè vẫu được nuôi nhiều trong  
lồng bè tại các tỉnh Khánh Hòa, Vũng Tàu,  
Kiên Giang. Tuy nhiên, việc mở rộng nuôi đối  
tượng này gặp nhiều trở ngại, đặc biệt là sự  
thiếu hụt con con giống (Hoàng Nhật Sơn và  
ctv, 2016). Để góp phần chủ động con giống  
có chất lượng, một số địa phương và cơ sở sản  
xuất đã bước đầu nghiên cứu sản xuất giống  
nhân tạo, tuy nhiên kết quả đạt được vẫn còn  
Đánh giá khả năng chịu sốc: Sau khi kết  
thúc thí nghiệm, cá được ngừng cho ăn trong  
24h và tiến hành đánh giá khả năng chịu sốc cơ  
học, độ mặn và nhiệt độ theo phương pháp mô  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 37  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 1/2021  
Hình 1. Cá bè vẫu lúc bắt đầu và kết thúc thí nghiệm.  
tả bởi Ngô Văn Mạnh (2016) [8].  
Trong đó: Wtasd: là khối lượng thức ăn sử  
dụng (g, theo khối lượng khô)  
WG: là khối lượng cá tăng thêm (g, theo  
khối lượng tươi)  
Sốc cơ học: Dùng vợt vớt ngẫu nhiên cá  
trong bể thí nghiệm ra các bể nhỏ 50L chứa  
nước biển, có sục khí. Quan sát số cá bị sốc và  
chết sau mỗi lần vớt.  
Hspnđàn:CV(%):  
Sốc nhiệt độ: Cá giống từ các nghiệm thức  
được chuyển từ bể thí nghiệm có nhiệt độ 28ºC  
xuống các bể tương ứng có nhiệt độ 17ºC,  
có sục khí. Theo dõi số cá bị sốc sau mỗi 10  
phút. Sau 30 phút đếm số lượng cá chết và khả  
năng hồi phục của cá sau khi chuyển lại bể thí  
nghiệm ban đầu.  
Sốc độ mặn: Cá giống được chuyển từ bể  
thí nghiệm có độ mặn 30 ppt xuống bể có độ  
mặn 0 ppt. Phương pháp và đánh giá tương tự  
như sốc nhiệt độ.  
Trong đó: CV: hệ số phân đàn; SD: độ lệch  
chuẩn, W: khối lượng trung bình  
Số liệu trình bày dưới dạng trung bình ± sai  
số chuẩn. Số liệu về tỷ lệ sống được chuyển qua  
dạng arcsin trước khi phân tích. Sự ảnh hưởng  
của mật độ lên các chỉ tiêu đánh giá được phân  
tích bằng phương pháp phương sai một nhân  
tố (One-way ANOVA) trên phần mềm SPSS  
22.0. Sự sai khác nếu có giữa các nghiệm thức  
được phân tích bằng phép kiểm định Duncan’s  
multiple range test. Hồi quy tuyến tính bậc nhất  
được sử dụng để đánh giá mối liên hệ giữa mật  
độ ương với hệ số chuyển hóa thức ăn và hệ số  
phân đàn của cá bè vẫu. Sự sai khác được xem  
xét ở mức ý nghĩa P < 0,05.  
3. Phương pháp phân tích  
Các chỉ tiêu đánh giá: Tỷ lệ sống:  
Trong đó: Nt: là số cá tại thời điểm t; N0: Số  
cá thả ban đầu  
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO  
LUẬN  
Tốc độ tăng trưởng đặc trưng (SGR%/ngày)  
1. Ảnh hưởng của mật độ lên sinh trưởng và  
hiệu quả sử dụng thức ăn của cá bè vẫu  
Ảnh hưởng của mật độ ương lên sinh  
trưởng, tỷ lệ sống và hiệu quả sử dụng thức  
ăn của cá bè vẫu giai đoạn từ cá hương lên cá  
giống được trình bày trong bảng 3.1. Mật độ  
ương có ảnh hưởng đến tốc độ tăng trưởng, hệ  
số chuyển hóa thức ăn (FCR) và hệ số phân  
đàn (CV) của cá bè vẫu giai đoạn ương từ cá  
Trong đó: W1, W2 là khối lượng cá lúc bắt  
đầu và kết thúc thí nghiệm  
t: là thời gian thí nghiệm (ngày)  
Hệ số chuyển hoá thức ăn (FCR)  
38 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 1/2021  
hương lên cá giống. Cá ương ở mật độ thấp 0,5  
và 1,0 con/L đạt khối lượng cuối, tốc độ tăng  
trưởng đặc trưng về khối lượng và chiều dài  
cao hơn có ý nghĩa so với cá ương ở mật độ 1,5  
và 2 con/L (P < 0,05). Cá ương ở mật độ 1,5  
và 2,0 con/L có hệ số FCR thấp hơn có ý nghĩa  
so với cá ương ở mật độ 0,5 và 1,0 con/L (P <  
0,05). Hệ số chuyển hóa thức ăn của cá bè vẫu  
thể hiện mối tương quan nghịch với mật độ thả  
theo mô hình tuyến tính bậc nhất (R2 = 0,7299),  
trong khi CV có tương quan thuận với mật độ  
ương (R2 = 0,66) (Hình 2&3).  
