Chuyên đề Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân

CHUYÊN ĐỀ 4  
XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN  
HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN  
(Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch Ngành kiểm tra của Đảng năm 2018)  
-----  
I. CƠ SỞ LUẬN VỀ NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ NHÀ NƯỚC  
PHÁP QUYỀN HỘI CHỦ NGHĨA  
1. Khái quát sự hình thành và nội dung tư tưởng về Nhà nước pháp  
quyền trong lịch sử nhân loại  
1.1. Sự hình thành và phát triển của tư tưởng nhà nước pháp quyền  
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền luôn gắn liền với tư tưởng phát triển dân  
chủ đã hình thành ngay từ thời cổ đại, thể hiện trong quan điểm của các nhà tư  
tưởng của thời cổ đại như Xôcrat (469-399 Tr.CN), Arixtốt (384-322 Tr.CN),  
Xixêrôn (l06-43 Tr.CN). Những tư tưởng này đã được các nhà tư tưởng chính trị  
và pháp lý tư bản sau này như John Locke (1632 - 1704), Montesquieu (1698 -  
1755), J.J.Rút-xô (1712 - 1778), I.Kant (1724 - 1804), Hêghen (1770 - 1831)…  
phát triển như một thế giới quan pháp lý mới.  
Cùng với các nhà lý luận nổi tiếng nói trên, nhiều nhà luật học, nhà tư tưởng  
vĩ đại khác cũng đã góp phần phát triển các tư tưởng về Nhà nước pháp quyền như  
Tômát Jepphecxơn (1743 - 1826 - tác giả của Tuyên ngôn độc lập Mỹ năm 1776),  
Tômát Pên (1737 - 1809), Jôn A đam (1735 - 1826)…  
1.2. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền trong ý nghĩa là  
biểu hiện tập trung của một chế độ dân chủ  
Những đặc trưng này được xem là các giá trị phổ biến của nhà nước pháp  
quyền nói chung đã được đề cập trong nhiều quan điểm, học thuyết của các nhà tư  
tưởng, các nhà lý luận chính trị - pháp lý trong lịch sử phát triển các tư tưởng chính  
trị - pháp lý nhân loại.  
Các giá trị phổ biến này được trình bày dưới các dạng thức khác nhau bởi các  
nhà lý luận, phụ thuộc vào lập trường chính trị - pháp lý và quan điểm học thuật  
của từng người. Các trình bày có thể khác nhau, song về bản chất thể quy về các  
giá trị có tính tổng quát sau:  
a) Nhà nước pháp quyền biểu hiện tập trung của chế độ dân chủ. Dân chủ  
vừa bản chất của nhà nước pháp quyền vừa điều kiện, tiền đề của chế độ nhà  
nước.  
1
Mục tiêu của nhà nước pháp quyền là xây dựng thực thi một nền dân chủ,  
đảm bảo quyền lực chính trị thuộc vnhân dân. Nhân dân thực hiện quyền dân chủ  
của mình thông qua dân chủ trực tiếp; dân chủ đại diện.  
b) Nhà nước pháp quyền được tổ chức hoạt động trong khuôn khổ Hiến  
pháp và pháp luật.  
- Hiến pháp và pháp luật luôn giữ vai trò điều chỉnh cơ bản đối với toàn bộ  
hoạt động Nhà nước hoạt động hội, quyết định tính hợp hiến hợp pháp của  
mọi tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước.  
- Tuy nhiên không phải mọi chế độ lập hiến, mọi hệ thống pháp luật đều có  
thể đưa lại khả năng xây dựng nhà nước pháp quyền, chỉ Hiến pháp và hệ  
thống pháp luật dân chủ, công bằng mới thể làm cơ sở cho chế độ pháp quyền  
trong nhà nước và xã hội.  
c) Nhà nước pháp quyền tôn trọng, đcao và đảm bảo quyền con người trong  
mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.  
- Quyền con người là tiêu chí đánh giá tính pháp quyền của chế độ nhà nước.  
Mọi hoạt động của Nhà nước đều phải xuất phát từ sự tôn trọng đảm bảo quyền  
con người, tạo mọi điều kiện cho công dân thực hiện quyền của mình theo đúng  
các quy định của luật pháp.  
- Mối quan hệ giữa cá nhân và nhà nước được xác định chặt chẽ về phương  
diện luật pháp và mang tính bình đẳng. Mô hình quan hệ giữa Nhà nước và cá nhân  
được xác định theo nguyên tắc: Đối với cơ quan nhà nước chỉ được làm những gì  
luật cho phép; đối với công dân được làm tất cả trừ những điều luật cấm.  
d) Quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp quyền được tổ chức thực hiện  
theo các nguyên tắc dân chủ: phân công quyền lực kiểm soát quyền lực. Tính  
chất và cách thức phân công, kiểm soát quyền lực nhà nước rất đa dạng, tuỳ thuộc  
vào chính thể nhà nước ở các nước khác nhau, nhưng đều điểm chung là quyền  
lực nhà nước không thể tập trung vào một người, vào một cơ quan, mà phải được  
phân công (phân chia) giữa các quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập  
pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Đồng thời, việc tổ chức thực thi  
quyền lực phải được kiểm soát chặt chẽ với các cơ chế kiểm soát quyền lực cụ thể  
kể cả bên trong bộ máy nhà nước và bên ngoài bộ máy nhà nước.  
đ) Nhà nước pháp quyền gắn liền với một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp  
luật phù hợp.  
- Nền tảng của nhà nước pháp quyền Hiến pháp và một hệ thống pháp luật  
dân chủ và công bằng, do vậy, một cơ chế bảo vệ Hiến pháp và pháp luật luôn là  
một yêu cầu, một điều kiện cần thiết nhằm đảm bảo cho Hiến pháp, pháp luật luôn  
được tôn trọng, đề cao và tuân thủ nghiêm minh.  
2
- Hình thức phương thức bảo vệ Hiến pháp và pháp luật ở các quốc gia có  
thể đa dạng và khác nhau, nhưng đều hướng tới mục tiêu là bảo đảm địa vị tối cao,  
bất khả xâm phạm của Hiến pháp, loại bỏ hành vi trái với tinh thần và quy định của  
Hiến pháp, không phụ thuộc vào chủ thể của các hành vi này.  
- Đồng thời với bảo vệ Hiến pháp, nhà nước pháp quyền luôn đòi hỏi phải xây  
dựng thực thi một chế độ tư pháp thật sự dân chủ, minh bạch và trong sạch để  
duy trì và bảo vệ pháp chế trong mọi lĩnh vực hoạt động của Nhà nước và xã hội.  
e) Trong nhà nước pháp quyền, quyền lực nhà nước luôn được giới hạn trong  
các mối quan hệ: Nhà nước và kinh tế; Nhà nước và xã hội.  
- Trong mối quan hệ giữa Nhà nước và kinh tế, vị trí, vai trò, chức năng,  
nhiệm vụ của Nhà nước được xác định bởi tính chất, trình độ của các mô hình kinh  
tế thị trường, theo hướng Nhà nước tôn trọng, phát huy các quy luật khách quan  
của thị trường, thông qua thị trường để điều tiết các quan hệ kinh tế, đồng thời  
khắc phục, hạn chế các mặt tiêu cực của thị trường.  
- Trong mối quan hệ với hội, Nhà nước thông qua luật pháp để quản lý xã  
hội, tôn trọng đề cao vị trí, vai trò và quyền tự chủ (tự quản) của các cấu trúc xã  
hội (các tổ chức hội, các cộng đồng hội).  
- Mối quan hệ giữa Nhà nước, kinh tế, hội mối quan hệ tương tác, quy  
định và chi phối lẫn nhau. Nhà nước không đứng trên kinh tế và xã hội. Nhà nước  
pháp quyền gắn liền với kinh tế và xã hội, phục vụ kinh tế và xã hội trong phạm vi  
Hiến pháp và pháp luật.  
