Tiểu luận Những thành tựu nhân quyền ở Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến nay

PHẦN MỞ ĐẦU  
Vấn đề nhân quyền luôn là vấn đề của các cuộc tranh cãi trên diễn đàn  
chính trị thế giới đương đại. Thực chất của vấn đề này là gì? Loài người ghi  
nhận đến đâu? Ở Việt Nam nhân quyền vấn đề hàng đầu trong quá trình  
xây dựng bảo vệ tổ quốc. Mục đích cuối cùng của chế đhội chủ nghĩa mà  
chúng ta xây dựng giải phóng con người, đem quyền làm chủ thực sự đến cho  
từng người lao động. Nhưng hiện tại các thế lực thù địch, các nước tư bản  
phương Tây dựa vào sức mạnh kinh tế, quân sự, vị thế nước lớn luôn muốn áp  
đặt thứ nhân quyền xa vời, giả tạo với các nước khác, luôn xuyên tạc bôi nhọ, vu  
khống phủ nhận những thành tựu của các nước, muốn can thiệp vào công việc  
nội bộ các nước hòng thực hiện mưu đồ bất chính.  
Trong quá trình phát triển kinh tế- chính trị- hội- văn hoá hơn sáu mươi  
năm qua chúng ta đã đạt được những thành tựu đặc sắc “diện mạo đất nước, con  
người đều đổi mới”. Trong những thành tựu đó quyền con người đạt được nhiều  
thành công, được đánh giá là thành tựu vượt bậc, quan trọng nhất trong quá trình  
giải phóng con người của cách mạng nước ta.  
Từ những suy nghĩ trên, tôi chọn Những thành tựu nhân quyền ở Việt  
Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến nayđể làm đề tài nghiên cứu trong bài  
tiểu luận này. Nhằm nêu ra những luận cứ khẳng định những thành quả về nhân  
quyền mà nhân dân ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, góp  
phần bác bỏ những luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, lợi dụng vấn đề nhân quyền  
để chống phá sự nghiệp cách mạng do Đảng ta lãnh đạo  
2
 
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ QUYỀN CON NGƯỜI  
1.1. Lịch sử phát triển tư tưởng nhân quyền.  
Trong lịch sử phát triển các học thuyết chính trị của loài người nhân  
quyÒnlu«n luôn được các học giả các nhà nước tìm hiểu và xây dựng. Tuỳ từng  
thời kỳ lịch sử khác nhau học thuyết này cũng những biến đổi và hoàn thiện.  
Nhân quyền vấn đề không bao giờ cũ, nó luôn luôn mới xét theo ý  
nghĩa tÕn bộ lịch sử và phát triển của cá nhân xã hội. Trong mỗi thời kỳ lịch sử  
ấy các học giả các trường phái đều những quan niệm riêng về vấn đề này.  
Thời cổ đại. Khi đề cập đến vấn đề nhân quyền các triết gia đã nêu lên  
nguyên tắc “các quyền con người(quyền tự nhiên ) là tài sản của tất cả mọi  
người ở mọi thời đại”. ở thời kỳ này thị dân ở một số thành phố Ai Cập đã sử  
dụng các quyền nh- tự do ngôn luận, quyền bình đẳng của tất cả mọi người  
trước pháp luật. Các triết gia thời đó cho rằng các quyền tự nhiên thuộc sở hữu  
của tất cả mọi người.  
Hamurabi (Lưỡng cổ đại) cho rằng công lý bùng nổ để ngăn chặn kẻ  
mạnh làm hại kẻ yếu”.Ông coi trọng công lý xã hội , bảo kẻ yếu , quan tâm  
đúng đên mọi người trong xã hội.  
Mạnh Tử (Trung Quốc cổ đại) cho rằng “cá nhân con người là vô cùng  
quan trọng còn nhân cách của vua chúa thì ít quan trọng hơn”.Mạnh Tử đề cao  
cá nhân con người trong xã hội , nâng cao vai trò xã hội của con người, cho ta  
thây ông r©t quan tâm đến con người trong phát triển hội còn vua chóa«ng  
xªp s¨u cá nhân con người .  
Trong thời kỳ cổ đại mặc dù trình độ sản xuất còn đơn giản, trình độ tư  
duy lý luận còn nhiều hạn chế, các triết gia cổ đại đã đề cập rất sớm đến quyền  
tự do ngôn luận, bình đẳng, bảo kẻ yếu, đề cao nhân cách cá nhân. Những  
luận điểm tiến bộ này chỉ được khi loài người tồn tại trong một nền văn minh  
nhất định, khi xã hội được tổ chức chặt chẽ. Nhưng các quan điểm trên thiên về  
các quyền tự nhiên chưa ràng buộc chặt chẽ bởi pháp luật.  
Thời trung đại. thời kỳ của nhà thờ và giáo lý, thần quyền thỊ quyền  
bóp nghẹt cuộc sống của nhân loại. Những giá trị tiến bộ buổi ban con người  
đạt được về nhân quyền bị giai cấp thống trị bóp nghẹt và thay vào đó cường  
quyền và thiên quyền, con người phải sống với những tín điều, niềm tin vào thế  
lực siêu nhiên thần ngột ngạt đầy bất công. Nhưng chính trong vòng kìm  
hãm đó đã tiềm ẩn mầm mống của đấu tranh, con người vùng lên để đòi lại  
những quyền của con người. Nhà nước vi phạm quyền con người thì vấn đề  
quyền con người được đặt ra trên hết.  
Thời cận đại. Đến thế kû XVI trở đi, quan hệ sản xuất TBCN ra đời và  
phát triển. Sự tồn tại của nhà thờ chế độ phong kiến trở thành vật cản cho tiến  
3
   
trình tự do phát triển kinh tế TBCN. Giai cấp tư sản sứ mệnh tuyên chiến với  
nhà thờ vương triều phong kiến để mở đường cho lịch sử tiến lên. Đến thế kû  
XVII-XVIII, quyền con người được các học giả tư sản bàn đến nh- một học  
thuyết. Các trường phái , các quan điểm của các học giả tư sản thời kỳ này có  
những điểm tương đồng hoặc khác biệt nhau nên ta có thể chia ra các trường  
phái sau:  
Trường phái pháp luật tự nhiên với các đại diện tiêu biểu:  
Spinoda(1632-1670)  
G.Locke(1632-1704)  
Kant¬(1724-1804)  
Các ông quan niệm rằng:”Quyền con người đặc quyền tự nhiên. Đặc  
quyền tự nhiên này do có pháp luật tự nhiên cao hơn pháp luật thực định”.  
G.Locke đã nêu ra và lập luận các quyền cơ bản, quyền tự nhiên của con  
người bao gồm quyền sống, quyền được tự do và quyền có tài sản. Thuyết pháp  
luật tự nhiên ra đời trong điều kiện hội châu Âu phong kiến khi mà thần  
quyền thỊ quyền ở đỉnh cao của sự thống trị, nhân dân lao động đang trong  
thỊ tận cùng của sự dịch cho nên họ bị liên minh thần quyền thỊ quyền chà  
đạp vi phạm quyền con người. vậy, trong ý nghĩ ban đầu Thuyết pháp luật tự  
nhiên ra đời nhằm đáp ứng nhu cầu tự do của con người khẳng định quyền con  
người tự nhiên , vốn nhằm đối lập phủ nhận quan niệm quyền con người  
do vương quyền thần quyền ban phát. Quyền tự nhiên, pháp luật tự nhiên  
một mặt nhằm đói lập phủ nhận quyền lực nhà nước phong kiến mặt khác  
đối lập phủ nhận quyền lực, luật lệ của nhà thờ Thiên chúa  
Trường phái pháp luật tự nhiên đã xây dựng được một cách vững chắc  
nguyên tắc bảo vệ quyền cá nhân con người trước quyền lực. Học thuyết này đã  
được các cuộc cách mạng tiến bộ ghi nhận nh- sự hoàn thiện học thuyết nhân  
quyền. Đó năm 1629, Nghị viện Anh ra yêu sách “về các quyền”, đến năm  
1689 sau cách mạng tư sản, yêu sách được ghi nhận vào pháp luật về các quyền.  