Bảng 1: Ảnh hưởng của mật độ ương lên sinh trưởng và hệ số phân đàn của cá bè vẫu.  
Mật độ ương  
Wbd (g/con)  
Lbd (cm)  
0,5 con/L  
0,44 ± 0,02  
2,41 ± 0,01  
3,29 ± 0,18c  
5,71 ± 0,06c  
6,72 ± 0,07c  
2,87 ± 0,05c  
0,83 ± 0,02b  
6,58 ± 0,78a  
100  
1,0 con/L  
0,45 ± 0,02  
2,43 ± 0,03  
3,28 ± 0,11c  
5,66 ± 0,10c  
6,60 ± 0,09c  
2,81 ± 0,05bc  
0,83 ± 0,02b  
6,82 ± 1,51a  
100  
1,5 con/L  
0,47 ± 0,02  
2,42 ± 0,02  
2,93 ± 0,05b  
5,53 ± 0,04b  
6,10 ± 0,12b  
2,76 ± 0,05ab  
0,76 ± 0,01a  
8,68 ± 1,08ab  
100  
2,0 con/L  
0,48 ± 0,01  
2,42 ± 0,02  
2,69 ± 0,06a  
5,40 ± 0,03a  
5,76 ± 0,08a  
2,68 ± 0,01a  
0,75 ± 0,01a  
10,18 ± 1,10b  
100  
Wkt (g/con)  
Lkt (cm)  
SGRw (%/ngày)  
SGRL (%/ngày)  
FCR  
CV (%)  
Tỷ lệ sống (%)  
Số liệu trình bày dạng TB ± SE. Các ký tự khác nhau trong cùng hàng thể hiện sự sai khác có ý nghĩa ở mức P < 0,05.  
Mật độ nuôi là một trong những tác nhân  
gây sốc, ảnh hưởng đến sinh trưởng của cá.  
Trong nghiên cứu này khối lượng cuối và SGR  
giảm khi tăng mật độ ương lên 1,5 và 2,0 con/L,  
kết quả này tương tự với những công bố trên  
cá chim [16], cá bơn Nhật bản (Paralichthys  
olivaceus) [2], cá chim vây vàng [8]. Các tác  
giả đều nhận thấy khi tăng mật độ nuôi lên  
cao sẽ dẫn đến các tác động tiêu cực lên sinh  
trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá  
nuôi. Điều này có thể do chúng làm tăng nhu  
cầu năng lượng ở cá, dẫn đến làm tăng năng  
lượng chuyển hóa và duy trì trong cơ thể, dẫn  
đến giảm năng lượng tích lũy cho tăng trưởng.  
Theo Ngô Văn Mạnh (2016) [8], tỷ lệ sống  
giảm có ý nghĩa khi tăng mật độ ương cá chim  
giai đoạn cá hương lên trên 2,5 con/L. Nguyên  
nhân có thể do ở cuối giai đoạn thí nghiệm,  
chiều dài và khối lượng của cá tăng dẫn đến  
tăng tổng sinh khối nhanh ở nhóm cá nuôi  
ở mật độ cao, điều này làm giảm chất lượng  
nước, tăng sự cạnh tranh môi trường sống,  
hậu quả làm nhiều cá thể nhiễm bệnh chết [8].  
Trong nghiên cứu này, tăng mật độ nuôi lên tới  
2 con/L không làm ảnh hưởng đến tỷ lệ sống  
của cá. Đây cũng là mật độ tối đa thường sử  
dụng trong ương một số loài thuộc họ cá khế  
như cá bè vàng, cá bè vẫu, cá chim vây ngắn.  