1.3. Tính phổ biến của nhà nước pháp quyền  
Về phương diện luận, nhà nước pháp quyền với tính cách là những giá trị  
phổ biến, biểu hiện của một trình độ phát triển dân chủ. Do vậy nhà nước pháp  
quyền không phải một kiểu nhà nước. Trong ý nghĩa này nhà nước pháp quyền  
được nhìn nhận như một cách thức tổ chức nền dân chủ, cách thức tổ chức nhà  
nước và xã hội trên nền tảng dân chủ. Điều này có ý nghĩa là nhà nước pháp quyền  
gắn liền với một nền dân chủ, tuy không phải một kiểu nhà nước được xác định  
theo lý luận về hình thái kinh tế - xã hội, nhưng không thể xuất hiện trong một xã  
hội phi dân chủ. Điều này cắt nghĩa vì sao ý tưởng về một chế độ pháp quyền đã  
xuất hiện từ rất xa xưa, thậm chí từ thời cổ đại bởi các nhà tư tưởng phương Tây,  
hay tư tưởng pháp trị tại Trung Hoa cổ đại, nhưng mãi đến khi nhà nước tư sản ra  
đời, với sự xuất hiện của nền dân chủ tư sản, nhà nước pháp quyền mới từ nhà  
nước ý tưởng dần trở nên một nhà nước hiện thực.  
Sự phủ nhận quan điểm nhà nước pháp quyền như một kiểu nhà nước có ý  
nghĩa nhận thức luận quan trọng trong việc nhìn nhận đúng bản chất của nhà nước  
pháp quyền. Ý nghĩa nhận thức luận này bao hàm các khía cạnh sau:  
3
- Chỉ từ khi xuất hiện dân chủ tư sản, mới cơ hội điều kiện để xuất hiện  
nhà nước pháp quyền. Do vậy trên thực tế tồn tại khái niệm nhà nước pháp quyền  
tư sản về thực chất nhà nước pháp quyền đang được tuyên bố xây dựng ở hầu  
hết các quốc gia tư bản phát triển đang phát triển.  
- Nhà nước pháp quyền không những thể xây dựng tại các quốc gia tư bản  
vẫn thể xây dựng tại các quốc gia phát triển theo định hướng XHCN. Nhà  
nước pháp quyền với tính chất một cách thức tổ chức vận hành của một chế  
độ nhà nước và xã hội thể xây dựng trong điều kiện chế độ hội XHCN. Như  
vậy trong nhận thức luận và trong thực tiễn tồn tại nhà nước pháp quyền tư sản  
và nhà nước pháp quyền XHCN.  
1.4. Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền ở mỗi quốc gia  
Nhà nước pháp quyền ngoài các giá trị phổ biến còn bao hàm các giá trị đặc  
thù của mỗi một quốc gia, dân tộc.  
Tính đặc thù của nhà nước pháp quyền được xác định bởi hàng loạt yếu tố.  
Các yếu tố này về thực chất rất đa dạng, phong phú và phức tạp, được xác định  
bởi các điều kiện về lịch sử, truyền thống - văn hoá, tâm lý xã hội của mỗi một dân  
tộc, các chế độ chính trị, chế độ kinh tế, văn hoá và môi trường địa lý. Các yếu tố  
này không chỉ tạo ra các đặc sắc, tính riêng biệt của mỗi một dân tộc trong quá  
trình dựng nước, giữ nước và phát triển của mình mà còn quyết định mức độ tiếp  
thu và dung nạp các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền.  
- Việc thừa nhận tính đặc thù của nhà nước pháp quyền có ý nghĩa nhận thức  
luận quan trọng. Với ý nghĩa này nhà nước pháp quyền một phạm trù vừa mang  
tính phổ biến vừa mang tính đặc thù. Nhà nước pháp quyền vừa một giá trị  
chung của nhân loại, vừa một giá trị riêng của mỗi một dân tộc, quốc gia.  
- Không thể một nhà nước pháp quyền chung chung như một mô hình  
chung thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc. Mỗi một quốc gia, dân tộc, tuỳ thuộc  
vào các đặc điểm lịch sử, chính trị, kinh tế - xã hội và trình độ phát triển mà xây  
dựng cho mình một mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp.  
- Thc tin xây dng và vn hành ca nhà nước pháp quyn ti các nước cho  
thy, mi mt nước đều có cách thc xây dng, tchc nhà nước pháp quyn theo  
cách riêng ca mình. Các kho sát kinh nghim xây dng nhà nước pháp quyn ti  
các nước Cng hoà Liên bang Đức, Cng hoà Pháp, Vương quc Anh, Cng hoà Ý  
đã cho thy các nước này, mô hình tchc nhà nước pháp quyn được tchc  
va thng nht va đa dng, phn ánh các giá trphbiến ca nhà nước pháp quyn,  
đồng thi các giá trị đặc thù ca tng quc gia. Thc tin này cũng đã được xác  
nhn ti Trung Quc, Nht Bn, Mvà nhiu nước khác.  
4
- Thừa nhận tính đa dạng của mô hình nhà nước pháp quyền, đòi hỏi việc xây  
dựng nhà nước pháp quyền tại mỗi một quốc gia phải đồng thời quán triệt các  
phương diện:  
+ Phải xuất phát từ đòi hỏi, yêu cầu và trình độ phát triển kinh tế - văn hoá,  
chính trị truyền thống dân chủ của dân tộc mình mà lựa chọn cách thức xây  
dựng vận hành mô hình nhà nước pháp quyền thích hợp. Nhà nước pháp quyền  
phải mang bản chất của chế độ chính trị, thể hiện được các đặc sắc của quốc gia,  
dân tộc.  
+ Phải quán triệt các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền, tiếp thu các  
giá trị phổ biến này trong sự tương hợp với các đặc điểm lịch sử, văn hoá, chính trị  
của quốc gia. Sự quán triệt các giá trị phổ biến của nhà nước pháp quyền trong ý  
nghĩa là các giá trị chung của nhân loại mới thể đảm bảo được tính pháp quyền  
của nhà nước theo các chuẩn mực đã được thừa nhận, khắc phục tính dân tộc cực  
đoan hay các dị biệt làm cho các giá trị dân chủ không được phát huy, tạo nguy cơ  
rơi vào tình trạng biệt lập trong một thế giới hiện đại ngày nay.  
+ Sự thống nhất hữu cơ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của nhà nước pháp  
quyền cơ sở luận cần quán triệt trong cuộc đấu tranh lý luận chống lại mọi sự  
áp đặt từ bên ngoài đối với mô hình nhà nước pháp quyền hay áp dụng một cách  
máy móc, giáo điều, dập khuôn mô hình nhà nước pháp quyền ở một nước này vào  
một nước khác. Điều này có nghĩa là không thể lấy các tiêu chuẩn của nhà nước  
pháp quyền tư sản để áp đặt cho các việc xây dựng nhà nước pháp quyền hội  
chủ nghĩa.  
Mặt khác khi quán triệt các đặc điểm, đặc thù của mỗi nước cần phải đặt các  
điều kiện đặc thù ấy trong sự tương quan với các giá trị phổ biến phải biến các  
giá trị phổ biến ấy thành các giá trị nội tại, chuyển hoá chúng thành các giá trị quốc  
gia.  
2. Quá trình nhận thức và xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ  
nghĩa Việt Nam  
2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền  
Trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh, vấn đề Nhà nước và pháp luật giữ một vị  
trí đặc biệt quan trọng và có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp xây dựng, củng cố  
một nhà nước kiểu mới của dân, do dân, vì dân. Các tư tưởng Hồ Chủ Tịch về Nhà  
nước thật sto lớn, sâu sắc không chỉ được thể hiện trong các bài viết, các bài phát  
biểu, trong các văn kiện quan trọng do Người trực tiếp chỉ đạo xây dựng và ban  
hành mà cả trong hành động thực tiễn của Người trên cương vị người lãnh đạo  
cao nhất của Đảng và Nhà nước.  