Năm 1776, “Tuyên ngôn độc lập” của khẳng định bảo vệ các quyền  
con người. “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hoá cho họ  
những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ©y có quyền  
được sống quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.Năm 1789 “Tuyên  
ngôn nhân quyền và dân quyền” của Pháp khẳng định các quyền con người.  
“Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, phải luôn luôn tự do và  
bình đẳng về quyền lợi”.Phải đến năm 1948 khi công ức quốc tế vỊ nhân quyên  
của Liên hợp quốc ra đời đánh dấu sự hoàn thiện cũng như mức độ phổ biến của  
học thuyết nhân quyền.  
Các học giả trường phái này cho rằng: nhân quyền một giá trị nhân  
loại, được hình thành trong lịch sử với cuộc đấu tranh giai cấp. Qua các thời  
đại khác nhau nhân quyền được bổ sung dần đầy đủ. Nhân quyền không phải là  
4
quyền cá nhân con người mang tính bẩm sinh tự nhiên mà luôn gắn liền với  
cuộc đấu tranh chống áp bức bóc lột, chống bất công xã hội, chịu sự chi phối của  
chế độ kinh tế, chính trị của nhà nước nhất định. Như vậy là khi chưa có nhà  
nước, khi nhà nước chưa ra đời thì nhân quyền chưa bàn đến. Chỉ khi nào xã hội  
có giai cấp, nhà nước ra đời và có sự vi phạm quyền con người thì vấn đề nhân  
quyền mới được đặt ra.ở đây một nghịch rằng nhà nước là công cụ trấn áp  
giai cấp này với giai cấp khác thì nó luôn luôn có thể vi phạm đến các quyền con  
người. Mặt khác nhà nước đóng vai trò là người đại diện hội đẻ ghi nhận, xử  
lý các vi phạm quyền con người trong xã hội. Nhưng “con người động vật  
chính trị”1, con người cần đến hội để tồn tại và phát triển. hội cần có  
quÒn lực để điều hoà, trấn áp các mối quan hệ hội. Trong xã hội luôn tồn tại  
giai cấp, tập đoàn nhưng mâu thuẫn, đối kháng nhau về lợi ích nhất định. Quyền  
lực dẫn đến xung đột khi giải quyết các xung dột thì phải cần đến quyền lực.  
Nh- vậy quyền lực giúp con người giải quyết các mâu thuẫn phức tạp, bảo vệ  
con người để con người được tồn tại, được cứu trợ…  
Từ những nghịch lý mâu thuẫn trên các nhà tư tưởng cận đại đưa ra hai  
khuynh hướng giải quyết sau:  
- Khuynh hướng thu hẹp: “quyền lực nhà nước cần phải thu hẹp  
lại”.Đây điều kiện để thoả mãn yêu sách của từng cá nhân nhằm bảo đảm sự  
an toàn của từng cá nhân tự do tư tưởng.  
- Khuynh hướng mở rộng:“tăng cường hơn nữa quyền lực nhà nước”,  
thiết lập quyền lực dân chủ chống cực quyền để đảm bảo thoả mãn yêu sách về  
các quyền của con người.  
Nhưng mở rộng hay thu hẹp các quyền con người trong xã hội tư bản  
chỉ bàn trên lý thuyết và ghi nhận thành văn trong tuyên ngôn của cac cuộc cách  
mạng như Anh, Mỹ(1776), Pháp(1789) của giai cấp tư sản. Thực chất nhân  
quyền sự bình đẳng nhân quyền đó chỉ có trong giai cấp tư sản bởi phương  
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa chấp nhận sự bóc lét, có giai cấp bóc lột ,có  
giai cấp bị bóc lột. Có bóc lột thì có áp bức giai cấp các quyền tự do bình đẳng.  
Trong xã hội có áp bức giai cấp hiển nhiên sẽ bị vi phạm và không có nếu có thì  
chăng chỉ trong nội bộ giai cấp có chung quyền lợi. Giai cấp tư sản trong xã  
hội tư bản chiếm một số ít và tập trung trong tay mình toàn bộ tư liệu sản xuất  
như vậy đặc quyền sẽ tập trung vào tay thiểu số tư bản- giai cấp thống trị ,  
còn đa số nhân dân lao động không hề được đảm bảo các quyền cơ bản. Những  
tuyên ngôn hoa mü kia có ghi nhận quyền con người đầy đủ đến đâu thì nhân  
quyền vẫn bchà đạp. Đại đa số quần chúng nhân dân lao động vẫn rên xiết dưới  
ách kìm kẹp của chủ nghĩa tư bản.  
Chủ nghĩa Mác – Lê nin đã chỉ ra rằng muốn xoá bỏ vi phạm nhân quyền  
đó thì phải xoá bỏ chế độ đặc quyền sở hữu tư liệu sản xuất, thì mới biến quyền  
con người từ thuyết thành hiện thực, để quyền con người thực thi đầy đủ cân  
1 1 ArÜtt«t  
5
bằng phải xây dựng một nhà nước chung giai cấp, điều hoà giai cấp. Học thuyết  
Mác – Lê nin về nhân quyền ra đời đã đánh dấu sự hoàn thiện học thuyết nhân  
quyền. Học thuyết Mác-Lênin là một chỉnh thể thống nhất thể hiện những tư  
tưởng nhân văn chân chính nhất của loài người. Học thuyết ấy sự kế thừa một  
cách biện chứng những giá trị tinh hoa của nhân loại về con người quyền con  
người. C.Mác đã xuất phát từ con người một thực thể thông nhất, một “sinh  
vật hội”. Do đó quyền con người sự thống nhất biện chứng giữa “quyền tự  
nhiên”-những đặc quyền vốn chỉ có con người mới có và “quyền hội” tức là  
sự chế định bằng các quy chế pháp lý nhằm điều chỉnh các mối quan hệ hội.  
Sự thống nhất giữa hai yếu tố đó thể thấy trong lý luận của chủ nghĩa  
Mác-Lênin về quyền con người. C.Mác cho rằng, con người sản phẩm cao  
nhất của tiến trình vận động và phát triển của lịch sử, một mặt sản phẩm của  
những điều kiện tự nhiên xung quanh trong suốt cuộc đời, và do đó lại chính xã  
hội sản sinh ra con người. vậy bản thân con người sự thống nhất giữa mặt  
tự nhiên và mặt hội. Trong mọi trường hợp con người luôn luôn là động vật  
hội. Từ đó việc giải quyết nhu cầu của mỗi cá nhân chỉ thể đúng khi đặt nó  
trong quan hệ hội, bởi chỉ có trong cộng đồng thì mỗi cá nhân mới có  
những điều kiện, phương tiện để phát triển toàn diện những kh¼ năng của mình,  
chỉ có trong cộng đồng mới tự do cá nhân.Phải giải phóng con người, giải  
phóng khái sự ràng buộc của tư bản bất công, trói buộc con người trong những  
guồng quay máy móc, xây dựng một hội mới không còn bất công, xã hội đó  
phải đảm bảo cho các quyền con người thực hiện đầy đủ nhất.  
Sự phát triển học thuyết nhân quyền của Mác-Ănghen sau này được V.I.  