Ở mật độ này, môi trường nuôi vẫn có thể được  
đảm bảo ở trong khoảng phù hợp cho sinh  
trưởng của cá. Hệ số CV là một chỉ tiêu quan  
trọng đánh giá chất lượng cá giống, đặc biệt ở  
những loài cá dữ có tập tính ăn thịt lẫn nhau.  
Hệ số CV cao có thể làm giảm tỷ lệ sống do tỷ  
lệ cá chết do bị ăn lẫn nhau tăng lên [8]. Trong  
nghiên cứu này, hệ số CV có xu hướng tăng  
khi tăng mật độ ương trên 1,5 con/L, tương tự  
như những kết quả ghi nhận trên cá chim vây  
vàng [8], con lai Leuciscus aspius ×Rutilus  
frisii ♂ [3], cá chẽm [10], nguyên nhân có thể  
do sự tăng sự cạnh tranh về thức ăn và không  
gian sống.  
Mặt khác, một số nghiên cứu cũng chỉ ra  
rằng tác động của mật độ lên đáp ứng của cá  
nuôi còn phụ thuộc vào loài, giai đoạn phát  
triển cũng như hệ thống nuôi. Theo Roque  
d'Orbcastel và cộng sự (2010) [11], cá chẽm  
châu Âu (Dicentrarchus labrax) cỡ 76g giảm  
tăng trưởng khi nuôi ở mật độ 1315 con/m3  
trong hệ thống nước chảy, trong khi đó cá cỡ 32  
g/con được nuôi trong lồng đặt trong ao giảm  
tăng trưởng khi nuôi với mật độ chỉ 60 con/m3  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 39  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 1/2021  
Hình 2. Tương quan giữa mật độ ương với hệ số  
chuyển hóa thức ăn của cá bè vẫu.  
Hình 3: Tương quan giữa mật độ ương với hệ số  
phân đàn của cá bè vẫu.  
[1]. Ngược lại cá chẽm châu Âu giai đoạn hậu  
ấu trùng (1,7 cm) không thể hiện sự sai khác  
về sinh trưởng, hệ số CV khi tăng mật độ ương  
từ 5 con/L lên tới 20 con/L [4]. Rõ ràng, mức  
độ tác động của mật độ ương lên cá biển có sự  
thay đổi lớn, tùy thuộc vào giai đoạn nuôi và  
hệ thống nuôi.  
con/L, tuy nhiên không có sự sai khác ý nghĩa  
về tỷ lệ chết do sốc độ mặn của cá bè vẫu ương  
ở các độ mặn khác nhau (P > 0,05).  
Khả năng chống chịu lại sự thay đổi của các  
yếu tố môi trường của cá là một trong những  
yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng con  
giống và khả năng thích nghi đối với những  
thay đổi đột ngột của môi trường. Trong  
đó chất lượng cá giống phụ thuộc vào nhiều  
yếu tố như dinh dưỡng, môi trường, kỹ thuật  
nuôi. Wang và cộng sự (2019) [15] quan sát  
thấy sự tăng số lượng các dòng vi khuẩn gây  
hại như: Aerosomonas, Pseudomonas, Vibrio  
trong ruột của cá tráp đầu to (Megalobrama  
amblycephala) khi tăng mật độ nuôi. Sự giảm  
các chức năng miễn dịch cũng được ghi nhận  
trên cá chẽm khi ương ở mật độ cao [13],  
trong khi cá Ayu (Plecoglossus altivelis) tăng  
sự nhạy cảm với vi khuẩn Flavobacterium  
psychrophilum khi ương ở mật độ cao [6].  
Trong nghiên cứu này, cá bè vẫu ương ở mật  
độ 2 con/L có tỷ lệ cá bị sốc nhiệt độ cao hơn cá  
ở các mật độ ương thấp hơn, cá ương ở mật độ  
này cũng có tốc độ tăng trưởng thấp hơn so với  
các mật độ ương khác. Rõ ràng, mật độ cao có  
thể gây ra các rối loạn trong chuyển hóa và đáp  
ứng sinh lý bình thường của cá, làm tăng sự  
nhạy cảm của chúng với tác động của các yếu  
tố bên ngoài. Tuy nhiên mức độ ảnh hưởng có  
sự khác biệt giữa các loài, giai đoạn phát triển  
cũng như hệ thống nuôi.  