5
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền thể khái quát  
trên các quan điểm sau:  
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước của dân, do dân, vì dân:  
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất  
là dân vì dân là chủ”1; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”2. Với  
Hồ Chí Minh, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước.  
Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho  
bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà  
nước được thiết lập bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ  
cán bộ, công chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc  
của nhân dân. “Chúng ta hiểu rằng, các quan của Chính phủ từ toàn quốc cho  
đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa để gánh việc chung cho dân, chứ  
không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật3.  
Là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập qua thông qua chế độ bầu cử dân  
chủ. Bầu cử dân chủ phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã được xác lập  
trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính quyền khi tiếp  
nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân. Chính vì vậy, để thật sự là nhà nước của  
dân, ngay từ những ngày đầu giành được nền độc lập, Hồ Chí Minh đã đặc biệt  
quan tâm đến tổ chức cuộc tổng tuyển cử để nhân dân trực tiếp bầu ra các đại biểu  
xứng đáng thay mặt mình gánh vác việc nước.  
Chỉ một ngày sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập vào 3/9/1945 Hồ Chủ Tịch đã  
họp đề ra những nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước, trong đó Người đề nghị  
“Chính phủ tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông  
đầu phiếu”4.  
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân, không chỉ do dân lập ra  
thông qua bầu cử dân chủ mà còn là nhà nước chịu sự kiểm tra, giám sát, định đoạt  
của nhân dân. Người khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, Chính phủ đầy  
tớ của nhân dân. Nhân dân có quyền đôn đốc phê bình Chính phủ. Chính phủ thì  
việc to nhỏ đều nhằm mục đích phục vụ nhân dân”. “Nhân dân có quyền bãi miễn  
đại biểu Quốc hội đại biểu Hội đồng nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra  
không xứng đáng với tín nhiệm của nhân dân. Nguyên tắc ấy bảo đảm quyền kiểm  
soát của nhân dân đối với đại biểu của mình5. Người nhắc nhở: “Nước ta là nước  
dân chủ; địa vị cao nhất là dân, vì dân là chủ. Trong bộ máy cách mạng từ người  
quét nhà, nấu ăn cho đến Chủ tịch nước đều là phân công làm đầy tớ cho dân”6.  
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, NxbCTQG, H,2000, tr.515.  
2 Sđd, tập 7, tr.499.  
3 Sđd, tập 4, tr.56.  
4 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NxbCTQG, H,2000, tập 4, tr.133.  
5 Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7, tr.368.  
6
Người còn viết: “Chính phủ cộng hoà dân chủ là gì? là đầy tớ của dân từ Chủ tịch  
toàn quốc đến Đảng – Dân là chủ thì Chính phủ đầy tớ… Nếu Chính phủ làm  
hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ”1.  
Đối với Hồ Chí Minh, một nhà nước của dân thật sự phải một nhà nước do  
dân và vì dân. Người viết: “Kinh nghiệm trong nước và các nước chứng tỏ cho  
chúng ta biết: lực lượng dân chúng, việc to tát mấy, khó khăn mấy cũng làm  
được. Không có, thì việc gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều  
vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ những người tài giỏi, những  
đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”; “Không có lực lượng nhân dân, thì việc nhỏ  
mấy, dễ mấy làm cũng không xong…”2.  
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân là nguồn sức mạnh của Nhà nước, là  
nguồn trí tuệ của Nhà nước, nguồn sáng kiến tận, nhà nước chức năng  
khơi nguồn, phát hiện, tiếp thu và hoàn thiện các sáng kiến của nhân dân để xây  
dựng chính sách và luật pháp.  
Một nhà nước của dân, do dân, vì dân theo Hồ Chí Minh là một nhà nước nếu  
biết lắng nghe và học hỏi nhân dân, biết tôn trọng bồi dưỡng và nâng cao sức dân,  
thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng, ý chí của nhân dân thì sẽ thấy nhân dân không chỉ  
nói lên những mong muốn của mình mà còn chỉ ra được nhà nước cần phải hành  
động như thế nào để giải quyết các vấn đề quốc kế dân sinh. Chính vì lẽ đó Nhà  
nước được thành lập không vì mục đích làm thay cho dân, mà thực hiện vai trò  
người cầm lái, người tổ chức để nhân dân bằng trí tuệ, sức mạnh của mình giải  
quyết các vấn đề của chính mình. Người viết: “Nếu không có nhân dân thì Chính  
phủ không đủ lực lượng. Nếu không có Chính phủ thì nhân dân không ai dẫn  
đường. Vậy nên Chính phủ với nhân dân phải đoàn kết thành một khối”3. Nhà  
nước của dân, do dân không có mục đích tthân, ý nghĩa, mục tiêu và sứ mệnh của  
Nhà nước phụng sự hạnh phúc của nhân dân, vì nhân dân. Vì lẽ đó Hồ Chủ Tịch  
cho rằng “… Ngày nay, chúng ta đã xây dựng nên nước Việt Nam dân chủ cộng  
hoà. Nhưng nếu nước nhà độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do, thì độc  
lập cũng chẳng có ý nghĩa gì... Chính phủ ta đã hứa với dân sẽ gắng sức làm cho ai  
nấy đều phần hạnh phúc...4. Người nhắc nhở: “Việc lợi cho dân thì phải hết  
sức làm. Việc gì có hại đến dân phải hết sức tránh...5.  
Tư tưởng Hồ Chí Minh về một nhà nước vì dân, tất cả hạnh phúc của nhân  
dân là tư tưởng nhất quán trong suốt cuộc đời của Người. Cả cuộc đời Người là  
một tấm gương trong sáng thể hiện sinh động tư tưởng, đạo đức của một con người  
6 Sđd, tr.275.  
1 Sđd, tr.282.  
2 Sđd, tập 6, tr.292.  
3 Sđd, tập 4, tr.56.  
4 Sđd, tập 4, tr.56.  
5 Sđd, tập 4, tr.57.  
7
suốt đời vì dân, vì nước. Khi đảm nhận chức vụ Chủ tịch nước, Hồ Chủ Tịch đã trả  
lời các nhà báo “Tôi tuyệt nhiên không ham muốn công danh phú quý chút nào.  
Bây giờ phải gánh vác chức chủ tịch là vì đồng bào uỷ thác thì tôi phải gắng làm,  
cũng như một người lính vâng lệnh quốc dân ra trước mặt trận”1.  
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình tổ chức bộ máy nhà nước:  
Cách mạng Tháng 8 năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng  
hoà ra đời, mở đầu một chính thể nhà nước mới ở Việt Nam: chính thể dân chủ  
cộng hoà. Sự ra đời của chính thể dân chủ cộng hoà thể hiện một tư duy sáng tạo  
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc lựa chọn mô hình tổ chức nhà nước, vừa tiếp  
thu được các giá trị phổ biến của nền dân chủ nhân loại, vừa phù hợp với các đặc  
điểm của đất nước.  
Tư tưởng Hồ Chí Minh về mô hình bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân  
được thể hiện sâu sắc trong các văn kiện pháp lý quan trọng của đất nước do chính  
Người chỉ đạo xây dựng và ban hành. Có thể thấy rằng hai bản Hiến pháp 1946,  
1959 do Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp chỉ đạo soạn thảo và 613 sắc lệnh kể từ  
1945 đến 1969, trong đó có 243 sắc lệnh liên quan đến bộ máy nhà nước luật  
pháp do Người ký ban hành đã hình thành một thể chế bộ máy nhà nước vừa hiện  
đại vừa dân tộc kết tinh sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh  
mẽ và sáng suốt của nhân dân.  