Lênin- nhà cách mạng thiên tài đã kế thừa và phát triển học thuyết, tư tưởng của  
Mác về quyền con người khẳng định rằng “giai cấp sản không thể tự giải  
phóng bản thân mình nếu không tiêu diệt tất cả các điều kiện phi nhân quyền của  
đời sống trong xã hội hiện nay”. Nghiên cứu các quyền tự nhiên mà chủ nghĩa tư  
bản khẳng định trong các Tuyên ngôn ,các văn bản pháp lý… Lênin chỉ ra rằng:  
“quyền con người những đặc quyền tự nhiên mà con người chưa phải đã là  
quyền con người”. Để đạt tới quyền thì phải có quy chế pháp lý thực hiện các  
đặc quyền tự nhiên, chỉ khi nào được pháp luật ghi nhận điều chỉnh thì đó  
mới quyền con người, không có pháp luật thì không có quyền. Quan điểm trên  
của Lênin đã chỉ ra rằng quan niệm của thuyết pháp luật tự nhiên về quyền con  
người gắn với thiết chế quyền lực nhà nước và pháp luật. Đồng thời Lênin cho  
rằng phải xây dựng một chế độ nhà nước chung của giai cấp, điều hoà mọi lợi  
ích xã hội. ở đó mỗi người lao động được hưởng đầy đủ các quyền như nhau,  
bình đẳng như nhau.Và sự thực cách mạng tháng Mười Nga 1917 đã làm được  
điều đó. Cuộc cách mạng này đã xoá bỏ được mọi áp bức bất công của hội  
phong kiến, tư bản, đưa nhân dân lao động lên làm chủ đất nước, làm chủ bản  
thân mình.Một cuộc cách mạng thực sự chuyển đổ về chất bước từ một hội cũ  
tiến lên một hội mới tiến bộ nhất. ở đó các quyền tự nhiên của con người  
được thực hiên đầy đủ trong hiến pháp và pháp luật. Thành tựu bảy mươi năm  
6
xây dựng chế độ mới chế độ hội chủ nghĩa đã khẳng định thành tựu nhân  
quyền đích thực hội chủ nghĩa. Cuộc sống con người được tự do phát triển và  
quan tâm đúng mức. Thành công trong xây dựng nhân quyền các nước hội  
chủ nghĩa Liên Xô, Đông Âu là bài học cho chúng ta hôm nay xây dựng và hoàn  
thiện học thuyết này ở Việt Nam và các nước hội chủ nghĩa trên thế giới.  
1.2. Khái niệm nhân quyền.  
Nhân quyền được các học giả nghiên cứu từ rất sớm, mỗi một giai đoạn  
khái niệm về nhân quyền có thay đổi rất nhiều. Sự thay đổi ấy do điều kiện kinh  
tế hội giai đoạn lịch sử đó quy định. Để xây dựng khái niÖn nhân quyền đúng  
nhất, ta nghiên cứu thuộc tính cơ bản nhất của quyền con người trên quan điểm  
chủ nghĩa Mác-Lênin.  
-Tính lịch sử của quyền con người. Khi xã hội có áp bức, có vi phạm  
nhân quyền ắt đấu tranh nhân quyền. Như vậy nhân quyền ra đời trong cuộc  
đấu tranh chống áp bức bóc lột, C.Mác chỉ ra rằng “quyền con người không phải  
là khái niệm trừu tượng cũng không chỉ quyền tự nhiên mà luôn gắn với  
đấu tranh giai cấp”. Tuỳ vào tính chất, phạm vi nhân quyền trong mỗi giai đoạn  
lịch sử khác nhau là khác nhau nghĩa quyền con người phụ thuộc vào phương  
thức sản xuất với quan hệ sản xuất quy định nên chế độ chính trị hội ấy.  
-Tính giai cấp của quyền con người. Trong xã hội có giai cấp, có áp bức  
giai cấp thì tự do cho giai cấp này là sự mất tự do của giai cấp đối lập. Trong xã  
hội có giai cấp đối kháng thì nhất định không có sự bình đẳng. Sự bình đẳng chỉ  
có trong nội bộ giai cấp cùng quyền lợi. Trong xã hội tư bản chủ nghĩa sự đối  
kháng bóc lột giai cấp thì tất nhiên quần chúng bị bóc lột không có nhân quyền.  
Chỉ khi nào xã hội tiến bộ, ở hội ấy không còn áp bức mọi người làm chủ tư  
liệu sản xuất , xoá bỏ giai cấp thì tất yếu nhân quyền được thực thi đầy đủ.  
Nhân quyền mang tính nhân loại sâu sắc.Bởi nhân quyền cuộc đấu  
tranh của toàn thể nhân dân lao động đập tan ách thông trị của phong kiến đế  
quốc giành lại tự do cho chính mình, là giá trị nhân văn cao quý mà xã hội  
hướng tới, giải phóng cá nhân con người để con người điều kiện phát triển  
nhân cách của mình. Điều đó không chỉ thực hiện ở một quốc gia, dân tộc mà  
phải thực hiện trên toàn thế giới ở tất cả các quốc gia.  
Từ những thuộc tính trên từ điển tiếng việt đã nêu nên định nghĩa nhân  
quyền như sau: “quyền lợi lộc được hưởng do ®i¹ vị đem lại” quyền con  
người nhưng đặc quyền chỉ con người mới mới được hưởng . Nhân  
quyền những giá trị gắn với mỗi con người với tư cách là cá nhân trong xã hội  
nhất định Quyền con người vừa mang thuộc tính cá nhân, vừa thể hiện lợi ích  
quốc gia dân tộc cộng đồng. Quyền con người ®-¬c hội hoá bằng pháp luật  
cụ thể, pháp luật ghi nhận các quyền của con người không phân biệt dân tộc, tôn  
giáo, giai cấp và phái phù hợp với chế độ chính trị, lịch sử , xã hội cụ thể. Chỉ  
thông qua pháp luật thì các quyền con người mới được khăng định đảm bảo  
thành hiện thực trong th-c tiễn.  
7
 
Từ những phân tích trên ta có thể ghi nhận rằng: quyền con người là  
những đặc lợi vốn tự nhiên đạt được trong các quan hệ hội, được pháp luật  
thừa nhận, chỉ con người mới được hưởng trong những điều kiện chính trị ,  
kinh tê, văn hoá nhất định.  
II. NHỮNG THÀNH TỰU VỀ QUYỀN CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM  
2.1.Thực trạng nhân quyền ở Việt Nam trước năm 1945.  