2. Ảnh hưởng của mật độ lên khả năng chịu  
sốc của cá bè vẫu  
Khả năng chịu sốc nhiệt độ, độ mặn và cơ  
học của cá bè vẫu giống được thể hiện trong  
hình 4. Khi hạ nhiệt độ đột ngột từ 28ºC xuống  
17ºC, cá bè vẫu giống ương ở các mật độ khác  
nhau không có biểu hiện của sốc sau 10 phút  
đầu tiên. Sau 20 phút, cá bè vẫu bắt đầu có biểu  
hiện sốc nhiệt độ. Cá ương ở mật độ cao nhất  
có tỷ lệ bị sốc nhiệt độ cao nhất sau 30 phút, ở  
mức 30% nhưng không có khác biệt ý nghĩa  
với tỷ lệ sốc của cá ương ở mật độ thấp hơn (P  
> 0,05). Tương tự, cá bè vẫu giống chuyển từ  
độ mặn 30 ppt xuống 0 ppt không có biểu hiện  
sốc sau 10 phút. Sau 30 phút, tỷ lệ cá bị sốc độ  
mặn dao động từ 13,3 đến 23,3% nhưng không  
có sai khác ý nghĩa giữa các nghiệm thức (P  
> 0,05). Ở sốc cơ học, phần lớn cá không có  
biểu hiện sốc sau 30 phút. Sau khi được chuyển  
trở lại điều kiện nuôi bình thường ở nhiệt độ  
28ºC và độ mặn 30 ppt, toàn bộ cá ở thí nghiệm  
sốc cơ học và nhiệt độ ở các mật độ ương  
khác nhau đều hồi phục trở lại trạng thái bình  
thường. Trong khi đó, không có cá chết do sốc  
độ mặn ở các nghiệm thức ương ở độ mặn từ  
0,5 đến 1,5 con/L, trong khi tỷ lệ cá chết do sốc  
độ mặn là 3,33% ở nhóm cá ương với mật độ 2  
IV. KẾT LUẬN  
Không có sự ảnh hưởng mật độ ương lên  
tỷ lệ sống của cá bè vẫu giai đoạn cá hương.  
40 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 1/2021  
Hình 4. Khả năng chịu sốc cơ học, nhiệt độ và độ mặn của cá bè vẫu ương ở các mật độ khác nhau.  
LỜI CẢM ƠN  
Cá đạt tốc độ tăng trưởng cao khi ương ở mật  
độ 1,0 con/L. Không có ảnh hưởng của mật độ  
ương lên khả năng chịu sốc cơ học, nhiệt độ và  
độ mặn của cá bè vẫu.  
Trong giai đoạn ương nhỏ, cá bè vẫu nên  
được thả với mật độ 1,0 con/L để đạt sinh  
trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn tốt nhất.  
Nghiên cứu được tiến hành dưới sự tài trợ  
kinh phí của đề tài cấp tỉnh Khánh Hòa “Nghiên  
cứu quy trình sản xuất giống và nuôi thương  
phẩm cá bè vẫu (Caranx ignobilis) tại Khánh  
Hòa” Mã số ĐT-2020-40502-ĐL1.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Abou Zied R. (2010), "Effect of stocking density on growth performance and feed utilization of sea bass  
(Dicentrarchus labrax) in cages suspended on natural pond", 24.  
2. Duan Y., Dong X., Zhang X. và Miao Z. (2011), "Effects of dissolved oxygen concentration and stocking  
density on the growth, energy budget and body composition of juvenile Japanese flounder, Paralichthys  
olivaceus (Temminck et Schlegel)", Aquaculture Research, 42(3), pp. 407-416.  
3. Falahatkar B., Bagheri M. và Efatpanah I. (2019), "The effect of stocking densities on growth performance  
and biochemical indices in new hybrid of Leuciscus aspius ×Rutilus frisii ♂", Aquaculture Reports, 15, pp.  
100207.  
4. Hatziathanasiou A., Paspatis M., Houbart M., Kestemont P., Stefanakis S. và Kentouri M. (2002), "Survival,  
growth and feeding in early life stages of European sea bass (Dicentrarchus labrax) intensively cultured under  
different stocking densities", Aquaculture, 205(1), pp. 89-102.  