Tuy không tiếp nhận tư tưởng phân quyền vốn nền tảng luận của mô  
hình nhà nước dân chủ phương Tây, nhưng Hồ Chí Minh đã đưa vào mô hình tổ  
chức bộ máy nhà nước những yếu tố hợp lý và khoa học của nguyên tắc phân  
quyền. Theo đó, bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 được thiết kế trên cơ sở  
phân chia quyền lực uyển chuyển giữa các quan nhà nước trong việc thực hiện  
quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp. Trong mô hình tổ chức bộ  
máy nhà nước này, không có một cơ quan nào là độc quyền quyền lực, quyền  
đứng trên quan khác. Nghị viện nhân dân là quan có quyền cao nhất của  
nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (Điều 22 - Hiến pháp 1946), nhưng không thể là  
quan toàn quyền; Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hoà là quan hành chính  
cao nhất của toàn quốc (Điều 43 - Hiến pháp 1946) nhưng không phải quan  
chấp hành của Quốc hội như các quy định của Hiến pháp 1992. quan pháp là  
hệ thống toà án được tổ chức theo cấp xét xử. Với quy định của Hiến pháp 1946 bộ  
máy nhà nước về cơ bản được cấu tạo theo ba quyền: quyền lập pháp (Nghị viện  
nhân dân); quyền hành pháp (Chủ tịch nước và Chính phủ); quyền tư pháp (Hệ  
thống toà án được tổ chức theo cấp xét xử).  
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về một Nhà nước được tổ chức hoạt động trong  
khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật:  
1 Sđd, tập 1, tr.381.  
8
Tiếp xúc với nền văn minh Âu - Mỹ, nhất là kinh nghiệm tổ chức, hoạt động  
của nhà nước trong quản lý các lĩnh vực của đời sống hội, Hồ Chí Minh cho  
rằng, quản lý xã hội bằng pháp luật là dân chủ, tiến bvà có tính chất phổ biến đối  
với các xã hội hiện đại.  
Nhận thức được tầm quan trọng của luật pháp, từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã đề  
cập đến vai trò của chúng trong điều hành và quản lý xã hội. Năm 1919, tám yêu  
sách của nhân dân An Nam gửi tới Hội nghị Véc- xây đã có 4 điểm liên quan đến  
vấn đề pháp quyền, còn lại liên quan đến công lý và quyền con người.  
Bản Yêu sách của nhân dân An Nam được Hồ Chí Minh chuyển thành “Việt  
Nam yêu cầu ca”, trong đó yêu cầu thứ bảy là: “Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm  
điều phải thần linh pháp quyền”. Đây tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí Minh,  
phản ánh nội dung cốt lõi của Nhà nước dân chủ mới - Nhà nước quản lý xã hội  
bằng pháp luật. Đồng thời, đây cũng là nguyên tắc xuyên suốt trong hoạt động  
quản lý nhà nước của Người.  
Sau Cách mạng Tháng Tám, năm 1945, Hồ Chí Minh đề ra một trong sáu  
nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà là: Chúng ta phải có  
một Hiến pháp dân chủ. Ngày 20/9/1945, Chủ tịch lâm thời nước Việt Nam dân  
chủ cộng hoà ký Sắc lệnh thành lập Ban dự thảo Hiến pháp gồm 7 thành viên do  
Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trưởng ban. Bản dự thảo Hiến pháp hoàn thành khẩn  
trương và nghiêm túc dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Hồ Chủ tịch. Tại kỳ họp thứ 2  
của Quốc hội khoá I vào tháng 10/1946, Quốc hội đã thảo luận dân chủ và thông  
qua bản dự thảo Hiến pháp này. Đó bản hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam:  
Hiến pháp năm 1946. Trong phiên họp Quốc hội thông qua hiến pháp, Chủ tịch Hồ  
Chí Minh đã phát biểu: “… Hiến pháp đã nêu một tinh thần đoàn kết chặt chẽ giữa  
các dân tộc Việt Nam và một tinh thần liêm khiết, công bình của các giai cấp”. Và  
nhấn mạnh rằng: “Chính phủ cố gắng làm theo đúng 3 chính sách: dân sinh, dân  
quyền và dân tộc”.  
Sau năm 1954, khi miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội,  
đất nước đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhiều quy định trong Hiến pháp  
năm 1946 không còn phù hợp, Hồ Chí Minh đã chủ trương sửa đổi và ban hành  
Hiến pháp mới - Hiến pháp năm 1959. Trong duy Hồ Chí Minh, một khi điều  
kiện kinh tế - xã hội thay đổi thì pháp luật, nhất đạo luật “gốc” - Hiến pháp, cũng  
phải thay đổi để bảo đảm khả năng điều chỉnh hợp lý các quan hệ hội đã phát  
sinh và định hình.  
Ngoài hai bản Hiến pháp năm 1946, 1959, từ năm 1945 đến 1969, Hồ Chí  
Minh còn chỉ đạo soạn thảo, quyết định công bố 16 đạo luật và 1.300 văn bản  
dưới luật, trong đó có 243 Sắc lệnh quy định về tổ chức nhà nước đã hình thành  
9
một thể chế bộ máy nhà nước nhiều nhân tố cơ bản của một nhà nước pháp  
quyền.  
Hồ Chí Minh luôn khẳng định: Pháp luật của ta là pháp luật dân chủ, phải  
nghiêm minh và phát huy hiệu lực thực tế. Nhà nước sử dụng pháp luật để quản lý  
hội. Song pháp luật của ta đã sự thay đổi về chất, mang bản chất của giai cấp  
công nhân, là một loại hình pháp luật kiểu mới, pháp luật thật sự dân chủ, vì nó  
bảo vệ quyền tự do, dân chủ rộng rãi cho nhân dân lao động. Báo cáo tại hội nghị  
chính trị đặc biệt, ngày 27/3/1964, một trong 5 nhiệm vụ để hoàn thành sự nghiệp  
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu lên là “Tăng cường không ngừng chính  
quyền nhân dân. Nghiêm chỉnh thực hiện dân chủ với nhân dân, chuyên chính với  
kẻ địch. Triệt để chấp hành mọi chế đvà pháp luật của Nhà nước1.  
Nét đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh về tổ chức nhà nước là các cơ  
quan nhà nước hoạt động đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật  
nhưng trong điều kiện của một nước thuộc địa nửa phong kiến ở phương Đông, Hồ  
Chí Minh sử dụng linh hoạt pháp trị đức trị trong tổ chức hoạt động của Nhà  
nước quản lý nhà nước.  
Cán bộ trực tiếp thực thi luật pháp phải thật sự công tâm và nghiêm minh. Hồ  
Chí Minh yêu cầu cán bộ, đảng viên có nhiệm vụ “gương mẫu chấp hành pháp luật  
của Nhà nước, kỷ luật của các đoàn thể cách mạng của quần chúng mà mình tham  
gia”. Trong việc giữ vững tính nghiêm minh và hiệu lực của pháp luật, cán bộ làm  
công tác pháp có vai trò quan trọng. Họ chính là người trực tiếp thực thi luật  
pháp, đại diện cụ thể cho “cán cân công lý”. Vì thế, Hồ Chí Minh yêu cầu ở họ  
phải phẩm chất đạo đức cần thiết: Trong công tác xử án phải công bằng, liêm  
khiết, trong sạch như thế cũng chưa đủ vì không thể chỉ hạn chế hoạt động của  
mình trong khung toà án mà còn phải gần dân, giúp dân, học dân, hiểu dân để giúp  
mình thêm liêm khiết, thêm công bằng, trong sạch.  
Với Hồ Chí Minh, pháp luật không phải để trừng trị con người mà là công  
cụ bảo vệ, thực hiện lợi ích của con người. Tư tưởng pháp quyền trong tổ chức và  
hoạt động của bộ máy nhà nước thông qua đội ngũ cán bộ, công chức của Người  
thấm đượm một tấm lòng thương yêu nhân dân, chăm lo cho ấm no, hạnh phúc của  
nhân dân, thấm đượm lòng nhân ái, nghĩa đồng bào theo đạo truyền thống ngàn  
năm của dân tộc Việt Nam. Vì thế, kết hợp giữa đức trị và pháp trị trong tổ chức  
nhà nước của Hồ Chí Minh có nội hàm triết lý, mang đậm tính dân tộc và dân chủ  
sâu sắc.  