Khi giai cấp ra đời, nhà nước ra đời, có giai cấp thống trị và có giai cấp bị  
thống trị. Giai cấp thống trị luôn tìm cách bóc lột giai cấp bị trị đem lại lợi ích  
phục vụ cho mình. Trong chừng mực nhất định sự dung hoà giai cấp trong xã  
hội thì không có đấu tranh giai cấp. Chỉ đến khi giai cấp thống trị bóc lột quá  
mức nẩy sinh mâu thuẫn hội vi phạm quyền tối thiểu của con người khi đó sẽ  
đấu tranh giai cấp, đấu tranh cho chính quyền sống của mình. ở Việt Nam  
trong xã hội phong kiến có phân tầng hội tuy không rõ ràng nh- các nước  
phương tây nhưng trong xã hội có giai cấp ắt đấu tranh giai cấp. hội  
phong kiến Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược 1858 chế độ phong kiến  
trị giai đoạn đầu thời ,Trần, Lê phát triển thịnh đạt thì nhìn chung nhân dân  
sống trong yên ấm. Xét trong một số văn ban pháp luật chiếu thư đề cập  
đến các quyền con người nh-:  
Chiếu cấm mua bán nô tú năm 1499 của Hiến Tông “từ nay trở đi cấm  
dân không được cướp mua người Man và buôn bán nô tú. Ai vi phạm thì cho  
phép hữu ty ho¨c xét trị tội”1 quy định này ra đời trong khi nạn mua bán cướp  
bóc nô tú đang diễn ra có thể nói quy định này rất tiến bộ đã đề cập đến quyền  
của con người quyền tự do bình đẳng con người không phải đồ vật mua bán  
trao đổi ngoài xã hội . Nếu so sánh với điều 4 tuyên ngôn thế giới vnhân quyền  
thì điêu quy định trên rất tương xứng “không ai bị giữ làm nô lệ hoặc bị nô  
dịch, chế đlệ hoặc buôn bán nô lệ dưới mọi hình thức đều bị cấm”2  
Năm 1511 chiếu về bảo vệ quyền bất khả xâm phạm về thân thể, quyền sở  
hữu tài sản, nhân phẩm, danh dự của con người được ban hành quy định rõ:  
“…trong thiên hạ bọn gian phi, ác đảng vẫn mua bán tú thiếp xâm chiếm  
ruộng đất của dân, cướp do¹t tiền tài của dân, d¸nh đập lương dân, trêu ghẹo đàn  
bà con gái ngang ngược hung bạo quấy nhiễu dân mọi. Những kẻ ấy thì cho  
người bị hại và các xã phường, thôn trö¬ng áp giải đến tố cáo với các quan thừa  
hiến, châu, huyện để tÊu lên trị tội theo pháp luật nếu các quan không chịu xét  
hỏi thì tÊu lên bộ hình xét hỏi cả hai”3. Ngoài ra còn một số chiếu chỉ, sắc lệnh  
về việc cấm đánh đập người làm công, lính, thợ, chiếu chỉ đối đãi tù nhân.  
Những quy định tiến bộ của chế độ phong kiến Việt Nam thời hưng thịnh đánh  
dấu bước phát triển vượt bậc về vấn đề nhân quyền, quyền cơ bản nhất của con  
người được chế độ phong kiến quan tâm quy định đúng đắn. Đó điểm tiến bộ  
1 V¨n kiÖn quèc tÕ vÒ quyÒn con ng-êi.Trung t©m nghiªn c-u vª quyÒn con ng-¬i.Nxb.Chinh tri quèc gia,HN  
2004  
2 .3. §¹i viÖt sö kÝ toÇn th-. Ng« SÜ Liªn .t3. tr20.tr61.NXBKHXHNV.Hn  
8
   
của pháp luật phong kiến Việt Nam được thế giới đánh giá cao. Việc bảo vệ các  
quyền cơ bản của con người được cha ông ta quan tâm thể hiện truyền thống  
nhân văn trong việc đối xử với con người của dân tộc ta.  
Quyền của con người được chế độ phong kiến Việt Nam đề cập sớm và  
bước đầu thực hiện song nhìn chung chưa được phổ biến rộng rãi và kết quả đạt  
được chưa cao do đó còn hạn chế. Nhưng nhìn chung trong điều kiện lịch sử  
thời bấy giờ được tư tưởng tiến bộ đó thật đáng trân trọng.  
Năm 1858 thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, triều đình nhà  
Nguyễn đã đầu hàng nhanh chóng dâng nước ta cho giặc. Chế độ phong kiến  
Việt Nam xuống dốc, mâu thuẫn giai cấp nông dân- phong kiến thực dân đã ở  
vào đỉnh điểm. Thực dân Pháp là kẻ thù xâm lược mới, một nước tư bản chủ  
nghĩa có quân đội mạnh nhà nghề, lại được trang bị vũ khí và phương tiện chiến  
tranh hiện đại, tiềm lực kinh tế mạnh. Bám lấy quyền lợi ích kỉ giai cấp  
phong kiến Việt Nam đã đầu hàng thực dân Pháp, phản bội lại lợi ích của quốc  
gia dân tộc bán nước ta cho Pháp.  
Về kinh tế: Sau khi xâm chiếm hầu hết các tỉnh ổn định tình hình chính  
trị, dÍp các cuộc bạo đọng khởi nghĩa thực dân Pháp bắt tay vào công cuộc khai  
thác thuộc địa béo bở Đông Dương. Để bóc lột được lợi nhuận tối đa ở thuộc địa  
Pháp thực hẹn chính sách kinh tế thực dân rất bảo thủ phản động “duy trì  
phương thức sản xuất phong kiến kết hợp với việc thiết lập một cách hạn chế  
phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa”1 chính quyền thực dân đặc biệt coi trọng  
thủ đoạn bóc lột phi kinh tế thời trung cổ, đó chế độ thuế khoá vô cùng nặng  
nề hết sức vô lÝ: thuế thân, thuế chợ, thuế đò, thuế cư trú, thuế đinh…hàng  
trăm thứ thuế “tính bình quân mỗi người Việt Nam trong một năm phải đóng  
thuế cho chính quyền thực dân số tiền ngang với số tiền công lao động của họ từ  
hai đến ba tháng”2.  
Để đảm bảo thực hiện mục tiêu kinh tế, thực dân Pháp thực hiện chuyên  
chế về chính trị. Chóng dùng lối cai trị trực tiếp, thẳng tay đàn áp, chóng tuyệt  
đối không cho nhân dân ta chút quyền tự do dân chủ nào. Thực dân Ph¸op thực  
hiện chính sách chia để trị, chóng chia nước ta thành ba kỳ với ba chế độ cai trị  
khác nhau, ngăn sông cấm chợ, cấm buôn bán, việc đi lại giữa ba kỳ Bắc, Trung,  
Nam phải xin giấy phép của chính quyền sở tại.  
Về văn hoá: Thực dân pháp ra sức thực hiện văn hoá nô dịch, gây tâm lý  
tự ti dân tộc, phát triển tôn giáo, mê tín dị đoan dể nmª hoặc, đem văn hoá phản  
động đồi trụy để hoặc nhân dân ta. Chóng ngăn chặn mọi ảnh hưởng của văn  
hoá dân chủ tiến bộ tiên tiến trên thế giới vào Việt Nam. Thực hiện chính sách  
ngu dân triệt để. Các quyền cơ bản của con người nh- quyền bất khả xâm phạm  
về thân thể, quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, tự do hội họp, đi lại…bị vi  
phạm nghiêm trọng. Công nhân lao động bị đánh đập sa thải bất cứ lúc nào, phụ  
1, 2 LÞch sö §¶ng céng s¶n ViÖt Nam. Nxb Sù thËt Hn 1984 t1tr27,tr32  
9
nữ trẻ em bị xúc phạm về thân thể danh dự. Các văn bản ấn phẩm xuất bản bị  
thực đan Pháp kiểm duyệt gắt gao chặt chẽ. Những tư tưởng tiến bộ, sách báo  
nước ngoài bị cấm đoán…  
Nh- vậy các quyền cơ bản nhất của con người bị chính quyền thực dân  
vi phạm nghiêm trọng. Qua nghiên cứu các luật các sắc lệnh thời kỳ đó mới thấy  
con người Việt Nam dưới chế độ thực dân phong kiến trước 1945 bị vi phạm  
nh- sau:  
Thứ nhất: Người Việt Nam không có quyền được sống trong độc lập tự  
do. Những người yêu nước đấu tranh cho độc lập tự do đều bị đàn áp dã man  
“những người cầm binh khí chống lại Đại Pháp đều bị tử hình1.  
Thứ hai: Quyền tdo lập hội, tdo hội họp của nhân dân của cá nhân bị  
cấm đoán “phàm tụ họp một cách bí mật giấu không cho quan trên biết thì phạt  
tù giam và tiền bạc. Những người hội trưởng , hay sáng lập bị phạt gấp đôi nặng  
nhất tử hình”2.  
