Chuyên đề Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam

CHUYÊN ĐỀ 3  
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN,  
TOÀN CẦU HOÁ VÀ HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA VIỆT NAM  
(Tài liệu bồi dưỡng thi nâng ngạch Ngành kiểm tra của Đảng năm 2018)  
-----  
Phần 1  
NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG HỘI CHỦ NGHĨA  
Ở VIỆT NAM  
I. KHÁI QUÁT VỀ NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG  
Theo C. Mác, kinh tế thị trường một giai đoạn phát triển tất yếu của lịch sử  
bất cứ nền kinh tế nào cũng phải trải qua để đạt tới nấc thang cao hơn trên con  
đường phát triển nền kinh tế TBCN chính là nền kinh tế thị trường phát triển  
đến trình độ phổ biến và hoàn chỉnh. Nấc thang cao hơn chính là nền kinh tế cộng  
sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu nền kinh tế XHCN. Để chuyển lên nấc thang  
này, nền kinh tế thị trường phải phát triển hết mức, phải trở thành phổ biến trong  
đời sống kinh tế - xã hội.  
Đây một kết luận luận quan trọng. Nó khái quát quá trình phát triển của  
lịch sử nhân loại, trong đó, kinh tế thị trường được xác định một nấc thang tất  
yếu, mang tính phổ biến. Tính phổ biến của kinh tế thị trường thể hiện ở cấu trúc  
khung chung cho mọi nền kinh tế thị trường.  
1. Những yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường  
Kinh tế thị trường nói chung bao hàm những yếutchyếucơbnnhưsau:  
Thứ nhất, độc lập của các chủ thể trong nền kinh tế  
Nền kinh tế thị trường đòi hỏi sự tồn tại của các chủ thể kinh tế độc lập dưới  
nhiều hình thức sở hữu khác nhau. Các chủ thể này hoàn toàn động lập, tự chủ  
trong việc quyết định: sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào và sản xuất cho ai? Họ  
tự chịu trách nhiệm đối với quyết định sản xuất kinh doanh của bản thân dựa trên  
những tín hiệu thị trường.  
Về bản chất, nền kinh tế thị trường thị trường cấu trúc đa sở hữu. Trong  
cấu trúc, sở hữu tư nhân luôn luôn là thành tố tất yếu, bắt buộc. Phủ nhận sở hữu tư  
nhân có nghĩa là bác bỏ kinh tế thị trường trên thực tế. Bên cạnh sở hữu tư nhân,  
còn có các dạng sở hữu khác là sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể dạng đồng sở  
hữu của các chủ thể khác, ví dụ sở hữu CTCP, DN tư bản nhà nước, v.v.  
1
Về nguyên tắc, các chủ thể sở hữu và các hình thức sở hữu trong nền kinh tế  
thị trường độc lập và bình đẳng với nhau trước pháp luật và trong hoạt động  
kinh doanh. Nhưng mỗi hình thức sở hữu mỗi chủ thể sở hữu lại có vai trò, vị  
thế chức năng đặc thù trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường.  
Thứ hai, hệ thống đồng bộ các thị trường thể chế tương ứng  
Mọi nền kinh tế thị trường đều có các yếu tố cấu thành cơ bản là các thị  
trường, bao gồm các thị trường yếu tố [các thị trường đầu vào như thị trường đất  
đai, thị trường sức lao động, thị trường tài chính (thị trường tiền tệ, thị trường  
vốn, thị trường chứng khoán), thị trường hàng hoá, thị trường khoa học - công  
nghệ] và thị trường hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng. Để nền kinh tế thị trường hoạt  
động hiệu quả, phải bảo đảm hai yêu cầu:  
- Sự hiện diện đầy đủ của tất cả các thị trường nói trên.  
- Các thị trường phải vận hành đồng bộ.  
Để đáp ứng hai yêu cầu này, việc hình thành và phát triển các thị trường phải  
tuân theo một trật tự bước đi xác định. Việc không tuân thủ trật tự đó (ví dụ xây  
dựng thị trường vốn, thị trường chứng khoán nhưng hệ thống các quyền tài sản  
không xác định rõ, thị trường đất đai không được thừa nhận chính thức) thường  
dẫn đến sự rối loạn, vận hành kém hiệu quả của từng thị trường chức năng của  
cả nền kinh tế.  
Bên cạnh đó, sự vận hành đồng bộ của các thể chế thị trường đòi hỏi phải  
thực hiện đầy đủ các nguyên tắc cơ bản của thị trường (chủ thể sở hữu độc lập,  
mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận của doanh nghiệp, cơ chế phân bổ nguồn lực do các  
lực lượng thị trường quyết định là chính, thông qua cạnh tranh tự do, v.v.) trên cơ  
sở được sự bảo đảm của luật pháp. Nếu không được bảo vệ bằng các đạo luật cơ sở  
như luật cạnh tranh, luật về các quyền sở hữu, luật chống độc quyền, luật chống  
bán phá giá tnền kinh tế không thể hoạt động bình thường.  
Thứ ba, hệ thống giá cả được xác lập thông qua tương quan cung-cầu  
quyết định sự vận hành của nền kinh tế thị trường  
Giá cả trên các loại thị trường được xác định dựa trên tương quan cung và cầu  
của từng thị trường đó. Tín hiện giá cả căn cứ khách quan đối với các chủ thể  
kinh tế đưa ra các quyết định sản xuất-kinh doanh của mình trong môi trường cạnh  
tranh thị trường.  
Nền kinh tế thị trường chỉ vận hành được một khi hệ thống giá cả được quyết  
định khách quan bởi thị trường. Trong nền kinh tế thị trường, mục tiêu tối đa hoá  
lợi nhuận động lực chủ yếu thúc đẩy nỗ lực hoạt động hiệu quả kinh doanh  
2
của các doanh nghiệp. Để phục vụ mục tiêu đó, giá cả phải được thiết định trên các  
cơ sở khách quan và được điều tiết bằng cơ chế tự điều tiết (cạnh tranh tự do).  
Thứ tư, cơ chế căn bản vận hành của nền kinh tế thị trường cạnh tranh  
tự do  
Không có cạnh tranh tự do, không thể nói đến kinh tế thị trường. Về bản chất,  
cơ chế cạnh tranh thị trường cơ chế tự điều chỉnh. Do vậy, nó còn được gọi là  
“bàn tay vô hình”. Cơ chế này giúp nền kinh tế tạo lập sự cân bằng mỗi khi bị trục  
trặc.  
Cạnh tranh là cơ chế chủ yếu phân bổ các nguồn lực trong nền kinh tế thị  
trường. Thông qua cạnh tranh, các nguồn lực được rút ra khỏi những ngành, lĩnh  
vực địa điểm đang hoạt động kém hiệu quả, di chuyển đến những nơi lợi thế  
phát triển và thu được hiệu quả kinh doanh, lợi nhuận cao hơn. Thực tế xác nhận  
rằng cho đến nay, sau khi nền kinh tế đã vượt qua trình độ kinh tế nông dân tự cấp  
- tự túc, cạnh tranh là cơ chế phân bổ các nguồn lực hiệu quả nhất.  
Thứ năm, vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước  
Thị trường những khuyết tật cơ chế thị trường thể bị thất bại trong  
việc giải quyết một số vấn đề phát triển, dụ như khủng hoảng, đói nghèo, công  
bằng hội, môi trường, v.v. Để khắc phục chúng và tránh khỏi thất bại thị trường,  
nhà nước phải tham gia quản lý, điều tiết sự vận hành nền kinh tế. Nhà nước tham  
gia vào các quá trình kinh tế thị trường vừa với tư cách là bộ máy quản lý xã hội,  
vừa một yếu tố nội tại của cơ chế vận hành kinh tế. Với các cách đó, nhà nước  
thực hiện ba chức năng:  
- Quản lý, định hướng hỗ trợ phát triển;  
- Phân phối lại thu nhập quốc dân.  