Quá trình xây dựng và phát triển của Nhà nước ta trong mỗi giai đoạn sau này  
đã có không ít những thay đổi về mô hình bộ máy dưới tác động của nhiều yếu tố  
chủ quan và khách quan, nhưng xuyên suốt mạch phát triển ấy vẫn tư tưởng của  
1 Hồ Chí Minh: Toàn tập, NxbCTQG, H,2000, tập 11, tr.235.  
10  
Hồ Chí Minh về một chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân. Ngày nay,  
trong bối cảnh phát triển mới của đất nước, dưới tác động mạnh mẽ của thời đại và  
thế giới, trong xu thế toàn cầu hoá, nhiều điểm đã thay đổi, nhưng tư tưởng Hồ Chí  
Minh về nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân vẫn còn nguyên giá trị, tiếp  
tục định hướng cho các nỗ lực nghiên cứu, tìm kiếm giải pháp đổi mới mô hình bộ  
máy nhà nước trong các điều kiện phát triển mới.  
2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp quyền  
XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân  
Sau Cách mạng Tháng 8/1945, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời.  
Đó một nhà nước kiểu mới, nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á. “Cách  
mạng Tháng Tám đã lật đổ nền quân chủ mấy mươi thế kỷ, đã đánh tan xiềng xích  
thực dân gần một trăm năm, đã đưa chính quyền lại cho nhân dân, đã xây dựng nền  
tảng cho nước Việt Nam dân chủ cộng hoà độc lập, tự do, hạnh phúc. Đó một  
cuộc thay đổi cực kto lớn trong lịch sử nước nhà…1.  
Đảng ta khẳng định, nhiệm vụ lịch sử của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng  
hoà là “bảo toàn lãnh thổ, giành độc lập hoàn toàn và kiến thiến quốc gia trên nền  
tảng dân chủ”. Dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, các quan điểm của  
Đảng về Nhà nước, tổ chức bộ máy nhà nước đã được thể chế hoá trong bản Hiến  
pháp đầu tiên - Hiến pháp 1946. Với Hiến pháp 1946, Đảng ta chủ trương thực  
hiện “chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” nhằm đoàn kết toàn dân,  
không phân biệt giống nòi, gái trai, giai cấp, tôn giáo, đảm bảo các quyền tự do dân  
chủ. Hiến pháp 1959 đã thể chế hoá quan điểm Đảng ta về “sử dụng chính quyền  
dân chủ nhân dân, làm nhiệm vụ lịch sử của chuyên chính vô sản”2, Đảng ta cho  
rằng “khi nào cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến triển thành cách mạng  
XHCN thì chuyên chính dân chủ nhân dân sẽ trở thành chuyên chính vô sản…  
Hình thức Nhà nước cộng hoà dân chủ nhân dân vẫn thể tồn tại khi nội dung  
của đã chuyển đổi thành chuyên chính vô sản. Nhưng nếu nhiệm vụ và yêu cầu  
là cách mạng XHCN và xây dựng chủ nghĩa hội thì về thực chất chế độ dân chủ  
nhân dân sẽ trở thành chế độ dân chủ XHCN…”3.  
Đại hội lần thứ IV của Đảng (1976) đã xác định: “Nhà nước XHCN là Nhà  
nước chuyên chính vô sản, một tổ chức thực hiện quyền làm chủ tập thể của giai  
cấp công nhân và nhân dân lao động, một tổ chức thông qua đó Đảng thực hiện sự  
lãnh đạo của mình đối với tiến trình phát triển hội…4.  
Quan điểm của Đảng về Nhà nước chuyên chính vô sản đã được thể chế hoá  
trong Hiến pháp 1980 “Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là nhà nước chuyên  
1 Hồ Chí Minh: Tuyển tập, Tập 2, Nxb Sự thật, H,1980, tr.463.  
2 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III. Nxb Sự thật, H,1961, tr.179.  
3 Trường Chinh: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam. Nxb Sự thật, H,1975, tập 1, tr.193.  
4 Văn kiện Đảng toàn tập. NxbCTQG, H,2004, tập 37, tr.577.  
11  
chính vô sản. Sứ mệnh lịch sử của Nhà nước đó thực hiện quyền làm chủ tập thể  
của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân tiến hành đồng thời ba cuộc  
cách mạng: Cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật, cách  
mạng tư tưởng văn hoá, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt, xoá  
bỏ chế độ người bóc lột người, đập tan mọi sự chống đối của bọn phản cách mạng  
trong nước, mọi hành động xâm lược và phá hoại của kẻ thù bên ngoài, xây dựng  
thành công XHCN, tiến tới chủ nghĩa cộng sản; góp phần củng cố hoà bình và đẩy  
mạnh sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới” (Điều 2 - Hiến pháp 1980).  
Phát triển quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về chuyên chính vô sản trong  
thời kỳ quá độ lên chủ CNXH, Đảng ta xác định “quyền làm chủ tập thể của nhân  
dân lao động mà nòng cốt là liên minh công nông, thực hiện bằng nhà nước dưới  
sự lãnh đạo của Đảng tiên phong của giai cấp công nhân, đó là chuyên chính vô  
sản. Nhà nước ta, vì vậy, là nhà nước chuyên chính vô sản”1.  
Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam với đường lối đổi mới đã đặt  
ra những cơ sở quan trọng cho việc đổi mới tư duy, quan điểm về xây dựng nhà  
nước trong các điều kiện tiến hành cải cách kinh tế.  
Đảng ta khẳng định “Nhà nước ta là công cụ của chế độ làm chủ tập thể  
XHCN, do giai cấp công nhân và nhân dân lao động tổ chức thành quan quyền  
lực chính trị. Trong thời kỳ quá độ, đó là Nhà nước chuyên chính vô sản thực hiện  
chế độ dân chủ XHCN…”2. Mặc vẫn dùng khái niệm “Nhà nước chuyên chính  
sản”, nhưng chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước trong quan đim ca Đảng  
Cng sn Vit Nam ti Đại hi VI đã có đổi mi: “Dưới slãnh đạo ca Đảng, chc  
năng ca Nhà nước là thchế hoá bng pháp lut, quyn hn, li ích, nghĩa vca  
nhân dân lao động và qun lý kinh tế, xã hi theo pháp lut. Nhà nước ta phi bo  
đảm quyn dân chtht sca nhân dân lao động, đồng thi kiên quyết trng trị  
nhng kvi phm quyn làm chca nhân dân…”3.  
Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, Đại hội VI của  
Đảng đã chỉ ra nhiều yếu kém, bất cập của bộ máy nhà nước và cho rằng: “… cơ  
chế tập trung quan liêu bao cấp là nguyên nhân trực tiếp làm cho bộ máy nặng nề,  
nhiều tầng, nhiều nấc. Chức năng, nhiệm vụ của tổ chức chức năng, tiêu chuẩn  
cán bộ chưa được xác định rõ ràng”4. Xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp là  
cơ sở để đổi mới, hoàn thiện tổ chức bộ máy nhà nước. Đồng thời, cải cách bộ máy  
nhà nước sẽ thúc đẩy việc xoá bỏ cơ chế quản tập trung quan liêu, bao cấp, tạo  
ra cơ chế quản mới phù hợp với các yêu cầu, đòi hỏi của cải cách kinh tế. Để  
thực hiện mục tiêu này, Đảng ta chủ trương “… Để thiết lập cơ chế quản mới,  
1 Văn kiện Đảng toàn tập. NxbCTQG, H,2004, tập 37, tr.162.  
2 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX). NxbCTQG, H,2006, tr.124.  