Thứ ba: Quyền tự do ngôn luận bị cấm đoán mọi người dân trong xã hội  
đều khong có quyền tự do phát ngôn, không được nói những điều mình muốn  
nói, bàn luận nhất nhất phải phục tùng quan trên. Nghiêm cấm tất ccác văn bản  
giấy tờ, hình vẽ, thư từ …cấm các sách báo.  
Thứ tư: Một số quyền con người như quyền bất khả xâm phạm thân thể,  
quyền sở hữu tài sản đi lại, giao lưu…về mặt hình thức được pháp luật bảo vÔ  
nhưng trên thực tế quyền ấy của công dân khong được thực hiện mà có chăng  
chỉ áp dụng trong tầng lớp trên của hội còn quảng đại quần chóng gồng mình  
trong nô lệ đen tối. Điều đó được Hồ Chí Minh phát biểu tại Đại hội đại biểu  
toàn quốc của Đảng hội Pháp họp tại Tua ngày 25-30/12/1920 : “Chúng tôi-  
những người dân An Nam không có quyền tự do báo chí, tự do ngôn luận, ngay  
cả quyền tự do hội họp cũng không có. Chúng tôi không có cả những quyền bất  
khả xâm phạm về thân thể hoặc đi du lịch nước ngoài. Chúng tôi phải sống trong  
cảnh ngu dốt tối tăm vì chúng tôi không có quyền tự do học tập”1.  
2.2. Những thành tựu đạt được về nhân quyền ở Việt Nam sau cách  
mạng tháng 8/ 1945.  
Cách mạng tháng Tám thành công. Một cuộc cách mạng thực sự làm  
biến đổi về chất cho xã hội Việt Nam cuộc cách mạng ấy đã làm thay đổi toàn  
bộ đời sống, chính trị, kinh tế, văn hoá cho nhân dân Việt Nam. Tị thân phận nô  
lệ, thân phận của người dân mất nước phải sống trong tăm tối kìm kẹp, mất tự  
do nay vươn lên làm chủ chính mình, làm chủ quê hương đất nước mình. Từ đó  
nhân quyền được thực hiện đầy đủ.  
1, 2 Bé h×nh luËt ViÖt Nam thêi Ph¸p thuéc .Nxb SµI Gßn (cò)_1962.  
1 Hå ChÝ Minh toµn tËp .Nxb CTQG. Hn_1995. t1 tr22.  
10  
 
Thực tế chứng ming rằng muốn thực hiện được nhân quyền hay nhân  
quyền không bị vi phạm chỉ khi nào con người sống trong độc lập tự do. Cách  
mạng tháng Tám đã làm được điều đó.  
Quyền được sống trong đọc lập tự do là quyền tự nhiên thiêng liêng mà  
mỗi dân tộc, mỗi con người đều được bình đẳng và tôn trọng như nhau. Tuyên  
ngôn độc lập của Mü 1776, Tuyên ngôn dân quyền và Nhân quyền của Đại cách  
mạng tư sản Pháp 1789, Tuyên ngôn độc lập 1945 của Việt Nam do Hồ Chí  
Minh soạn thảo đều khẳng định điều đó: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về  
quyền lợi”. Hồ Chí Minh đã thể hiện ý chí của toàn dân tộc “thà hi sinh tất cả  
chứ nhất định không chịu mất nước không chịu làm nô lệ” (1946) và “không có  
gì quý hơn độc lập tự do”(1966).  
Nước độc lập dân tự do nhân dân ta cùng Đảng, nhà nước bắt tay xây  
dựng chế độ hội chủ nghĩa. ở chế độ chính trị đó con người được giải phóng,  
nhân quyền được thực hiện đầy đủ đúng đắn nhất. Thực tế sáu mươi năm qua  
chúng ta đã gặt hái được những thành tựu đặc sắc về nhân quyền trong các lĩnh  
vực cụ thể nsau:  
Về chính trị:  
Biểu hiện cao nhất của chính trị chế độ nhà nước. Nhân quyền trong  
chính trị được thực hiện đầy đủ khi nhà nước đảm bảo những điều kiện thuận  
lợi. Nhân quyền chỉ biểu hiện đầy đủ nhất khi nhà nước là nhà nước dân chủ.  
Thực tế lịch sử đã chứng minh rằng trong xã hội có giai cấp, đối kháng giai  
cấp, đấu tranh giai cấp chừng nào vấn đề này còn tồn tại thì thực trạng dân  
chủ nhân quyền bị vi phạm, xem nhẹ. Bởi khi đó quyền lực của giai cấp thống  
trị bao trùm chi phối hội. Nhân quyền trong thời điểm này có biểu hiện thì chỉ  
ở dạng ý thức, ước mơ, khát vọng, tưởng của nhân dân lao động mà thôi.  
Nhân quyền muốn đảm bảo thì phải có nhà nước đứng ra can thiệp bảo vệ lợi ích  
chung của nhân dân lao động. Bởi nhà nước một thiết chế một cơ chế chung  
để thực thi vấn đề nhân quyền. Nhà nước tồn tại hiện diện với tư cách là quan  
quyền lực, một tổ chức quyền lực thực thi chức năng quản lý xã hội. Thông qua  
hiến pháp là công cụ sức mạnh để điều chỉnh kiểm soát, cưỡng chế hành vi xã  
hội trong đó thông qua luật pháp vấn đề nhân quyền được thực thi. Song không  
phải chế độ nhà nước nào cũng đảm bảo cho nhân quyền được thực hiện. Nói  
cách khác không phải chế độ nhà nước nào cũng đảm bảo thực hiện nhân quyền  
đầy đủ, cũng tôn trọng thực hiện nhân quyền. Chỉ khi nào lợi ích quốc gia  
dân tộc không nằm trong tay một nhóm người, giai cấp thống trị thuộc về  
liên minh giai cấp thuộc vnhân dân lao động thì vấn đề nhân quyền trong chính  
trị mới được thực hiện đầy đủ. Nước ta là nhà nước của liên minh công- nông –  
trí thức bao nhiêu quyền lợi của dân bao nhiêu lợi ích là của dân. Nhân dân là  
người làm lên nhà nước người xây dựng đất nước. Quyền của nhân dân tham  
gia chính trị biểu hiện cao nhất của nhân quyền.  
11  
Sau khi giành lại được độc lập Hồ Chí Minh đã xây dựng nước ta theo  
chế độ chính trị dân chủ cộng hoà nay là cộng hoà xã hội chủ nghĩa. ở đó nhân  
dân thực hiện nhân quyền của mình bằng việc đầu tiên là đi phiếu bầu người  
lãnh đạo đất nước mình. Cuộc bầu c6/1/1946 đánh đấu mốc son đầu tiên trong  
việc thực hiện nhân quyền về chính trị. Nếu trước đây nhân dân chịu sự áp đặt  
lãnh đạo của thực dân phong kiến nay nhân dân làm chủ đất nước mình qua việc  
bầu đại diện của giai cấp mình ra lãnh đạo đất nước. Trong cuộc bầu cử ấy  
nhân dân có quyền ra ứng cử tham gia xây dựng đất nước Bác nêu rõ “trong  
cuộc tổng tuyển cử, hÔ là người muốn lo việc nước thì đều quyền ra ứng cô,  
hÔ là người công dân thì quyền đi bầu cô”1 .Và từ đó đến nay quyền tham gia  
bầu cử, ứng cử của nhân dân được pháp luật thừa nhận và luôn luôn thực hiện  
đầy đủ nhất. Từ sau cách mạng tháng 8/1945 các quyền tự do hội họp, bàn luận ,  
tham gia đóng góp ý kiến của nhân dân vào xây dựng các dự thảo luật, các bộ  
luật. Nhân dân có quyền bàn bạc, tham gia, đánh giá…..qua mỗi đại hội Đảng,  
qua mỗi họp quốc hội ….Đảng nhà nước đều mở những đợt sinh hoạt chính  
trị sâu rộng trong quần chúng nhân dân, qua đó thu thập ý kiến nhân dân phát  
huy rộng rãi quyền làm chủ của nhân dân, nâng cao ý thức , quyền lợi nhân dân.  