- Bảo vệ môi trường.  
Để thực hiện ba chức năng đó, nhà nước phải giải quyết các nhiệm vụ:  
- Cung cấp khung khổ pháp lý rõ ràng, nghiêm minh, có hiệu lực phù hợp  
với đòi hỏi của cơ chế thị trường;  
- Kiến tạo bảo đảm môi trường vĩ ổn định, có tính khuyến khích kinh  
doanh;  
- Cung cấp kết cấu hạ tầng (gồm hạ tầng "cứng" - giao thông vận tải, cung cấp  
điện nước, v.v. và hạ tầng "mềm" - dịch vụ thông tin, bưu chính - viễn thông; tài  
chính, v.v.) cũng như các dịch vụ và hàng hoá công cộng (chăm sóc sức khoẻ, giáo  
dục - đào tạo, bảo vệ môi trường, v.v.).  
3
- Hỗ trợ nhóm người nghèo các điều kiện tối thiểu để tham gia thị trường bình  
đẳng.  
Năm yếu tố nói trên là 5 yếu tố cấu thành cơ bản khung thể chế chung của  
mọi nền kinh tế thị trường. Chúng hình thành một tổng thể, quy định lẫn nhau.  
Thiếu bất cứ yếu tố nào trong số đó đều không thể nền kinh tế thị trường bình  
thường, vận hành hiệu quả. Tuy nhiên, trong mỗi nền kinh tế thị trường, tuỳ theo  
các điều kiện phát triển cụ thể, vai trò, vị trí và chức năng của từng yếu tố không  
hoàn toàn giống nhau. Điều này tạo nên đặc thù của các mô hình kinh tế thị trường  
nền kinh tế thị trường ở những quốc gia cụ thể.  
1.2. Các mô hình phát triển kinh tế thị trường trong lịch sử  
Cho đến cuối thế kỷ XX, kinh tế thị trường hầu như chỉ một phương án  
phát triển duy nhất biến thành kinh tế TBCN. Song thực tế cho thấy kinh tế thị  
trường không phát triển theo một mô hình duy nhất được thực hiện dưới nhiều  
mô hình khác nhau (thị trường tự do, thị trường - xã hội, v.v).  
Nhằm làm rõ những nét khái quát chung của quá trình phát triển kinh tế thị  
trường, thể trừu tượng hoá một số đặc điểm cụ thể, phản ánh sự giao thoa,  
chuyển tiếp đan xen giữa các mô hình để quy về ba mô hình chủ yếu sau:  
Mô hình kinh tế thị trường tự do;  
Mô hình kinh tế thị trường - xã hội;  
Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN (ở Việt Nam)  
hay kinh tế thị trường XHCN (ở Trung Quốc).  
thể nói ba mô hình kinh tế thị trường nói trên đang bao trùm tất cả các nền  
kinh tế trên thế giới, trừ một vài ngoại lệ như Bắc Triều Tiên. Điều này xác nhận  
kết luận của Mác: kinh tế thị trường giai đoạn phát triển tất yếu; là hình thức  
phổ biến của mọi nền kinh tế ở một trình độ xác định.  
Trong khuôn khổ CNTB, kinh tế thị trường phát triển trong 2 mô hình là kinh  
tế thị trường tự do và kinh tế thị trường hội.  
* Mô hình kinh tế thị trường tự do  
Kinh tế thị trường trong khuôn khổ CNTB chủ yếu phát triển theo mô hình thị  
trường tự do, được thực hiện ở hầu hết các nền kinh tế TBCN Tây Âu và Bắc  
Mỹ. Mô hình này đề cao vai trò của chế độ sở hữu tư nhân, của tự do cá nhân và  
cạnh tranh tự do. Trong mô hình kinh tế thị trường tự do, sự can thiệp điều tiết của  
nhà nước vào các quá trình kinh tế được hạn chế ở mức thấp. Quá trình phát triển  
kinh tế chủ yếu do khu vực tư nhân vận hành dưới sự điều tiết của “bàn tay vô  
hình” (tức cơ chế cạnh tranh tự do). Chức năng chính của nhà nước bảo vệ chế  
độ sở hữu tư nhân và các quyền tự do cá nhân, bảo đảm ổn định vĩ mô, tạo điều  
4
kiện để kinh tế tư nhân và cơ chế thị trường tự do vận hành thuận lợi nhất. Sự tham  
gia của nhà nước vào quá trình phân phối lại, vào hệ thống phúc lợi hội nhằm  
giảm thiểu tình trạng bất bình đẳng, tạo lập công bằng hội, ngăn chặn xử lý  
các thất bại thị trường tuy vẫn được coi trọng nhưng không nhiều như ở các mô  
hình khác. Trong mô hình này, trong khi vai trò động lực phát triển của lợi ích tư  
nhân, lợi ích cá nhân (lợi nhuận) được đề cao thì vai trò "bánh lái" của sự điều tiết,  
định hướng phát triển của nhà nước (bàn tay hữu hình) lại tương đối bị xem nhẹ so  
với các mô hình khác.  
* Mô hình kinh tế thị trường - xã hội  
Mô hình này được thực hiện thành công khá nhiều nước Tây - Bắc Âu, điển  
hình là Đức (quê hương của mô hình kinh tế thị trường - xã hội), Thuỵ Điển, Na  
Uy và Phần Lan. Xét theo tính chất đặc trưng, mô hình này còn có mặt ở một số  
nước khác như Đan Mạch, Hà Lan, Pháp Bỉ với những mức độ khác nhau.  
Về nguyên tắc, mô hình kinh tế thị trường - xã hội thừa nhận các yếu tố cơ  
bản phổ biến của kinh tế thị trường. Tuy nhiên, so sánh với mô hình kinh tế thị  
trường tự do, mô hình này có hai đặc trưng nổi bật.  
- Coi các mục tiêu xã hội và phát triển con người (công bằng hội, phúc lợi  
cho người nghèo và cho người lao động, quyền tự do phát triển của mọi người dân,  
v.v.) là mục tiêu của chính quá trình phát triển kinh tế thị trường;  
- Nhà nước dẫn dắt nền kinh tế thị trường phát triển không chỉ nhằm mục tiêu  
tăng trưởng hiệu quả kinh tế cả mục tiêu phát triển hiệu quả hội.  
Với những đặc trưng trên, tuy mô hình kinh tế thị trường - xã hội một biến  
thể của nền kinh tế TBCN, song nó phản ánh một xu thế tất yếu của sự phát triển.  
Đó là: đến một trình độ phát triển nhất định, trong những điều kiện cụ thể, tự kinh  
tế thị trường không thể giải quyết hiệu quả tất cả các vấn đề phát triển, nhất là  
các mục tiêu phát triển hội và con người. Để đạt được điều đó, trong cơ chế vận  
hành của nền kinh tế thị trường, cần có thêm “bánh lái” để định hướng “động cơ”  
thúc đẩy phát triển đi đúng quỹ đạo nhằm phục vụ tốt không chỉ nhiệm vụ tăng  
trưởng hiệu quả kinh tế cả nhiệm vphát triển hội và con người.  
thể khái quát rằng quá trình phát triển kinh tế thị trường, để đạt hiệu quả,  
cần hướng tới các mục tiêu xã hội và phát triển con người. Cách thức để đạt mục  
tiêu đó không phải phủ nhận thị trường, xoá bỏ cơ chế thị trường mà là đặt nhà  
nước vào vai trò tham gia điều hành và định hướng sự phát triển của kinh tế thị  
trường với tư cách là yếu tố cấu thành của cơ chế kinh tế.  