3 Sđd, tr.125.  
4 Sđd, tr.125.  
12  
cần thực hiện một cuộc cải cách lớn về tổ chức bộ máy của các quan nhà nước  
theo phương hướng: Xây dựng thực hiện một cơ chế quản lý nhà nước thể  
hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động ở tất cả các cấp. Tăng  
cường bộ máy nhà nước từ trung ương đến địa phương cơ sở thành một hệ  
thống thống nhất, sự phân định rành mạch nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm  
từng cấp theo nguyên tắc tập trung dân chủ, phân biệt chức năng quản lý - hành  
chính - kinh tế với quản sản xuất - kinh doanh, kết hợp quản lý theo ngành với  
quản lý theo địa phương và vùng lãnh thổ phù hợp với đặc điểm tình hình kinh tế,  
hội…1.  
Đại hội lần thứ VII của Đảng xác định thực hiện dân chủ XHCN là thực chất  
của việc đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị. Đây vừa mục tiêu vừa động  
lực của công cuộc đổi mới. Như vậy, việc đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị  
được Đảng ta đặt ra như một tất yếu để thực hiện và phát huy dân chủ XHCN. Để  
đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị, Đảng chủ trương tiếp tục đẩy mạnh cải cách  
bộ máy nhà nước theo hướng: Nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân. Nhà  
nước quản lý xã hội bằng pháp luật, dưới sự lãnh đạo của Đảng; tổ chức hoạt  
động theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện thống nhất quyền lực nhưng  
phân công, phân cấp rành mạch; bộ máy tinh giản, gọn nhẹ hoạt động chất  
lượng cao trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học, kỹ thuật, quản lý…”2.  
Những quan điểm chủ yếu của Đảng về xây dựng, cải cách bộ máy nhà nước  
được xác định tại Đại hội VI, VII tiếp tục được Đảng ta phát triển trong “Cương  
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa hội” “tổ chức thể  
hiện thực hiện ý chí, quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân. Nhà nước ta  
phải đủ quyền lực đủ khả năng định ra luật pháp và tổ chức quản mọi mặt  
đời sống hội bằng pháp luật, sửa đổi hệ thống tổ chức nhà nước, cải cách bộ  
máy hành chính, kiện toàn các quan luật pháp để thực hiện hiệu quả chức  
năng quản lý nhà nước.  
Nhà nước mối liên hệ thường xuyên và chặt chẽ với nhân dân, tôn trọng và  
lắng nghe ý kiến của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân. Có cơ chế biện  
pháp kiểm soát, ngăn ngừa trừng trị tệ quan liêu, tham nhũng, lộng quyền, vô  
trách nhiệm, xâm phạm quyền dân chủ của nhân dân. Tổ chức hoạt động của bộ  
máy quản lý nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ, thống nhất quyền lực, có  
sự phân công, phân cấp, đồng thời bảo đảm sự chỉ đạo thống nhất của trung ương.  
Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và pháp, với  
sự phân công rành mạch ba quyền đó…3.  
1 Sđd, tr.125.  
2 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. NxbCTQG, H,2006, tr.297.  
3 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Sđd, tr.327.  
13  
Quan điểm của Đảng về Nhà nước trong Cương lĩnh 1991 đã nhấn mạnh đến  
những vấn đề có tính nền tảng đối với tổ chức hoạt động của bộ máy nhà nước  
trong một chế độ dân chủ – pháp quyền: đủ quyền lực đủ khả năng định ra  
luật pháp, quản lý xã hội bằng pháp luật; thống nhất quyền lực (thống nhất ba  
quyền lập pháp, hành pháp và pháp) với sự phân công rành mạch ba quyền  
đó. Tuy chưa đề cập trực tiếp đến phạm trù nhà nước pháp quyền, nhưng sự thể  
hiện các vấn đề cơ bản có tính pháp quyền trong tổ chức nhà nước ở tầm cương  
lĩnh chính trị cho thấy quyết tâm chính trị của Đảng ta trong đổi mới tổ chức và  
hoạt động của Nhà nước theo các yêu cầu, đòi hỏi của nhà nước pháp quyền  
XHCN trong bối cảnh cụ thể nước ta.  
Đến Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khoá VII (1994) lần đầu tiên  
Đảng ta chính thức sử dụng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền” và nêu khá cụ thể,  
toàn diện những quan điểm, nguyên tắc, nội dung xây dựng Nhà nước pháp quyền  
XHCN của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam “tiếp tục xây dựng từng bước hoàn  
thiện nhà nước pháp quyền Việt Nam. Đó là nhà nước của nhân dân, do nhân dân,  
vì nhân dân, quản mọi mặt đời sống hội bằng pháp luật, đưa đất nước phát  
triển theo định hướng XHCN. Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên  
cơ sở tăng cường, mở rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh giai cấp công  
nhân với nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng ta lãnh đạo.  
Với cách thể hiện trong văn kiện Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ  
khoá VII, những quan điểm cơ bản về các nội dung chủ yếu của phạm trù Nhà  
nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân đã được xác lập, đặt cơ sluận  
cho việc triển khai các chủ trương, giải pháp tiếp tục đổi mới, hoàn thiện bộ máy  
nhà nước trong những giai đoạn phát triển tiếp theo.  
Hi nghBan Chp hành Trung ương ln thtám (khoá VII) đã đánh du mt  
bước quan trng trong vic cthhoá quan đim ca Đảng Cng sn Vit Nam về  
Nhà nước pháp quyn XHCN ca dân, do dân, vì dân nước ta. Hi nghln thứ  
tám Ban Chp hành Trung ương khoá VII là hi nghchuyên bàn vnhà nước “Tiếp  
tc xây dng và hoàn thin Nhà nước Cng hoà XHCN Vit Nam, trng tâm là ci  
cách mt bước nn hành chính”. Sau khi đánh giá nhng thành tu và khuyết đim,  
yếu kém trong tchc, hot động ca nhà nước ta và nhng yêu cu trước tình hình  
mi, văn kin Hi nghị đã nêu 5 quan đim cơ bn cn nm vng trong quá trình  
xây dng kin toàn bmáy nhà nước cthlà:  
+ Xây dựng nhà nước XHCN của dân, do dân và vì dân, lấy liên minh giai  
cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng  
Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ  
cương hội, chuyên chính với mọi hành động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và  
của nhân dân;  
14  
+ Quyền lực nhà nước thống nhất, sự phân công và phối hợp chặt chẽ  
giữa các quan nhà nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp, tư  
pháp;  
+ Quán triệt nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức hoạt động của Nhà  
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam;  
+ Tăng cường pháp chế XHCN; xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam  
quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức  
XHCN;  
+ Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.  
Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII tại Đại hội  
lần thứ VIII tiếp tục khẳng định 5 quan điểm cơ bản về xây dựng nhà nước pháp  
quyền đã được Hội nghị Trung ương 8 khoá VII xác định, đồng thời đặt ra các  
nhiệm vụ: đổi mới, nâng cao chất lượng công tác lập pháp và giám sát tối cao của  
Quốc hội đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước; cải cách nền hành chính nhà  
nước đồng bộ trên các mặt: cải cách thể chế hành chính, tổ chức bộ máy và xây  
dựng, kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức hành chính; cải cách tổ chức hoạt  
động tư pháp; củng cố kiện toàn bộ máy các quan pháp. Phân định lại thẩm  
quyền xét xử của toà án nhân dân, từng bước mở rộng thẩm quyền xét xử sơ thẩm  
cho toà án nhân dân huyện. Đổi mới tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát nhân  
dân, các quan điều tra, quan thi hành án và các quan, tổ chức bổ trợ tư  
pháp1.  