Về kinh tế:  
Cốt lõi của vấn đề nhân quyền trong kinh tế nằm ở lợi ích. Khi lợi ích  
kinh tế của các giai cấp được điều hoà thì tức quyền lợi của con người trong  
kinh tế được thoả đáng. Biểu hiện của lợi ích trong lĩnh vực hoạt động lao động  
sản xuất qua các quan hệ sở hữu, phương thức phân phối, hưởng thụ lợi ích ….là  
mọi người quyền như nhau được lao động, được làm việc và có việc làm.  
Đây một trong những quyền cơ bản của con người. Trong phạm vi quyền này  
con người phải được đảm bảo cả những nhu cầu tồn tại và nhu cầu phát triển  
mọi năng lực sáng tạo. Giải quyết đúng đắn vấn đề lợi ích và các quan hệ lợi ích  
kinh tế giữa con người vời con người trong một chế độ kinh tế một chế độ  
chính trị – xã hội giải quyết tốt nhân tố động lực của sự phát triển dân chủ  
kinh tế cũng như dân chủ hội nói chung. Nó cũng đồng thời điều kiện để  
thực hiện mặt kinh tế của quyền con người quyền công dân. Do đó việc xoá  
bỏ áp bức bóc lột giữa người với người cũng như việc xoá bỏ cơ sở kinh tế xã  
hội sâu xa đẻ ra tình trạng đó (chế độ chiếm hữu tư liệu sản xuất) là quá trình  
giải phóng kinh tế giải phóng sản xuất, thực chất giải phóng con người, xác  
định vị thế tdo của người lao động trong lao động sản xuất.  
Các quyền con người trong lĩnh vực kinh tế được nhà nước thực hiện  
ngày càng đầy đủ nhất là sau giai đoạn đổi mới 1986 với quan điểm giải phóng  
hơn nữa sức sản xuất, phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần định hướng  
hội chủ nghĩa, đa dạng hoá các hình thức sở hữu và các hình thức phân phối  
lợi ích , gắn tăng trưởng kinh tế với công bằng hội đã bước ngoặt cho  
những chuyển biến thực sự về dân chủ nhân quyền trong phát triển kinh tế. Việc  
1 Hå ChÝ Minh toÇn tËp. Nxb sù thËt. Hn 1984 t4 tr72  
12  
đa ®¹ng hoá các thành phần kinh tế đồng nghĩa với việc tạo thêm nhiều việc  
làm mới, nhiều lĩnh vực làm việc, từ đó thực thi quyền việc làm, quyền được  
làm việc, được lựa chọn nghề nghiệp, được tự do sản xuất, kinh doanh trong  
khuôn khổ pháp luật cho phép. Liên quan đến nó là các quyền tự do đi lại , tự do  
trú, quyền có tài sản được pháp luật bảo vệ có tài sản của cải do thu nhập  
chính đáng tạo ra. Cùng với đó đổi mới tư duy kinh tế, đổi mới mô hình kinh  
tế, cơ chế quản lÝ kinh tế đã tạo ra sự phát triển mới mẻ, tích cực chưa từng  
thấy của nền kinh tế hàng hoá. Kết quả sau hai mươi năm đổi mới 1986 – 2005  
diện mạo kinh tế đất nước thay đổi hoàn toàn đã chứng minh cho điền đó .  
Trong những năm gân đây, việc cải tổ nền kinh tế quốc gia, tư hữu hoá  
nền kinh tế cho phép nhân có thể tham gia vào kinh tế nh¸n nước. Việc coi  
trọng phát triển kinh tế tư bản tư nhân (tôn vinh các doanh nhân) la bước tiếp  
theo phát huy tính sáng tạo của nhân dân lao động trong phát triển kinh tế phát  
huy quyền làm chủ tư liệu sản sản xuất của nhân dân lao động , quyền tham gia  
các hoạt động kinh tế của nhân dân . Những thành tựu về nhân quyền trong kinh  
tế bước phát triển tiến bộ thể hiện bản chất tốt đẹp cả chế độ hội chủ nghĩa  
tôn trọng người lao động cũng như quyền làm chủ của họ, công bằng và bình  
đẳng mọi người đều được hưởng quyền lợi như nhau trong tự do phát triển kinh  
tế. Những thành tựu ban đầu cho thấy tính chất tốt đẹp đúng đắn của chế độ  
hội chủ nghĩa mà nhân dân ta đã lựa chọn và xây dựng.  
Văn hoá tư tưởng:  
Văn hoá tư tưởng mục tiêu quan trọng không thể thiếu trong việc thực  
thi nhân quyền. Học vấn và trình độ dân trí phổ biến của hội yếu tố cấu  
thành trình độ văn hoá xã hội, và trình độ phát triển văn hoá của hội.V.I  
Lênin đã nhấn mạnh rằng “Người chữ đứng ngoài chính trị”. Theo đó sự  
kém học vấn thiếu hiểu biết về trình độ khoa học kỹ thuật, tư duy sáng tạo, lý  
luận của người lao động sẽ cản trở họ trong việc tham gia các công việc quản lý  
nhà nước, quản lý kinh tế và xã hội , nghĩa cản trở họ trong việc thực hiện  
quyền dân chủ và làm chủ của mình. Trình độ học vấn, văn hoá của nhân dân  
lao động thấp dễ dẫn đến tình trạng vô chính phủ, coi thường kỉ cương pháp luật  
ở người lao động, còn trong giới lãnh đạo rất dễ dẫn đến quan liêu tham nhũng.  
Hâu quả trực tiếp của dân trí thấp rất dễ dẫn đến tình trạng vi phạm dân chủ vi  
phạm nhân quyền.  
Ngay khi giành được độc lập những việc đầu tiên mà nhà nước Việt  
Nam dân chủ cộng hoà thực hiện là phát triển giáo dục đảm bảo ai ai cũng được  
học hành, phát triển mở rộng trường lớp, hệ thống giáo dục chương trình nội  
dung giáo dục …không ngừng nâng cao trình độ giáo dục, nội dung giáo  
dục…Không ngừng nâng cao trình độ giáo dục,trình độ học vấn cho nhân  
dân,đảm bảo nhà nước tạo mọi điều kiện thuận lợi cho nhân dân được quyền học  
tập. Từ việc nâng cao học vấn, đảm bảo quyền học tập của nhân dân thì việc  
đảm bảo tự do tư tưởng là thành tố căn bản quan trọng nhất của văn hoá. Bởi có  
tự do tư tưởng thì mới đảm bảo mọi khả năng năng lực suy nghĩ độc lập,sáng  
13  
tạo,đảm bảo tự do tư tưởng mới thực sự thúc đẩy phát triển khoa học văn hoá,  
nghệ thuật…bởi chỉ khi nào con người đủ điều kiện phát triển cả vật chất lẫn  
tinh thần thì khi đó những giá trị nhân quyền mới thực sự đúng đắn. Nếu những  
đổi mới về kinh tế đảm bảo những quyền con người ở lĩnh vực này thì sự quan  
tâm phát triển, bảo đảm tự do tư tưởng điều kiện tiếp theo đảm bảo nhân  
quyền trong chế độ hội chủ nghĩa ở Việt Nam.  