Việc triển khai mô hình kinh tế thị trường - xã hội trên thực tế đã mang lại  
những kết quả phát triển tích cực, không chỉ ở một vài nước, tại một vài thời điểm  
5
riêng lẻ hàng loạt nước và kéo dài trong nhiều thập niên1. Điều này xác nhận  
tính tất yếu của xu hướng phát triển mô hình kinh tế thị trường - xã hội. Tính tất  
yếu đó cũng được thể hiện ở mô hình kinh tế thị trường đang được triển khai ở  
Trung Quốc Việt Nam.  
* Mô hình kinh tế thị trường XHCN (hay định hướng XHCN)  
Loại mô hình kinh tế thị trường này hiện đang được thực thi chỉ ở hai nước  
(Việt Nam - kinh tế thị trường định hướng XHCN; và Trung Quốc - kinh tế thị  
trường XHCN). Thời gian tồn tại của cũng chỉ mới hơn 1/4 thế kỷ thử nghiệm.  
Tuy vậy, các kết quả thực tế đã chứng tỏ đây là mô hình có sức sống mạnh mẽ và  
triển vọng lịch sử to lớn.  
Sự ra đời của mô hình này gắn liền với sự sụp đổ của CNXH hiện thực, vốn  
phủ nhận vai trò của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển ở các nước nghèo,  
lạc hậu tiến lên CNXH. Sự xuất hiện của mô hình này chứng minh sức sống mãnh  
liệt của xu hướng tiến lên CNCS như một tất yếu khách quan của thời đại; đồng  
thời, khẳng định tính tất yếu phổ biến của kinh tế thị trường với tư cách là một  
giai đoạn bắt buộc trong lịch sử phát triển của mọi nền kinh tế.  
Tuy nhiên, khác với hai mô hình kinh tế thị trường nói trên, tồn tại trong  
khung khổ CNTB, mô hình này mới được xác lập chưa lâu và vẫn đang trong quá  
trình thử nghiệm, định hình cấu trúc và bản chất. Do vậy, chưa căn cứ thực tiễn  
để xác lập một hệ thống luận về với nội dung hoàn chỉnh và logic chặt chẽ.  
Phần giới thiệu mô hình này chỉ đề cập đến một số khía cạnh chính của nền  
kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc.  
1.3. Nền kinh tế thị trường XHCN của Trung Quốc  
Quá trình phát triển đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường XHCN của  
Trung Quốc gắn liền với việc từng bước đoạn tuyệt với nền kinh tế KHH tập trung.  
Quá trình này tiến triển qua 4 giai đoạn:  
1
Nhận xét về thành công thực tiễn và giá trị của mô hình Thuỵ Điển, các nhà lịch sử tư tưởng kinh tế  
viết: “Cho đến những năm 1970, người ta đã thể nói đến một mô hình Thuỵ điển, trong đó, kết hợp  
chặt chẽ công bằng hội với hiệu quả kinh tế. Suốt cả giai đoạn 1932-1970, nhờ lắng nghe ý kiến  
khuyến nghị của các nhà kinh tế thuộc trường phái Thuỵ Điển, đất nước này đã trở thành một hội hiện  
đại kết hợp hài hoà tiến bộ, công nghiệp với mức sống thuộc loại cao bậc nhất trên hành tinh. Đành rằng  
các thành tựu như vậy đương nhiên phải phản ánh các sức mạnh của nền công nghiệp Thuỵ Điển của  
các nhà doanh nghiệp của nó, song chắc rằng khó lòng có được sự phồn vinh ấy nếu (nhà nước) không  
mạnh dạn thực thi các chính sách kinh tế - xã hội” (Lịch sử tư tưởng kinh tế. Geledan chủ biên. NXB  
Khoa học hội.1996. Tập 2. tr. 320).  
Nhưng cần lưu ý thêm rằng từ hơn một chục năm nay, mô hình kinh tế thị trường - xã hội đang phải điều  
chỉnh mạnh mẽ để khắc phục xu hướng trì trệ, thiếu động lực phát triển. Tuy điều này không phủ nhận giá  
trị và tính tích cực của mô hình này, song nó cho thấy trong khi nhấn mạnh vai trò dẫn dắt định hướng  
phát triển nhằm phục vụ hội của nhà nước, phải đặc biệt coi trọng sức mạnh của cơ chế thị trường, của  
mục tiêu lợi nhuận trong việc thúc đẩy phát triển.  
6
- Giai đoạn một (1978-1984): “lấy kinh tế kế hoạch làm chính, lấy điều tiết thị  
trường làm bổ trợ”. Đây bước chuyển mang tính đột phá.  
- Giai đoạn hai (1984-1993): “nền kinh tế XHCN là nền kinh tế hàng hoá có  
kế hoạch trên cơ sở chế đcông hữu”.  
- Giai đoạn ba (1993-2003): xây dựng “thể chế kinh tế thị trường XHCN”,  
thực chất là làm cho thị trường có vai trò cơ sở đối với phân phối tài nguyên, dưới  
sự kiểm soát của nhà nước; hình thành thể chế nghiệp hiện đại phù hợp  
với yêu cầu của kinh tế thị trường, tách chính quyền khỏi nghiệp.  
- Giai đoạn bốn (từ HNTƯ 3 khoá XVI, 2003): khẳng định “nền kinh tế thị  
trường XHCN. Đi liền với sự khẳng định này là việc xác định khung thể chế cơ  
bản của nền kinh tế thị trường XHCN Trung Quốc, bao gồm các yếu tố sau:  
+ Nền kinh tế thị trường XHCN mang tính đa dạng sở hữu, với các đặc trưng:  
1) Chế độ kinh tế cơ bản lấy i) chế độ công hữu làm chủ thể và ii) nhiều chế độ sở  
hữu khác cùng phát triển2; 2) Hình thức cơ bản của chế độ công hữu chế độ cổ  
phần.  
+ Người lao động tự chủ lựa chọn việc làm, thị trường điều tiết việc làm và  
chính phủ thúc đẩy việc làm.  
+ Phân phối theo lao động chủ thể; nhiều hình thức phân phối cùng tồn tại,  
chú trọng giải quyết vấn đề chênh lệch thu nhập.  
+ Nhà nước kiểm soát mô, chức năng quản lý kinh tế của chính phủ chủ  
yếu phục vụ chủ thể thị trường và sáng tạo môi trường phát triển tốt đẹp.  
+ Hiến pháp: cơ sở pháp lý của thể chế kinh tế thị trường XHCN chiếm vị trí  
chủ đạo. Phải dựa vào pháp luật để bảo vệ các quyền sở hữu tài sản, kiện toàn quy  
tắc giao dịch chế độ giám sát quyền sở hữu tài sản.  
So với hai mô hình kinh tế thị trường tự do và kinh tế thị trường - xã hội, bên  
cạnh những yếu tố cấu thành của kinh tế thị trường nói chung, mô hình kinh tế thị  
trường XHCN của Trung Quốc một số nét đặc thù mang tính bản chất, dụ vai  
trò chủ thể của kinh tế công hữu trong hệ thống sở hữu, của nguyên tắc phân phối  
theo lao động trong hệ thống phân phối; vai trò tham gia điều tiết kinh tế vĩ của  
nhà nước, v.v. Gắn với vai trò đặc thù của nhà nước, còn có vai trò đặc biệt của  
một yếu tố thuộc kiến trúc thượng tầng - vai trò định hướng phát triển của Đảng  
Cộng sản nhằm các mục tiêu XHCN.  
2
Đảng CS Trung Quốc xác định muốn phát triển kinh tế thị trường thì phải có kinh tế tư nhân, có chế độ  
sở hữu tư nhân. Nhưng đnền kinh tế XHCN thì phải có kinh tế nhà nước chế độ công hữu. vậy,  
muốn nền kinh tế thị trường XHCN thì chế độ kinh tế cơ bản phải bao gồm chế độ công hữu chế độ  
tư hữu (hay rộng hơn, kinh tế phi công hữu).  