Hội nghị Trung ương lần thứ ba khoá VIII đã thông qua nghị quyết “Phát huy  
quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt  
Nam trong sạch, vững mạnh”. Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII đã đưa ra sự  
đánh giá tình hình xây dựng Nhà nước trong thời gian qua với những nhận định về  
các bước tiến bộ, các mặt yếu kém trong quá trình xây dựng Nhà nước chỉ ra  
rằng: việc xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN trong điều kiện chuyển đổi nền  
kinh tế nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của chúng ta còn ít, có nhiều việc phải vừa  
làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Nghị quyết khẳng định cần tiếp tục thực hiện  
Nghị quyết lần thứ 8 Ban Chấp hành Trung ương khoá VII và nhấn mạnh ba yêu  
cầu:  
- Một : tiếp tục phát huy tốt hơn nhiều hơn quyền làm chủ của nhân dân  
qua các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp để nhân dân tham gia xây  
dựng bảo vệ Nhà nước, nhất việc giám sát, kiểm tra của nhân dân đối với hoạt  
động của cơ quan và cán bộ công chức Nhà nước.  
1 Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới. Sđd, tr.510-514.  
15  
- Hai là: tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nhà nước Cộng hoà XHCN Việt  
Nam trong sạch, vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; cán bộ công chức  
Nhà nước thật sự là công bộc, tận tuỵ phục vụ nhân dân.  
- Ba là: tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước; xây dựng và  
hoàn thiện nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng phù hợp với đặc điểm, tính  
chất của cơ quan nhà nước ở từng cấp, chú trọng sự lãnh đạo của tổ chức đảng đối  
với việc kiểm kê, kiểm soát trong quản lý kinh tế, tài chính. Nghị quyết nhấn mạnh  
3 yêu cầu trên quan hệ chặt chẽ với nhau, dựa trên nền tảng chung là xây dựng  
Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân, thực hiện đại đoàn kết dân  
tộc mà nòng cốt là liên minh công nhân, nông dân và trí thức dưới sự lãnh đạo của  
Đảng Cộng sản Việt Nam”.  
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thIX (tháng 4/2002) và Đại hội đại biểu  
Đảng toàn quốc lần thứ X (tháng 4/2006) đã tiếp tục khẳng định nhiệm vụ xây  
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của  
Đảng, bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân;  
quyền lực nhà nước thống nhất, sự phân công, phối hợp giữa các quan  
trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và pháp.  
Đại hội XI (tháng 1/2011) đã làm sâu sắc thêm nhận thức về xây dựng nhà  
nước pháp quyền hội chủ nghĩa khẳng định “tiếp tục đẩy mạnh việc xây  
dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa, bảo đảm nhà nước ta  
thực sự của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, thực hiện tốt  
chức năng quản lý kinh tế, quản lý xã hội, giải quyết đúng mối quan hệ giữa nhà  
nước với các tổ chức khác trong hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường”.  
Báo cáo chính trị đã xác định một trong những phương hướng quan trọng của việc  
xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa là “Nghiên cứu xây  
dựng, bổ sung các thể chế cơ chế, vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả  
quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, và nguyên tắc quyền lực nhà nước thống  
nhất, sự phân công, phối hợp kiểm soát giữa các quan trong việc thực hiện  
quyền lập pháp, hành pháp và pháp. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế  
của nhà nước phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế thị trường định hướng hội  
chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận hành  
hiệu quả nền kinh tế thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi ích quốc  
gia, dân tộc. Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã  
sửa đổi, bsung năm 2001 phù hợp với tình hình mới”1  
- Đại hội XII của Đảng (20/1- 28/1/2016) tiếp tục khẳng định quan điểm nhất  
quán của Đảng về đẩy mạnh nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ  
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân trong giai đoạn phát triển mới. Báo  
1 Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NxbCTQG-ST 2011, tr.246-347.  
16  
cáo chính trị trình đại hội XII xác định: “Xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp  
quyền hội chủ nghĩa phải tiến hành đồng bộ cả lập pháp, hành pháp, pháp và  
được tiến hành đồng bộ với đổi mới hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu  
lực, hiệu quả; gắn với đổi mới kinh tế, văn hóa, xã hội. Hoàn thiện thể chế, chức  
năng, nhiệm vụ, phương thức cơ chế vận hành, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của  
Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh hoàn thiện và nâng cao chất  
lượng, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước. Xác định cơ chế phân công,  
phối hợp thực thi quyền lực nhà nước, nhất cơ chế kiểm soát quyền lực giữa các  
quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, pháp trên  
cơ sở quyền lực nhà nước thống nhất, xác định hơn quyền hạn và trách nhiệm  
của mỗi quyền”1  
Như vậy, từ khi ra đời cho đến nay, trong đường lối của Đảng Cộng sản Việt  
Nam luôn luôn quán triệt tư tưởng xây dựng nhà nước của dân, do dân và vì dân ở  
Việt Nam, coi trọng việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật - phương tiện  
quan trọng trong quản lý nhà nước.  
2.3. Những đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa  
Việt Nam  
- Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước của nhân  
dân, do nhân dân, vì nhân dân, thể hiện quyền làm chủ của nhân dân  
Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh “Nước ta là một nước dân chủ, địa vị cao nhất  
là dân vì dân là chủ”2; “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là chủ”3. Với  
Hồ Chí Minh nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước.  
Toàn bộ quyền lực nhà nước đều bắt nguồn từ nhân dân, do nhân dân uỷ quyền cho  
bộ máy nhà nước thực hiện, nhằm phụng sự lợi ích của nhân dân. Bộ máy nhà  
nước được thiết lập bộ máy thừa hành ý chí, nguyện vọng của nhân dân, đội ngũ  
cán bộ, công chức nhà nước không thể là các ông quan cách mạng mà là công bộc  
của nhân dân. Là nhà nước của dân, do chính nhân dân lập qua thông qua chế độ  
bầu cử dân chủ. Bầu cử dân chủ phương thức thành lập bộ máy nhà nước đã  
được xác lập trong nền chính trị hiện đại, đảm bảo tính chính đáng của chính  
quyền khi tiếp nhận sự uỷ quyền quyền lực từ nhân dân.  
Tư tưởng về một nhà nước của dân, do dân, vì dân đã được thể chế hoá thành  
một mục tiêu hiến định ngay trong bản Hiến pháp đầu tiên của chính thể dân chủ  
cộng hoà ở nước ta - Hiến pháp 1946: “Xây dựng một chính quyền mạnh mẽ và  
sáng suốt của nhân dân” (Lời nói đầu - Hiến pháp 1946). Đặc điểm này của Nhà  
nước ta tiếp tục được khẳng định trong các bản Hiến pháp 1959, 1980 và 1992.  
1 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XII, NXB CTQG – ST 2016, tr.39 – 40.  
2 Sđd, tập 6, tr.515.  
3 Sđd, tập 7, tr.499.  
17  
- Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức hoạt động trên  
cơ sở Hiến pháp, tôn trọng bảo vệ Hiến pháp  
Trong Nhà nước pháp quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị  
được xác lập một cách tập trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp.  
Chính vì lẽ đó Hiến pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, hiệu  
lc pháp lý cao nht, quy định chế độ chính tr, kinh tế, văn hoá, xã hi, quc phòng,  
an ninh, quyn và nghĩa vcơ bn ca công dân, cơ cu, nguyên tc tchc và hot  
động ca các cơ quan nhà nước. Shin din ca Hiến pháp là điu kin quan trng  
nht bo đảm sự ổn định xã hi và san toàn ca người dân.  
Những quan điểm lớn, những nội dung cơ bản của Hiến pháp là cơ sở pháp lý  
quan trọng cho sự duy trì quyền lực nhà nước, cho sự làm chủ của nhân dân. Và đó  
chính là nền tảng có tính chất hiến định để xem xét, đánh giá sự hợp hiến hay  
không hợp hiến của các đạo luật, cũng như các quyết sách khác của Nhà nước và  
của các tính chất chính trị, tính chất hội.  
Hiến pháp có một vai trò quan trọng như vậy trong việc duy trì quyền lực của  
nhân dân, cho nên, việc xây dựng thực hiện một cơ chế hữu hiệu cho việc phát  
hiện, đánh giá và phán quyết về những quy định hoạt động trái với Hiến pháp là  
rất cần thiết trong tổ chức thực hiện quyền lực nhà nước ở nước ta hiện nay.  