Pháp luật phương tiện quản lý xã hội của nhà nước, nhân quyền được  
ghi nhận trong hiến pháp pháp luật đảm bảo pháp lý cho quyền dân chủ,  
quyền làm chủ của con người, quyền công dân và quyền con người không bị vi  
phạm. Nó là cơ sở pháp lý để đấu tranh thực hiện các quyền đó, trừng trị mọi  
hành vi vi phạm.gây tổn hại, chà đạp xúc phạm, xuyên tạc bóp nghẹt những  
quyền của con người. Hiến pháp và pháp luật Việt Nam ghi nhận mọi vấn đề về  
quyền con người. Tháng 9 năm 1945 cách mạng nước ta thành công. Ngày 6  
tháng 1 năm 1946 cuộc tổng tuyển cử bầu quốc hội đầu tiên diễn ra trong không  
khí dân chủ bình đẳng tự do. Quốc hội khoá I thông qua bản hiến pháp đầu tiên-  
Hiến pháp 1946.Trong hiến pháp này những quyền con người lần đầu tiên được  
nhà nước ta chính thức ghi nhận với tính chất là các quyền công dân.Quyền bình  
đẳng được quy định tại điều 6 “tất cả mọi công dân Việt Nam đều ngang quyền  
về mọi phương diện chính trị, kinh tế, văn hoá”. Điều 7 quy định cụ thể hơn “tất  
cả mọi công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia  
chính quyền và công việc kiến quốc tuỳ theo tài năng đức hạnh của mình”.  
Điều 10 Hiến pháp 46 ghi nhận năm quyền con người với tính chất quyền  
công dân: “công dân Việt Nam quyền:  
-Tự do ngôn luận .  
-Tự do xuất bản.  
-Tự do tổ chức lập hội.  
-Tự do tín ngưỡng.  
-Tự do trú, đi lại trong nước và ra nước ngoài.”  
Các quyền bất khả xâm phạm về thân thể, nhà ở, thư tín, quyền tư hữu  
tài sản, quyền nói tiếng của dân tộc mình, quyền được học tập, quyền không bị  
tra tấn, đánh đập, ngược đãi, quyền được tham gia chính trị, bầu cử, ứng  
cử…Đều được ghi nhận. thể nói việc nhà nước ta ghi nhận về mặt pháp lý  
những quyền con người nói trên ngay sau khi mới giành được chính quyền thể  
hiện tính chất ưu việt tiến bộ của chế độ mới. Cùng với sự phát triển của cách  
mạng nội dung nhân quyền trong hiến pháp của nước ta ngày càng ghi nhận  
hoàn thiện Hiến pháp 1959, 1980, 1992 ghi nhận thêm các quyền: khiếu nại tố  
cáo, tự do nghiên cứu khoa học, sáng tạo nghệ thuật, quyền được an nghỉ, quyền  
tự do ngôn luận báo chí xuất bản, lập hội, biểu tình(1989). Các quyền công dân  
tham gia công việc quản lý nhà nước(1980). Các quyền tham gia thảo luận các  
vấn đề chung của nhà nước, quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu về thu nhập,  
14  
quyền có tài sản để dành, quyền tư liệu sản xuất, các quyền về tội pham xử  
phạt, quyền tội của con người, quyền được bồi thường thiệt hại khi đấu tố  
bắt sai, xét xử sai trước pháp luật…Các quyền con người được hiến pháp và  
pháp luật Việt Nam ghi nhận phù hợp với công ước quốc tế tiến bộ về quyền con  
người cho thấy Đảng nhà nước ta luôn luôn quan tâm và thực hiện đúng chức  
năng đảm bảo nhân quyền công dân Việt Nam.  
2.3. Những hạn chế giải pháp nâng cao hơn nữa việc thực thi nhân  
quyền ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.  
Những thành tựu đặc sắc trong việc thực thi nhân quyền ở Việt Nam từ  
1945 đến nay đã thể hiện bản chất chế độ mới chế độ hội chủ nghĩa, chế độ  
người dân làm chủ vận mệnh dân tộc đất nước mình. ở chế độ mới ấy các quyền  
con người được đảm bảo, đời sống vật chất ngày càng đầy đủ, đời sống tinh thần  
được phát huy đảm bảo, giáo dục, y tế, các dịch vụ công cộng ngày càng phát  
triển đầy đủ và hoàn thiện hơn trước phục vụ cuộc sống và nhu cầu của nhân dân  
…Sáu mươi năm vây dựng và phát triển, mặc bị tàn phá của các cuộc chiến  
tranh, bị các thế lực thù dịch chống phá, công kích bôi nhọ, xuyên tạc…nhưng  
những thành tựu về nhân quyền ở Việt Nam không thể phủ nhận được.  
Bên cạnh những thành tựu ấy trong quá trình chúng ta thực thi nhân  
quyền không thể không gặp những thiếu sót , hạn chế nhất định. Trong từng giai  
đoạn cụ thể của sáu mươi năm ấy cũng có lúc chúng ta chủ quan duy ý chí, nặng  
về mệnh lệnh nên nhân quyền trong giai đoạn này chưa được thực hiện đúng  
như việc chậm chuyển đổi nền kinh tế chưa thấy hªt sức mạnh của các thành  
phần kinh tế nhất là kinh tế tư bản tư nhân, giới doanh nhân, nặng về kinh tế nhà  
nước, chậm đổi mới tư duy kinh tế. Còn chậm sửa đổi trong thủ tục hành chính  
lối làm việc còn thiếu nhanh nhậy, thiếu khách quan, quan liêu, chuyên quyền,  
cửa quyền, nặng về tư duy bao cấp. Nên ở một số nơi đây đó nhân quyên chưa  
dược thực hiện đầy đủ, bị vi phạm, bị xem nhẹ, tình trạng khiếu kiện các cơ  
quan nhà nước không làm đúng chức năng của mình, tình trạng cán bộ thiếu dân  
chủ, thiếu trách nhiệm, vi phạm quyền lợi của nhân dân dã xẩy ra ở một số  
nơi…Các quyền phát ngôn, biểu tình của nhân dân, tự do ngôn luận…. thực thi  
chưa cao. Sở dĩ những hạn chế trên là do:  
Chúng ta xây dựng chế độ mới hội chủ nghĩa từ xuất phát điểm thấp.  
Từ một nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu với 90% lao động nông nghiªp giản đơn  
cơ sở công nghiệp nhưng không đáng kể, phần lớn lạc hậu hư hỏng nặng.  
duy nông nghiệp manh mún, nhỏ bé , tư tưởng nho giáo phong kiến tuy đã bị  
phá vỡ nhưng những tàn dư của vẫn còn tồn tại trong xã hội. Tư tưởng trọng  
nam khinh nữ gia trưởng chuyên quyền độc đoán, bất bình đẳng vẫn còn bán rễ  
sâu trong quần chóng nhân dân trong đó một bộ phận không nhỏ là cán bộ  
công chức nhà nước. Chúng ta xây dựng chủ nghĩa hội những năm đầu khi  
kháng chiến chống Pháp thắng lợi ta còn kế thừa một nền hành chính phong kiến  
thực dân chuyên quyền độc đoán, tuy đã phá bỏ nhưng những tàn tích là  
15  
 
không thể tránh khỏi. Ta tiếp thu những tinh hoa của chế độ cũ đồng thời xây  
dựng theo một mô hình mới của Liên Xô- Đông Âu một cách máy móc, rập  
khuôn chậm sửa đổi. Hiện nay tuy mô hình xã hội chủ nghĩa Liên Xô- Đông Âu  
không còn nữa ta bước tiếp xây dựng công cuộc hội chủ nghĩa hoàn toàn mới  
mẻ còn nhiều bỡ ngỡ nên những sai lầm, thiếu sót đây đó về nhân quyền là  
không thể tránh khỏi.  