7
Từ tiến trình phát triển nhận thức thực tiễn kinh tế thị trường XHCN ở  
Trung Quốc, nổi lên một số gợi ý sau:  
- Thực chất nội dung của nền kinh tế thị trường XHCN của Trung Quốc  
được làm rõ từng bước đồng thời trên cả ba mặt: luận, đường lối thực tiễn.  
- Các vn đề ca nn kinh tế thtrường XHCN được xem xét và gii quyết trên  
cơ snhn thc vchế độ kinh tế cơ bn, chế độ shu các hình thc shu.  
- Các bước tiến trong đường lối phải được thể chế hoá thành chính sách và  
pháp luật kịp thời, bảo đảm cho thực tiễn vận động theo định hướng và trong  
khuôn khổ luật pháp, kịp thời sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp với thể chế kinh tế  
thị trường XHCN và nhằm mục tiêu tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho sự phát triển  
của kinh tế thị trường.  
1.4. Một số nhận xét khái quát về quá trình phát triển của kinh tế thị  
trường thông qua 3 mô hình cơ bản  
- Thực tiễn phát triển và lý luận kinh điển của Mác đều khẳng định tính tất  
yếu phổ biến của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của mọi quốc gia,  
dân tộc. Do vậy, đối với bất cứ quốc gia nào chưa trải qua kinh tế thị trường, để  
giải quyết được vấn đề phát triển, trước hết phải phát triển kinh tế thị trường theo  
đúng nghĩa; phải tạo điều kiện thuận lợi để nền kinh tế phát huy cao nhất năng lực  
phát triển của thị trường để đạt hiệu quả kinh tế cao nhất. Chỉ trên cơ sở đó, xét  
theo mục tiêu chiến lược, mới thoát khỏi tình trạng lạc hậu, nhờ đó, điều kiện  
vật chất và tinh thần để đáp ứng các mục tiêu xã hội và nhân văn.  
- Tuy nhiên, kinh tế thị trường không phát triển theo một phương án duy nhất  
(phát triển thành kinh tế TBCN), cũng không theo một mô hình đơn nhất (thị  
trường tự do). Thực tiễn đã xác nhận những phương án và mô hình phát triển kinh  
tế thị trường khác nhau mang tính đặc thù, phụ thuộc vào những điều kiện xác  
định, hoàn cảnh phát triển cụ thể của quốc gia - dân tộc. Một quốc gia đi sau không  
nhất thiết phải vận dụng cứng nhắc các nguyên lý lý luận; cũng không nhất thiết  
phải rập khuôn các mô hình kinh tế thị trường sẵn ở đâu đó, dù là mô hình hiệu  
quả, để giải quyết các vấn đề phát triển mang nhiều nét đặc thù của mình.  
- Trong quá trình tiến hoá vmô hình ca kinh tế thtrường trên thế gii, các  
mô hình xut hin sau đều phn ánh mt xu hướng chung trong sphát trin ca  
kinh tế thtrường. Đó là: 1) Ngày càng nhn mnh các mc tiêu xã hi - con người;  
2) Tha nhn vai trò định hướng, tchc và điu tiết phát trin ca nhà nước.  
Việc khẳng định tính phổ biến trong các mô hình kinh tế thị trường đặc thù  
hàm ý rằng việc lựa chọn mô hình thị trường định hướng XHCN là đúng với xu  
hướng chung của loài người.  
8
2. QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI TƯ DUY LÝ LUẬN THỰC TIỄN PHÁT  
TRIỂN NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XHCN Ở VIỆT NAM  
Khái niệm “kinh tế thị trường định hướng XHCN” được khẳng định tại Đại  
hội Đảng IX năm 2001. Đây kết quả của quá trình 15 năm đổi mới tư duy và  
thực tiễn ở nước ta, được đúc kết lại trên cơ sở kiểm điểm, đánh giá và rút ra các  
bài học lớn tại các kỳ Đại hội Đảng.  
Quá trình đổi mới tư duy lý luận về kinh tế thị trường định hướng XHCN  
được xác định trên cơ sở khái quát lại quá trình đổi mới qua ba nấc thang nhận  
thức về nền kinh tế XHCN, tương ứng với ba giai đoạn phát triển của nền kinh tế:  
Trước Đại hội Đảng VI (năm 1986); Từ Đại hội Đảng VI đến Đại hội Đảng IX  
(1986-2000) và Từ Đại hội Đảng IX đến nay.  
2.1. Giai đoạn trước Đại hội VI (1986)  
Nền kinh tế vận hành trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao  
cấp. Những cải tiến theo hướng kinh tế thị trường chủ yếu ở cấp vi mô, mang tính  
cục bộ, không triệt để thiếu đồng bộ, diễn ra trong khuôn khổ cơ chế kế hoạch  
hoá tập trung và nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế công hữu, tập trung, bao  
cấp đóng cửa.  
- Đây là giai đoạn nền kinh tế chịu sự thống trị tuyệt đối của chế độ sở hữu  
công cộng, vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung với các đặc trưng nổi bật  
là quan liêu - bao cấp. Các quan hệ hàng hoá, tiền tệ, thị trường bị phủ nhận.  
- Do tính kém hiệu quả của nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, dưới áp lực  
của thực tiễn, trong thời kỳ cuối thập niên 1970, đầu thập niên 1980, trong nền  
kinh tế diễn ra những cải cách cục bộ theo hướng bước đầu thừa nhận thị trường là  
một công cụ bổ sung cho kế hoạch, chủ yếu để tổ chức hoạt động kinh doanh ở cấp  
vi mô Với sự thừa nhận này, thị trường không bị coi là đối lập với CNXH và có thể  
chấp nhận được trong quá trình xây dựng CNXH.  
Năm 1979: Hội nghị TƯ 6 (khoá IV): Nghị quyết về lưu thông - phân  
phối, mở đường áp dụng cơ chế “kế hoạch 3 phần” trong các DNNN, cho phép  
DNNN vươn ra thị trường tự do với phần vượt ra ngoài kế hoạch pháp lệnh.  
Năm 1981: Khoán 100 trong nông nghiệp. Hộ nông dân nhận khoán sản  
phẩm được quyền bán sản phẩm vượt khoán trên thị trường tdo.  
Đây là hai điểm đột phá thị trường đầu tiên hai lĩnh vực kinh tế chủ chốt,  
tạo động lực phát triển mạnh mẽ cho doanh nghiệp, tập thể người lao động.  
Tuy đây sự chuyển biến nhận thức thực tiễn quan trọng, mang tính đột  
phá, song vẫn chưa đủ để tạo ra một bước ngoặt căn bản trong quan điểm luận  
thực tiễn về quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế XHCN. Thị trường  
9
chỉ được coi là công cụ bổ sung. Công cụ chủ yếu để quản lý, điều hành và tổ chức  
kinh tế vẫn kế hoạch pháp lệnh với các chỉ tiêu định lượng cụ thể giao xuống  
từng doanh nghiệp (xí nghiệp quốc doanh và HTX). Về thực chất, đó những cải  
tiến, cải cách thể chế cục bộ trong khuôn khổ cơ chế cũ (kế hoạch hoá tập trung) và  
nhằm duy trì, củng cố hệ thống kinh tế vận hành thông qua cơ chế đó.  
Giai đoạn 1984-1986: nhà nước giảm dần số mặt hàng cung cấp định  
lượng, thu hẹp dần chế độ hai giá. Năm 1985, dưới áp lực lạm phát mạnh, tiến  
hành đổi tiền. Các bước “tiến ra” thị trường này gây “sốc” mạnh trong xã hội do  
giá của ngày càng nhiều hàng hoá chuyển thành giá thị trường trong khi giá các sản  
phẩm đầu vào như lương (giá lao động) và lãi suất, tỷ giá (giá vốn) và giá một số  
mặt hàng thiết yếu (gạo, chất đốt, thịt, v.v.) vẫn là phi thị trường. Nền kinh tế lâm  
vào rối loạn, khủng hoảng. Nguyên nhân không phải do áp dụng các quan hệ giá trị  
- thị trường do áp dụng chúng thiếu đồng bộ, không hệ thống thiếu triệt để.  