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo đảm vị  
trí tối thượng của pháp luật trong đời sống hội  
Pháp luật hội chủ nghĩa của chúng ta là kết quả của sự thể chế hoá đường  
lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị,  
hội, văn hoá giáo dục khoa học, đối nội, đối ngoại. Pháp luật thể hiện ý chí và  
nguyện vọng của nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã  
hội. vậy, nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật  
khách quan của các quy định pháp luật, chứ không phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra  
pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục  
đích tự thân của nó.  
Pháp luật của Nhà nước ta phản ánh đường lối, chính sách của Đảng lợi ích  
của nhân dân. Vì vậy, pháp luật phải trở thành phương thức quan trọng đối với tính  
chất hoạt động của Nhà nước và là thước đo giá trị phổ biến của hội ta: công  
bằng, dân chủ, bình đẳng - những tố chất cần thiết cho sự phát triển tiến bộ bền  
vững của Nhà nước và xã hội ta.  
Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải một hệ thống pháp luật cần và  
đủ để điều chỉnh các quan hệ hội, làm cơ sở cho sự tồn tại một trật tự pháp luật  
kỷ luật. Pháp luật thể chế hoá các nhu cầu quản lý xã hội, là hình thức tồn tại  
của các cơ cấu tổ chức hội của các thiết chế Nhà nước. vậy, sống và  
18  
làm việc theo Hiến pháp và pháp luật lối sống trật tự và lành mạnh nhất của  
hội. Tất cả các quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức hội mọi công  
dân đều phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.  
- Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam tôn trọng bảo vệ quyền  
con người, các quyền tự do của công dân, giữ vững mối liên hệ giữa Nhà nước  
và công dân, giữa Nhà nước và xã hội  
Xét về bản chất, ngọn cờ bảo vệ quyền con người thuộc về các Nhà nước cách  
mạng chân chính, nhà nước hội chủ nghĩa. Cuộc đấu tranh trên bảy mươi năm  
đầy gian khổ hy sinh của dân tộc Việt Nam vì độc lập, tự do dưới sự lãnh đạo của  
Đảng suy cho cùng, chính là vì quyền con người, quyền được sống, quyền tự do và  
quyền mưu cầu hạnh phúc của cộng đồng dân tộc của từng cá nhân, từng con  
người. Do vậy, vấn đề bảo đảm quyền con người, quyền công dân, mở rộng quyền  
dân chủ, nâng cao trách nhiệm pháp lý giữa Nhà nước và công dân, giữa công dân  
với Nhà nước… luôn được Đảng ta dành sự quan tâm đặc biệt. Nhiều Hội nghị của  
Trung ương Đảng đề cập đến vấn đề này như văn kiện đại hội Đảng VI, VII, VIII,  
IX, X và nhiều Nghị quyết trung ương khác. Văn kiện Đại hội Đảng VI xác định:  
Xây dựng một chính quyền không có đặc quyền, đặc lợi, hoạt động cuộc sống  
của nhân dân. Nghị quyết trung ương 8 khoá VII xác định trên nguyên tắc: dân chủ  
hội chủ nghĩa vấn đề thuộc bản chất của Nhà nước ta. Phát huy quyền làm  
chủ của nhân dân trên mọi lĩnh vực. Quyền làm chủ đó được thể chế hoá bằng  
pháp luật… Dân chủ đi đôi với kỷ cương, kỷ luật… Văn kiện Đại hội Đảng IX xác  
định những phương châm cơ bản: xây dựng cơ chế cụ thể để thực hiện phương  
châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" đối với các chủ trương, chính  
sách lớn của Đảng và Nhà nước. Thực hiện tốt các cơ chế làm chủ của nhân dân:  
làm chủ thông qua đại diện (là quan dân cử và các đoàn thể), làm chủ trực tiếp  
bằng các hình thức nhân dân tự quản, bằng việc xây dựng thực hiện các quy  
ước, hương ước tại cơ sở. Đảng và Nhà nước tiếp tục đổi mới phong cách, bảo đảm  
dân chủ trong quá trình chuẩn bị ra quyết định thực hiện các quyết định.  
- Trong nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực nhà nước  
thống nhất, sự phân công và phối hợp kiểm soát giữa các quan nhà nước  
trong việc thực hiện các quyền: lập pháp, hành pháp và pháp, có sự kiểm tra,  
giám sát chặt chẽ việc thực hiện quyền lực nhà nước  
Bt đầu từ Đại hi Đảng ln thVII (1991), vi “Cương lĩnh xây dng đất  
nước trong thi kquá độ lên chnghĩa xã hi”, quan đim vstn ti ca ba  
quyn và sphân công, phi hp gia ba phm vi quyn lc đó ca Nhà nước mi  
được chính thc khng định trên cơ stiếp thu, kế tha, phát trin, vn dng vào  
hoàn cnh lch scthca Vit Nam các tri thc ca nhân loi và trước yêu cu  
ca snghip đổi mi, nâng cao cht lượng, hiu quhot động ca bmáy nhà  
19  
nước. Và đến Hi nghTrung ương ln thtám (khoá VII), (1995) quan nim ca  
Đảng vba quyn đã được bsung quan trng: quyn lc nhà nước là thng nht,  
có sphân công và phi hp cht chgia các cơ quan nhà nước trong vic thc  
hin ba quyn lp pháp, hành pháp, tư pháp. Nghquyết đại hi XI và Cương lĩnh  
xây dng đất nước quá độ lên chnghĩa xã hi (bsung, phát trin năm 2011) đều  
có bsung quan tâm vn đề kim soát quyn lc trong cơ chế tchc quyn lc nhà  
nước nước ta. Theo đó nguyên tc quyn lc nhà nước là thng nht có sphân  
công, phi hp và kim soát gia các cơ quan thc hin quyn lp pháp, hành pháp  
và tư pháp đã được hoàn thin mt bước quan trng. Quan đim vsthng nht  
quyn lc nhà nước có sphân công, phi hp, kim soát cht chgia ba quyn và  
quyn lc nhà nước là mt quan đim có tính nguyên tc chỉ đạo trong thiết kế mô  
hình tchc Nhà nước pháp quyn xã hi chnghĩa Vit Nam trong bi cnh hin  
nay.  
- Nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước do Đảng  
Cộng sản Việt Nam lãnh đạo  
Ở Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với sự nghiệp xây  
dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một tất yếu  
lịch sử tất yếu khách quan.  
+ Đối với dân tộc Việt Nam, sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối  
với nhà nước, đối với hội không chỉ tất yếu lịch sử, tất yếu khách quan mà  
còn ở chỗ sự lãnh đạo đó cơ sở đạo lý sâu sắc cơ sở pháp lý vững vàng.  
+ Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản - Đảng duy nhất cầm quyền đối với đời  
sống hội đời sống nhà nước không những không trái (mâu thuẫn) với bản  
chất nhà nước pháp quyền nói chung mà còn là điều kiện có ý nghĩa tiên quyết đối  
với quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì  
dân ở nước ta. Trong ý nghĩa ấy, nhà nước pháp quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng  
Cộng sản Việt Nam, một Đảng lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh  
làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam hành động một trong những đặc trưng cơ  
bản của nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa ở nước ta.  
Đối với Nhà nước, sự lãnh đạo của Đảng lãnh đạo chính trị, quyết định  
phương hướng chính trị của Nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thực sự tổ  
chức thực hiện quyền lực của nhân dân, thực sự của dân, do dân và vì dân, để thực  
hiện thành công công cuộc đổi mới đất nước theo định hướng hội chủ nghĩa.  
Nhà nước triển khai tổ chức thực hiện các nghị quyết, chủ trương của Đảng bằng  
các hoạt động quản lý nhà nước, tổ chức tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân tham  
gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn  
hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại…  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 44 trang yennguyen 31/03/2022 7620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docchuyen_de_xay_dung_nha_nuoc_phap_quyen_xa_hoi_chu_nghia_cua.doc