Trong quá trình xây dựng và hoàn thiện con đường hội chủ nghĩa,  
Đảng và nhà nước ta đã liên tục đổi mới, cải tổ để ngày càng đúng đắn, phù hợp  
hơn. Để nâng cao hơn nữa nhân quyền ở Việt Nam, để con người thực sự là  
chủ thể của hội mục tiêu hàng đầu cho sự phát triển kinh tế- hội. Nâng  
cao hơn nữa vị thế, vai trò của con người tức thực thi đầy đủ nhân quyền  
trong xã hội Việt Nam ta cần tham khảo các giải pháp sau :  
Thứ nhất: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, Đảng  
lãnh đạo trực tiếp mọi mặt kinh tế-văn hoá- xã hội…Theo đó Đảng ta phải hoàn  
chỉnh hệ thống các quan điểm, luận, phải luôn tự đổi mới đphù hợp với việc  
phát triển đất nước ta theo con đường hội chủ nghĩa, phù hợp với bản chất  
nhân đạo với xu thế của thế giới hiện đại. Phải xây dựng Đảng ta vững về trí  
tuệ, mạnh về trình độ luận, phát triển vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác-  
Lªnin, tư tưởng HChí Minh vào thực tiễn xây dựng đất nước, đưa đất nước tiến  
kịp khoa học công nghệ…Muốn vậy phải chăm lo phát triển đội ngũ tri thức,  
khai thác tiềm năng của giới khoa học, tạo tiềm lực trí tuệ của Đảng bằng cách  
tiếp tục giải phóng tinh thần, thực hiện tự do tư tưởng, khuyến khích sáng tạo.  
Thứ hai: Phát triển kinh tế, văn hoá, giáo dục.  
Về kinh tế: Cho phép phát triển rộng rãi các thành phần kinh tế phù hợp  
với hiến pháp, pháp luật, chăm lo phát triển kin tế nông thôn, tạo thêm việc làm  
cho người lao động, tiếp tục nâng cao hơn nữa sự nghiệp công nghiệp hoá và  
hiện đại hoá đất nước để xây dựng nền kinh tế phát triển trong đó nâng cao đời  
sống vật chất, văn hoá tinh thần của nhân dân là con đường đúng nhất đi đến  
đảm bảo công bằng, đảm bảo nhân quyền…  
Về văn hoá- giáo dục: Nâng cao dân trí bằng mở mang các sinh hoạt  
văn hoá để nhân dân tiếp cận những giá trị văn hoá, nâng cao nhận thức, tầm  
hiểu biết của mình, nhân dân tự thay đổi tiếp thu những giá trị tiến bộ, từ đó tự  
đấu tranh đòi đảm bảo thực hiện đầy đủ các quyền của mình được hưởng.Từ đó  
nhân dân xây dựng các chuẩn mực văn hoá, giá trị, lối sống thành những quy tắc  
ứng xử của một hội văn minh.  
Thứ ba: Tiếp tục thực hiện cải cách hành chính, xây dựng một nền hành  
chính thực sự dân chủ hiện đại phù hợp với trình độ phát triển hội, đáp ứng  
nhu cầu phát triển của đất nước.Hoàn thiện bộ máy nhà nước,xây dựng cơ chế  
quản lÝ nhà nước đảm bảo dân chủ nhân quyền. Xây dựng nhà nước pháp  
16  
quyền hội chủ nghĩa với luật pháp hiện đại, phù hợp đảm bảo cương trật tự  
hội đảm bảo các quyền công dân.  
Thứ tư: Triển khai nghiên cøukhoa học vấn đề nhân quyền trên mọi khía  
cạnh mọi góc độ. Đồng thời tổ chức giảng dạy, giáo dục về dân chủ và nhân  
quyền tương xứng với vị trí, tầm vóc của nó trong đời sống hội với sự quan  
tâm đầu tư thích đáng.  
17  
KẾT LUẬN  
Nhân quyền vấn đề lịch sử phát triển lâu dài và nội dung rộng lớn, là  
vấn đề nhạy cảm, phức tạp bởi gắn với các chế độ chính trị khác nhau. Nhân  
quyền hiện tại đang trở thành vấn đề quan trọng trong chính sách đối ngoại của  
các nước phương Tây: “Ngoại giao nhân quyền” trở thành một nội dung quan  
trọng trong học thuyết nhân quyền ở các nước này. Quyền con người đang là  
vấn đề chính trị, pháp lý nhạy cảm, lĩnh vực vừa hợp tác vừa đấu tranh trong  
quan hệ chính trị quốc tế đương đại.  
Trong chiến lược “diễn biến hoà bình”, các thế lực thù địch đang ra sức  
sử dụng vấn đề quyền con người họ gọi “vấn đề nhân quyền” như một  
công cụ quan trọng để can thiệp, phá hoại công việc nội bộ của các nước hội  
chủ nghĩa và các nước độc lập dân tộc. Đối với nước ta, dưới chiêu bài bảo vệ  
“nhân quyền” các thế lực thù địch trong và ngoài nước sự giật dây của đế  
quốc tư bản bên ngoài tăng cường tiến hành hoạt động phá hoại tư tưởng, tuyên  
truyền cho nền dân chủ tư sản những quan điểm giá trị của phương Tây vu  
cáo, bôi nhọ hội chủ nghĩa sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.  
Để đấu tranh có hiệu quả với âm mưu thâm độc của các thế lực thù địch  
trong chiến lược “diễn biến hoà bình” nói chung, vấn đề “nhân quyền” nói riêng,  
cần tiến hành đồng bộ các biện pháp như tổ chức nghiên cứu về quyền con  
người, phát triển các tư tưởng nhân đạo giải phóng con người của chủ nghĩa  
Mác- Lênin, của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, làm rõ sự khác nhau giữa  
quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lªnin với quan điểm tư sản về quyền con  
người.Trong đó việc nghiên cứu đánh giá những thành tựu đạt được của nhân  
dân ta, của nhà nước ta về xây dựng nhân quyền trong sáu mươi năm qua.  
Khẳng định cho bước phát triển nhân quyền, khẳng định bản chất tốt đẹp và tính  
chất đúng đắn của nhà nước ta nhằm bác bỏ những luận điệu xuyên tạc vu  
khống, chống phá của các thế lực thù địch nước ngoài, bác bỏ những quan điển  
sai trái và hoàn thiện hơn nữa vấn đề nhân quyền ở Việt Nam có ý nghĩa hết sức  
quan trọng.  
18  
 
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Hoàng Chí Bảo: Dân chủ và nhân quyền. Luận văn viện CNXH khoa học,  
T4/1994.  
2. Hoàng Chí Bảo: Chủ nghĩa hội và nhân quyền. Báo Nhân dân 9/11/1992.  
3. Trần Ngọc Đường: Bàn về quyền con người, quyền công dân. Nxb. Chính trị  
quốc gia, Hà Nội 2004.  
4. Đỗ Đức Minh: Dân chủ và nhân quyền trong tiến trình phát triển của lịch sử.  
Tạp chí khoa học chính trị T4/2004 .  
5.Trần Quang Tiệp: Bảo vệ con người trong luật hình sự Việt Nam. Nxb. Chính  
trị quốc gia,Hà Nội 2003.  
6. Ngô Liên: Đại Việt sử kÝ toàn thư, Nxb Khoa học hội và Nhân văn.  
19  
 
20  
doc 20 trang yennguyen 31/03/2022 5380
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Những thành tựu nhân quyền ở Việt Nam từ sau cách mạng tháng Tám đến nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • doctieu_luan_nhung_thanh_tuu_nhan_quyen_o_viet_nam_tu_sau_cach.doc