- Trong nhận thức luận, vẫn chưa thừa nhận những thay đổi mang tính cấu  
trúc của nền kinh tế thiếu chúng, không thể nền móng cho sự tồn tại và phát  
triển của kinh tế thị trường. Cụ thể:  
+ Trên thực tế, chưa thừa nhận tính tất yếu của kinh tế đa thành phần, đa sở  
hữu, của sở hữu tư nhân và các lợi ích hợp pháp được hưởng từ các quyền tài sản  
(phủ nhận nguyên tắc phân phối dựa vào nguồn vốn đóng góp).  
+ Không thừa nhận quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm tài chính  
của doanh nghiệp.  
+ Nền kinh tế vận hành theo nguyên tắc "hiện vật", phủ nhận thị trường, giá  
cả cạnh tranh thị trường.  
+ Tiếp tục duy trì mô hình tự cung - tự cấp kiểu viết: xây dựng nền kinh tế  
tự bảo đảm, ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, hướng nội, phụ thuộc vào nguồn  
tài trợ quốc tế (từ các nước XHCN).  
- Hệ quả của những thay đổi cục btrong duy và thực tiễn trước đổi mới:  
+ Nn kinh tế nhiu thành phn, đa shu không được tha nhn trên thc tế;  
+ Cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp tiếp tục thống trị.  
+ Thị trường bắt đầu có tác động tích cực nhưng rất hạn chế, không đóng vai  
trò điều tiết hoạt động của doanh nghiệp.  
+ Nền kinh tế bị rối loạn, lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng.  
+ Lực lượng SX bị trói buộc; quan hệ sản xuất trở thành lực cản phát triển.  
+ Tình thế khng hong làm gia tăng áp lc đổi mi toàn din cơ chế kinh tế.  
2. Giai đoạn từ Đại hội VI (1986) đến hết Đại hội VIII (2001)  
10  
Đổi mới toàn diện cả cấu trúc và cơ chế vận hành nền kinh tế với nội dung  
chính là từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, phát triển nền kinh tế nhiều  
thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường, sự quản của nhà nước, theo  
định hướng XHCN.  
- Đại hội VI đột phá mạnh căn bản trong duy lý luận bằng việc đề ra  
đường lối đổi mới, trong đó, phê phán và từ bỏ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao  
cấp, coi sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá không phải sản phẩm riêng có  
của CNTB, thừa nhận sự tồn tại khách quan của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành  
phần theo định hướng XHCN, vận hành theo cơ chế thị trường sự quản của  
nhà nước” trên con đường đi lên CNXH (Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời  
kỳ quá độ lên CNXH được thông qua tại Hội nghị giữa kỳ Đại hội VII).  
- Khẳng định các yếu tố cấu thành cơ bản của nền kinh tế hàng hoá trong giai  
đoạn quá độ đi lên CNXH ở Việt Nam:  
+ Các thành phần kinh tế với các loại hình sở hữu khác nhau, cùng tồn tại lâu  
dài, trong đó, sở hữu toàn dân và tập thể nền tảng, kinh tế quốc doanh đóng vai  
trò chủ đạo.  
+ Đổi mới khu vực DNNN theo hướng tăng quyền tự chủ tự chịu trách  
nhiệm tài chính, chịu sự điều tiết ngày càng nhiều của thị trường.  
+ Tạo điều kiện khuyến khích sự phát triển của các DN thuộc mọi thành  
phần kinh tế phi nhà nước; đẩy mạnh thu hút đầu tư nước ngoài trực tiếp tăng  
cường hoạt động của các doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam.  
+ Thừa nhận cơ chế một giá do thị trường định đoạt đối với đại bộ phận hàng  
hoá và dịch vụ. Từng bước áp dụng chế độ lãi suất tỷ giá thị trường;  
+ Thừa nhận cạnh tranh bình đẳng, giảm độc quyền đặc quyền trong kinh  
doanh. Xoá bỏ ngăn sông cấm chợ, cho phép tự do giao lưu hàng hoá, thống nhất  
thị trường cả nước.  
+ Chấp nhận tính chất chính đáng của động cơ lợi nhuận trong kinh doanh;  
thừa nhận tính hợp pháp của thu nhập từ các quyền tài sản trong khi vẫn coi thu  
nhập từ lao động là nguyên tắc chủ yếu.  
+ Giới hạn vai trò trực tiếp phân bổ nguồn lực thông qua đầu tư từ NSNN; tạo  
điều kiện để thị trường trở thành công cụ chủ yếu phân bổ các nguồn lực.  
- Mở cửa kinh tế từng bước hội nhập kinh tế quốc tế, đa phương hoá, đa  
dạng hoá quan hệ với thế giới, chủ trương làm bạn với tất cả các nước, biến nền  
kinh tế nước ta thành một bộ phận của nền kinh tế thế giới và khu vực.  
- Mở rộng cơ hội phát triển cho đông đảo nhân dân thuộc tất cả các tầng lớp  
trên cả nước. Lợi ích do đổi mới mang lại được phân phối rộng khắp tương đối  
11  
bình đẳng trong xã hội. Nhân dân ngày càng có nhiều cơ hội việc làm, tiếp thu tri  
thức mới và nâng cao trình độ văn hoá và năng lực hành động. Quá trình đổi mới  
giúp nhận thức đầy đủ hơn, đi đến khẳng định quan điểm: "phát triển kinh tế phải  
đi đôi với tiến bộ và công bằng hội, bảo vệ môi trường"; thực hiện mục tiêu  
hành động: "dân giàu, nước mạnh, hội công bằng, văn minh".  
- Nhờ đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội; nền kinh tế  
tăng trưởng khá nhanh và vững chắc, tạo nên những chuyển biến cơ bản trong phát  
triển kinh tế - xã hội; giữ vững vai trò lãnh đạo của Đảng; giữ vững độc lập chủ  
quyền và an ninh quốc gia, tạo chuyển biến mạnh trong quá trình CNH, HĐH đất  
nước, cải thiện đáng kể đời sống các tầng lớp nhân dân, đạt thành tích có ấn tượng  
về xoá đói giảm nghèo và phát triển con người.  
* Các mốc đổi mới chủ yếu của giai đoạn 1986-2001  
a)1986-1987: đổi mới tư duy, chuẩn bị về mặt tư tưởng đường lối đổi mới  
tiến hành đổi mới trên thực tế ở một số lĩnh vực.  
- Đại hội Đảng VI: đề ra đường lối đổi mới, trong đó, nhấn mạnh yêu cầu đổi  
mới tư duy. Tư tưởng coi việc “sử dụng đúng đắn quan hệ hàng hoá - tiền tệ đặc  
trưng thứ hai của cơ chế mới về quản lý” (sau tính kế hoạch), đòi hỏi “sản xuất  
phải gắn với thị trường, mọi hoạt động kinh tế phải so sánh chi phí với hiệu quả,  
các tổ chức đơn vị kinh tế phải tự đắp chi phí và có lãi để tái sản xuất mở  
rộng”, v.v. được ghi trong Báo cáo Chính trị của Đại hội đột phá quan trọng về  
tư tưởng đường lối phát triển kinh tế của thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.  
- 1987: Sửa đổi Luật Đất đai, ban hành Luật Đầu tư nước ngoài trực tiếp, một  
đạo luật được coi là rất thông thoáng. Chuyển sang chính sách tỷ giá sát với tỷ giá  
thị trường. Mở cửa cho xuất khẩu các loại nông sản, đặc biệt gạo.  