5. Iguchi K.i., Ogawa K., Nagae M. và Ito F. (2003), "The influence of rearing density on stress response and  
disease susceptibility of ayu (Plecoglossus altivelis)", Aquaculture, 220(1-4), pp. 515-523.  
6. Iguchi K.i., Ogawa K., Nagae M. và Ito F. (2003), "The influence of rearing density on stress response and  
disease susceptibility of ayu (Plecoglossus altivelis)", Aquaculture, 220(1), pp. 515-523.  
7. Ngô Văn Mạnh (2008), Ảnh hưởng của mật độ, cỡ cá thả ban đầu, loại thức ăn và chế độ cho ăn lên cá chẽm  
(Lates calcarifer Bloch 1790) giống ương trong ao bằng mương nổi., Trường Đại học Nha Trang. 86 trang.  
8. Ngô Văn Mạnh (2016), Nghiên cứu ảnh hưởng của một số giải pháp kỹ thuật lên chất lượng trứng, ấu trùng  
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG 41  
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản  
Số 1/2021  
và hiệu quả ương giống cá chim vây vàng (Trachinotus blochii Lacepede, 1801) tại Khánh Hòa. Luận án Tiến  
sĩ Nông nghiệp, Đại học Nha Trang. 110.  
9. Rafatnezhad S., Falahatkar B. và Tolouei Gilani M.H. (2008), "Effects of stocking density on haematological  
parameters, growth and fin erosion of great sturgeon (Huso huso) juveniles", Aquaculture Research, 39(14),  
pp. 1506-1513.  
10. Ribeiro F.F., Forsythe S. và Qin J.G. (2015), "Dynamics of intracohort cannibalism and size heterogeneity  
in juvenile barramundi (Lates calcarifer) at different stocking densities and feeding frequencies", Aquaculture,  
444, pp. 55-61.  
11. Roque d'Orbcastel E., Lemarié G., Breuil G., Petochi T., Marino G., Triplet S., Dutto G., Fivelstad S.,  
Coeurdacier J.-L. và Blancheton J.-P. (2010), "Effects of rearing density on sea bass (Dicentrarchus labrax)  
biological performance, blood parameters and disease resistance in a flow through system", Aquat. Living  
Resour., 23(1), pp. 109-117.  
12. Rowland S.J., Mifsud C., Nixon M. và Boyd P. (2006), "Effects of stocking density on the performance of  
the Australian freshwater silver perch (Bidyanus bidyanus) in cages", Aquaculture, 253(1), pp. 301-308.  
13. Sadhu N., Sharma S.R.K., Joseph S., Dube P. và Philipose K.K. (2014), "Chronic stress due to high  
stocking density in open sea cage farming induces variation in biochemical and immunological functions in  
Asian seabass (Lates calcarifer, Bloch)", Fish Physiology and Biochemistry, 40(4), pp. 1105-1113.  
14. Telli G.S., Ranzani-Paiva M.J.T., de Carla Dias D., Sussel F.R., Ishikawa C.M. và Tachibana L. (2014),  
"Dietary administration of Bacillus subtilis on hematology and non-specific immunity of Nile tilapia  
Oreochromis niloticus raised at different stocking densities", Fish & shellfish immunology, 39(2), pp. 305-311.  
15. Wang Y.-W., Zhu J., Ge X.-p., Sun S.-M., Su Y.-L., Li B., Hou Y.-R. và Ren M.-C. (2019), "Effects of  
stocking density on the growth performance, digestive enzyme activities, antioxidant resistance, and intestinal  
microflora of blunt snout bream (Megalobrama amblycephala) juveniles", Aquaculture Research, 50(1), pp.  
236-246.  
16. Yang Q., Guo L., Liu B.-S., Guo H.-Y., Zhu K.-C., Zhang N., Jiang S.-G. và Zhang D.-C. (2020), "Effects  
of stocking density on the growth performance, serum biochemistry, muscle composition and HSP70 gene  
expression of juvenile golden pompano Trachinotus ovatus (Linnaeus, 1758)", Aquaculture, 518, pp. 734841.  
42 TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG  
pdf 7 trang yennguyen 22/04/2022 360
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của mật độ ương lên sinh trưởng và khả năng chịu sốc của cá bè vẫu (Caranx ignobilis) giai đoạn cá giống", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfanh_huong_cua_mat_do_uong_len_sinh_truong_va_kha_nang_chiu_s.pdf