Thực trạng: nền kinh tế trong giai đoạn lạm phát phi mã, khủng hoảng nặng  
nề. Tình hình này tạo áp lực phải tiến hành đổi mới trên thực tế một cách mạnh mẽ  
quyết liệt. Một số đổi mới thực tế ban đầu theo hướng thị trường mở cửa đã  
tạo ra những chuyển biến sức thuyết phục, tăng thêm quyết tâm đổi mới hệ  
thống, đồng bộ mạnh mẽ.  
b) 1988 - 1990: tiến hành đổi mới một cách có hệ thống, tương đối đồng bộ  
triệt để trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế:  
- Khoán 10 trong nông nghiệp; thiết lập hệ thống ngân hàng hai cấp.  
- Xoá bỏ chế độ hai giá, áp dụng hệ thống giá thị trường, thống nhất hệ thống  
tỷ giá và thực hiện chế độ lãi suất dương để chống lạm phát;  
- Thông qua Pháp lệnh về NHNN, Pháp lệnh về các NHTM và các Tổ chức  
tín dụng;  
12  
- Sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài;  
- Ban hành Luật Công ty;  
- Cho phép các công ty nhân trực tiếp xuất, nhập khẩu.  
Kết quả: Việt Nam trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới; lạm phát phi  
được kiềm chế kiểm soát. Năm 1990, GDP tăng trưởng 8,3%. Vốn FDI đăng  
đạt hơn 1 tỷ USD; khai thác được hơn 2 triệu tấn dầu thô.  
c) 1991-1996: Tiếp tục đẩy mạnh đổi mới thể chế định hình khung cấu trúc  
thể chế của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần.  
- 1991: Đại hội Đảng VII, thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong  
thời kỳ quá độ lên CNXH”. Cương lĩnh khẳng định đường lối Phát triển một nền  
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN. Kinh tế quốc doanh  
giữ vai trò chủ đạo... Xoá bỏ triệt để cơ chế quản tập trung quan liêu, bao cấp,  
hình thành cơ chế thị trường sự quản của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch,  
chính sách và các công cụ khác.”  
- Năm 1992, thông qua Hiến pháp mới, chính thức thừa nhận nền kinh tế hàng  
hoá nhiều thành phần;  
- Thí điểm cổ phần hoá DNNN (1992), bắt đầu triển khai rộng từ năm 1996.  
- Sửa đổi Luật Đất đai, ban hành Luật Phá sản; Luật DNNN;  
- Lệnh cấm vận của Mỹ được tháo bỏ (1993); Năm 1995, Việt Nam trở thành  
thành viên ASEAN và bình thường hoá quan hệ với Mỹ.  
- Bãi bỏ nhiều loại giấy phép xuất khẩu chế độ quản bằng hạn ngạch.  
Kết quả: Nhờ các biến đổi thể chế được tiến hành đồng bộ nhất quán, nền  
kinh tế đã đạt được những kết quả tăng trưởng và phát triển “ngoạn mục”: ngoại  
thương tăng trưởng 25-40%/năm; GDP tăng trưởng đạt kỷ lục năm 1995: 9,54%.  
FDI đăng đạt 10 tỷ USD năm 1994 và 27 tỷ USD năm 1996. Đà tăng trưởng và  
chuyển dịch cơ cấu kinh tế mạnh được xác lập. Tỷ lệ người nghèo giảm nhanh.  
d) 1996-2000: nhịp đổi mới thể chế phần chững lại, nền kinh tế chịu tác  
động tiêu cực mạnh mẽ của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực.  
- Đại hội Đảng VI (1996) tổng kết 10 năm đổi mới, nhận định nước ta đã  
thoát khỏi tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội, bước vào thời kỳ đẩy mạnh  
CNH, HĐH đất nước, đặt mục tiêu đến năm 2020, đưa nước ta "về cơ bản trở  
thành nước công nghiệp". ĐH xác nhận những thành tựu phát triển to lớn do đổi  
mới mang lại, khẳng định con đường đổi mới, phát triển nền kinh tế hàng hoá  
nhiều thành phần, theo định hướng XHCN có sự quản của nhà nước đúng đắn.  
13  
- HNTƯ 4 (khoá VIII, tháng 12/1997) phân tích xu hướng chững lại của quá  
trình đổi mới tăng trưởng kinh tế một cách nghiêm khắc và toàn diện, cảnh báo  
những nguy và thách thức lớn do các điểm yếu nghiêm trọng bên trong gây ra.  
Từ nửa cuối năm 1997, nền kinh tế nước ta chịu tác động tiêu cực từ cuộc  
khủng hoảng khu vực và tình hình thị trường thế giới bất lợi (giá nhiều mặt hàng  
xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gạo, cà phê, dầu lửa bị giảm mạnh hoặc bất  
ổn định), cộng hưởng với tác động do các yếu kém bên trong gây ra, làm cho tốc  
độ tăng trưởng kinh tế bị suy giảm kéo dài, nền kinh tế có nguy lâm vào tình  
trạng trì trệ. Dòng đầu tư nước ngoài trực tiếp bị sụt giảm mạnh và liên tục trong  
khi dòng ODA vẫn được duy trì và tăng lên. Cho đến năm 2002, tốc độ tăng trưởng  
vẫn chưa khôi phục lại được mức của giai đoạn 1994-1996.  
- Từ năm 1998, Chính phủ áp dụng chính sách "kích cầu đầu tư" nhằm khắc  
phục xu hướng suy giảm tốc độ tăng trưởng và tình trạng trì trệ trong nền kinh tế.  
Chính sách này có tác động vực dậy nền kinh tế, song cũng gây ra một số hậu quả  
tiêu cực, phục hồi các yếu tố của cơ chế cũ (bao cấp, xin cho, bảo hộ nhà nước, độc  
quyền DNNN), làm giảm hiệu lực của chương trình điều chỉnh cơ cấu nhằm thúc  
đẩy quá trình đổi mới theo hướng thị trường - mở cửa.  
- Luật Doanh nghiệp được áp dụng từ năm 2000, giúp khu vực tư nhân thoát  
khỏi nhiều ràng buộc thủ tục hành chính bất hợp lý, tạo ra sự bùng nổ phát triển  
trong nền kinh tế. Tuy nhiên, do vẫn gặp một số lực cản nên môi trường kinh  
doanh chỉ mới thực sự thông thoáng khâu gia nhập thị trường. Do đó, sức khuyến  
khích phát triển của Luật vẫn phần bị hạn chế.  
- Quá trình CPH DNNN diễn ra chậm hơn kế hoạch của Chính phủ. Nguyên  
nhân: quan điểm tư tưởng chưa hoàn toàn thông suốt; quan hệ lợi ích giữa nền kinh  
tế, khu vực kinh tế nhà nước, DNNN, cán bộ người lao động chưa cơ chế  
giải quyết thoả đáng; chương trình và các giải pháp CPH chưa được thiết kế phù  
hợp; quyết tâm CPH chưa thực scao.  
- Tuy gặp nhiều khó khăn, Chính phủ vẫn thực hiện kết quả các Chương  
trình xoá đói giảm nghèo. Cùng với hiệu ứng việc làm - thu nhập từ sbùng nổ của  
khu vực tư nhân, các chương trình này bảo đảm duy trì thành tích xoá đói giảm  
nghèo ngoạn mục của Việt Nam, khẳng định sự lựa chọn định hướng XHCN của  
sự phát triển kinh tế thị trường đúng đắn.  
Hệ quả: Tốc độ tăng trưởng kinh tế, tuy vẫn "dương", song bị sụt giảm kéo  
dài. Nền kinh tế thiếu ổn định vững chắc. Nhịp đổi mới cơ chế, thể chế kinh tế theo  
hướng thị trường - mở cửa chậm lại. Chất lượng tăng trưởng năng lực cạnh  
tranh của nền kinh tế chậm được cải thiện. Nhiều điểm yếu cơ cấu cơ chế  
nghiêm trọng bộc lộ ngày càng rõ. Xu hướng cơ cấu ngành hướng nội, sử dụng  
14  
nhiều vốn, thiếu năng lực cạnh tranh gia tăng; hệ thống thể chế kinh tế thị trường  
thiếu đồng bộ.  
e) Những giới hạn nhận thức về nền kinh tế trong giai đoạn xây dựng XHCN  
(đến năm 2000)  
- Vẫn coi thị trường chỉ một cơ chế để điều tiết nền kinh tế chứ chưa phải là  
một chỉnh thể hoàn chỉnh, bao gồm cả cấu trúc nội tại lẫn thiết chế vận hành, chưa  
tiến tới quan niệm xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Về thực  
chất, chưa coi kinh tế thị trường cơ sở kinh tế của hội tiến lên CNXH.  
- Chưa làm sáng tỏ vai trò của nhà nước trong nền kinh tế thị trường do chưa  
phân định chức năng nhà nước - thị trường. Nhà nước vẫn ôm đồm, bao biện  
nhiều chức năng thị trường đảm nhiệm hiệu quả hơn (phân phối vốn; quản trị  
DN) trong khi chưa chú ý đúng mức đến những chức năng mà nhà nước phải hoàn  
thành (xây dựng thực thi khung khổ quản lý nhà nước 'khung khổ hành chính -  
pháp lý', cung cấp hàng hoá và dịch vụ công, hỗ trợ phát triển, v.v.).  
- Tư tưởng bảo hộ khu vực DNNN vẫn còn nặng. Nhận thức về vai trò của hệ  
thống giá cả thị trường cạnh tranh tự do trong nền kinh tế thị trường không rõ  
ràng, thể hiện qua thái độ đối với tình trạng độc quyền của nhiều DNNN.  
- Chưa nhận thức thật vấn đề thế nào là định hướng XHCN trong nền kinh  
tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường sự quản của nhà nước.  
- Chưa xác định thế nào là "kinh tế nhà nước đóng vai trò chủ đạo", cần  
phải làm gì để "kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể dần dần trở thành nền tảng" mà  
không vi phạm các nguyên tắc cơ bản của thị trường.  
- Chưa định rõ khái niệm "bóc lột", do đó, còn lúng túng trong thái độ đối với  
kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản tư nhân.  
- Khuôn khổ pháp lý - hành chính cho kinh doanh thị trường không đầy đủ,  
thiếu đồng bộ, mâu thuẫn và khó dự báo.  
- Chưa hiểu rõ yêu cầu và nguyên tắc xây dựng đồng bộ các yếu tố thị trường  
trong một lộ trình hợp lý.  
- Thừa nhận mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế tất yếu phải chủ động  
tham gia nhưng lại chưa xây dựng được quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ  
phù hợp với các điều kiện phát triển mới của thế giới đất nước.  
2.3. Giai đoạn thực hiện các mục tiêu của Đại hội IX (2001-2006)  
Chuyển từ nhận thức thị trường như một công cụ, một cơ chế quản lý kinh tế  
sang nhận thức thị trường một chỉnh thể, cơ sở kinh tế của hội trong giai  
15  
đoạn tiến lên CNXH. Đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng  
XHCN.  
Đại hội IX khái quát mô hình nền kinh tế thị trường thể hiện sự phát triển tư  
duy hệ thống về mô hình tổng quát của Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên CNXH.  
Đảng và Nhà nước ta chủ trương thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát  
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường, có  
sự quản của nhà nước theo định hướng XHCN, đó chính là nền kinh tế thị  
trường định hướng XHCN3.  
- Xác định một loạt yếu tố bảo đảm định hướng XHCN của sự phát triển kinh  
tế thị trường:  
+ Bổ sung “dân chủ” vào hệ mục tiêu phát triển tổng quát: “độc lập dân tộc  
gắn liền với CNXH, dân giàu, nước mạnh, XH công bằng, dân chủ, văn minh”.  
+ Xác nhận chiến lược CNH, HĐH rút ngắn trong môi trường hội nhập kinh  
tế quốc tế.  
+ Coi “từng bước phát triển kinh tế tri thức” một nội dung của chiến lược  
phát triển kinh tế.  
+ Kinh tế thị trường sự quản của nhà nước (nhà nước XHCN).  
+ "Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động hiệu quả kinh tế;  
đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác … Tăng  
trưởng kinh tế gắn liền bảo đảm tiến bộ và công bằng hội ngay trong từng  
bước phát triển", "đi đôi với phát triển văn hóa và giáo dục".  
- Chọn ba mũi đột phá chiến lược trong phát triển kinh tế - xã hội là:  
+ Xây dựng đồng bộ hệ thống thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN  
trọng tâm là đổi mới cơ chế, chính sách nhằm giải pháp triệt để lực lượng sản  
xuất, mở rộng thị trường trong và ngoài nước;  
+ Tạo bước chuyển mạnh về phát triển nguồn nhân lực, trọng tâm là giáo dục  
đào tạo, khoa học và công nghệ;  
+ Đổi mới bộ máy và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị, trọng  
tâm là cải cách hành chính, xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh..  
Với sự xác định như vậy, Đại hội IX đã tiến một bước dài trong việc cụ thể  
hoá mô hình phát triển kinh tế theo định hướng XHCN của Việt Nam.  
3 Sđd. tr.86  
16  
- Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ (12-2001) phát huy tác dụng tích cực, mở  
ra nhiều cơ hội phát triển to lớn cho nền kinh tế và các doanh nghiệp Việt Nam. Nó  
chứng tỏ việc giải phóng thể chế mang lại sức thúc đẩy phát triển mạnh mẽ.  
- Luật Doanh nghiệp tiếp tục phát huy tác dụng, với sức lan toả mạnh, tạo nên  
làn sóng phát triển mới trong khu vực tư nhân.  
- Quá trình mở cửa hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh (thực hiện  
AFTA, đẩy mạnh quá trình liên kết kinh tế ASEAN theo hướng xây dựng Cộng  
đồng kinh tế ASEAN; tham gia ASEM, ký Hiệp định bảo hộ đầu tư với Nhật Bản;  
thúc đẩy quá trình gia nhập WTO, v.v.).  
Kết quả: Nền kinh tế khôi phục lại nhịp tăng trưởng đi lên; giữ vững được ổn  
định. Tuy nhiên, từ sau Đại hội IX, đã nẩy sinh thêm nhiều vấn đề mới trong quá  
trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta. Nền kinh tế  
hội nhập sâu và nhanh hơn vào nền kinh tế thế giới; song các vấn đề về chất lượng  
tăng trưởng (các vấn đề cơ cấu, thể chế, sức cạnh tranh) là rất nghiêm trọng. Nền  
kinh tế vẫn trong tình trạng tụt hậu xa hơn. Tăng trưởng vẫn thấp hơn mức tiềm  
năng. Một số vấn đề cơ bản trong nhận thức luận, quan điểm, tư tưởng và chính  
sách về nền kinh tế thị trường định hướng XHCN - vấn đề về sở hữu, về cơ cấu  
thành phần, về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, vai trò của nhà nước, về quan  
hệ giữa tăng trưởng đói nghèo, giữa các yếu tố kinh tế - xã hội kiến trúc  
thượng tầng, v.v. - đòi hỏi phải được giải quyết triệt để để định hình khung lý luận  
cho nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.  
2.4. Giai đoạn thực hiện các mục tiêu của Đại hội X (2006-2011)  
Đại hội X - Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Đất nước ta đã ra khỏi  
khủng hoảng kinh tế - xã hội, sự thay đổi cơ bản và toàn diện. Kinh tế tăng  
trưởng khá nhanh, sự nghiệp CNH, HĐH, phát triển kinh tế thị trường định hướng  
XHCN được đẩy mạnh. Đời sống nhân dân được cải thiện rệt(4).  
Đánh giá việc thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2010,  
Đại hội XI - Đảng cộng sản Việt Nam đã khẳng định: “Chúng ta đã tranh thủ thời  
cơ, thuận lợi, vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, nhất những tác động tiêu  
cực của hai cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế khu vực và toàn cầu, đạt được  
những thành tựu to lớn rất quan trọng, đất nước đã ra khỏi tình trạng kém phát  
triển, bước vào nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình. Nhiều mục tiêu  
chủ yếu của Chiến lược 2001-2010 đã được thực hiện, đạt bước phát triển mới cả  
về lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất. Kinh tế tăng trưởng nhanh, đạt tốc độ  
bình quân 7,26%/năm.  
(4)  
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà  
Nội, 2006, tr.67.  
17  
Năm 2010, tổng sản phẩm trong nước bình quân đầu người đạt 1.168 USD.  
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực. Thể chế kinh tế thị trường định  
hướng hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện. Các lĩnh vực văn  
hóa, xã hội đạt thành tựu quan trọng trên nhiều mặt, nhất là xóa đói, giảm nghèo.  
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rệt; dân chủ trong  
hội tiếp tục được mở rộng. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh  
được giữ vững. Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được triển khai sâu rộng và  
hiệu quả, góp phần tạo môi trường hòa bình, ổn định tăng thêm nguồn lực cho  
phát triển đất nước”(5).  
thể khái quát các thành tựu nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở  
Việt Nam đạt được như sau:  
Một là: Đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế, tăng trưởng kinh tế  
nhanh và ổn định.  
Hai là: Tạo dựng được những tiền đề cần thiết cho sự phát triển kinh tế thị  
trường sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; cải thiện một bước  
kết cấu hạ tầng kinh tế hội, tạo điều kiện thúc đẩy phát triển kinh tế đời sống  
nhân dân; hệ thống giáo dục, khoa học công nghệ phát triển khá, thể chế kinh tế thị  
trường đã từng bước được hình thành và phát triển.  
Ba là: Cơ cấu kinh tế sự chuyển biến tích cực để phát huy tiềm năng của  
từng ngành, từng vùng trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá.  
Bốn là: Kinh tế đối ngoại được mở rộng và phát triển, khả năng hội nhập khu  
vực thế giới được tăng cường.  
Năm là: Thành quả của hội về xoá đói giảm nghèo.  
Việc đạt được những thành tựu nêu trên là nhờ: “Phát huy được sức mạnh  
của toàn dân tộc, sự nỗ lực phấn đấu vượt bậc, năng động, sáng tạo của toàn dân,  
toàn quân, cộng đồng doanh nghiệp của cả hệ thống chính trị, sự quản điều  
hành có hiệu quả của Nhà nước dưới slãnh đạo đúng đắn của Đảng(6).  
Những thành tựu đó chứng tỏ đường lối đổi mới của Đảng ta là đúng đắn,  
sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam.  
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, trong nền kinh tế thị trường  
định hướng hội chủ nghĩa ở Việt Nam còn có một số mặt hạn chế: hệ thống thị  
trường chưa đồng bộ; môi trường kinh tế (gồm cả vĩ mô và vi mô) chưa được hoàn  
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà  
Nội, 2011, tr.73, 74.  
(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà  
Nội, 2011, tr. 92.  
18  
thiện chưa thực sự hiệu quả, năng lực quản lý nhà nước cơ chế chính sách  
chưa theo kịp thực tiễn; nguồn nhân lực chưa đáp ứng được với kinh tế thị trường  
trong bối cảnh hội nhập.  
Đại hội X - Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhận định: Cho đến nay nước ta  
vẫn trong tình trạng kém phát triển. Kinh tế còn lạc hậu so với nhiều nước trong  
khu vực và trên thế giới. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội, xây dựng hệ thống chính trị,  
còn nhiều yếu kém. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi  
mới và xây dựng CNXH ở nước ta, đặc biệt là trong việc giải quyết các mối quan  
hệ giữa tốc độ tăng trưởng chất lượng phát triển7.  
2.5. Giai đoạn thực hiện các mục tiêu của Đại hội XI  
Đại hội XI cũng đã chỉ rõ: Những thành tựu đạt được chưa tương xứng với  
tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Chất lượng tăng trưởng, năng suất,  
hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp, các cân đối kinh tế vĩ chưa vững  
chắc, cung ứng điện chưa đáp ứng yêu cầu. Công tác quy hoạch, kế hoạch việc  
huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải;  
quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yếu kém, việc thực  
hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập. Tăng  
trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm  
chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội một số mặt  
yếu kém chậm được khắc phục, nhất về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối  
sống trong một bộ phận hội xuống cấp. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm  
nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu  
quả, chính sách đất đai mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất  
lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng vẫn những điểm nghẽn cản trở sự phát  
triển. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa  
được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị  
- xã hội đe dọa chủ quyền quốc gia”(8).  
Nguyên nhân của thực trạng nói trên: “Có phần do nguyên nhân khách quan,  
trong đó những vấn đề mới chưa tiền lệ trong quá trình chuyển đổi sang nền  
kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, nhưng nguyên nhân chủ quan là  
chủ yếu: Tư duy phát triển kinh tế - xã hội phương thức lãnh đạo của Đảng  
chậm đổi mới, chưa đáp ứng kịp yêu cầu phát triển đất nước; bệnh thành tích còn  
nặng; hệ thống pháp luật còn nhiều bất cập, việc thực thi chưa nghiêm; quản lý  
nhà nước còn nhiều yếu kém; tổ chức bmáy cồng kềnh, một bộ phận cán bộ, công  
(7)  
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb. CTQG, Hà  
Nội, 2006, tr.69.  
(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà  
Nội, 2011, tr. 93, 94.  
19  
chức yếu cả về năng lực phẩm chất; tổ chức thực hiện kém hiệu quả, nhiều việc  
nói chưa đi đôi với làm; chưa tạo được chuyển biến mạnh trong việc giải quyết  
những khâu đột phá, then chốt những vấn đề hội bức xúc; quyền làm chủ của  
nhân dân chưa được phát huy đầy đủ; kỷ luật, kỷ cương chưa nghiêm; tham nhũng,  
lãng phí còn nghiêm trọng, chưa được đẩy lùi(9).  
Đại hội XI đã thông qua Cương xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên  
CNXH (bổ sung, phát triển). Đây văn kiện quan trọng xác định đặc điểm thời đại  
và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trong những thập kỷ tiếp theo. “Đặc điểm  
nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước với chế độ hội và  
trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác vừa đấu tranh, cạnh tranh  
gay gắt lợi ích quốc gia và dân tộc10.  
Cương lĩnh khẳng định: hội hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là  
một hội: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm  
chủ; nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ  
sản xuất tiến bộ phù hợp; nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con  
người cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các  
dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau  
cùng phát triển; có nhà nước pháp quyền hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân  
dân, vì nhân dân do Đảng cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị hợp tác với  
các nước trên thế giới11.  
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020 xác định 3 đột phá quan trọng  
nhằm thay đổi mô hình tăng trưởng mở rộng theo chiều sâu và hội nhập sâu, rộng  
vào nền kinh tế toàn cầu. Cụ th3 đột phá chiến lược:  
(1). Hoàn thiện thế chế kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa, trọng  
tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng cải cách hành chính.  
(2). Phát triển nhanh nguồn nhân lực, đặc biệt nguồn nhân lực chất lượng cao,  
tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết  
chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển ứng dụng khoa học, công  
nghệ.  
(3). Xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, với một số công trình hiện  
đại, tập trung vào hệ thống giao thông và hạ tầng đô thị lớn.  
(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà  
Nội, 2011, tr. 94.  
10 Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. CTQG, Hà  
Nội, 2011, tr.69.  
11 d, tr.70  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 54 trang yennguyen 31/03/2022 7920
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Chuyên đề Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docchuyen_de_nen_kinh_te_thi_truong_dinh_huong_xa_hoi_chu_nghia.doc