Báo cáo thực tập Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT  
KHOA KHOA HỌC QUẢN LÝ  
BÁO CÁO CHUYÊN ĐỀ  
THỰC TẬP TỐT NGHIỆP  
Nơi thực tập  
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NINH SƠN  
Đề tài  
TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN HUYỆN  
NINH SƠN, TỈNH NINH THUẬN  
NGƯỜI HƯỚNG DẪN TẠI ĐƠN VỊ: Thư ký Tóa án THÁI THỊ THÙY DUNG  
GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN: Th.s NGÔ THIÊN VÂN  
SINH VIÊN THỰC HIỆN: HOÀNG DUY  
SỐ SV: 1523801010224  
CHUYÊN NGÀNH: LUẬT HỌC  
LỚP: D15LUTP02  
NIÊN KHÓA: 2015-2019  
Bình Dương, năm 2019  
NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN HƯỚNG DẪN  
1. Về hình thức kỹ năng trình bày báo cáo thực tập  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
2. Nội dung báo cáo  
2.1. Kết quả đợt thực tập:  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
2.2. Tính sáng tạo của chuyên đề thực tập:  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
2.3. Tính thực tiễn của chuyên đề thực tập:  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
.......................................................................................................................................................  
Điểm đạt:  
Điểm số  
Điểm chữ:......................................................................................................................................  
……………...ngày …..tháng ……năm…………  
Giảng viên hướng dẫn  
(Ký và ghi rõ họ và tên)  
LỜI CAM ĐOAN  
Tôi xin cam đoan báo cáo này là công trình nghiên cứu độc lập của mình với  
sự hỗ trợ của giảng viên hướng dẫn và cán bộ hướng dẫn tại Tòa án nhân dân  
huyện Ninh Sơn. Những thông tin, dữ liệu đưa ra trong báo cáo được thống từ  
các nguồn cụ thể như đã trích dẫn. Những số liệu thu thập tổng hợp của cá  
nhân xin đảm bảo tính khách quan và trung thực.  
Qua đây, tôi xin gửi lời cảm ơn đến giảng viên hướng dẫn là Th.s Ngô Thiên  
Vân. Người giảng viên đã tận tình trong việc định hướng cũng như giúp đỡ tôi  
trong báo cáo lần này.  
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Cơ quan công an huyện Ninh Sơn, Ủy ban  
nhân dân Huyện Ninh Sơn, Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn đặc biệt là cán  
bộ hướng dẫn của mình là Thư ký tòa án Thái Thị Thùy Dung đã hướng dẫn chu  
đáo cũng như hỗ trợ cho tôi trong việc thống kê, tổng hợp số liệu thực tế trên địa  
bàn.  
Tác giả  
Hoàng Duy  
DANH MỤC TỪ VIẾT VẮT  
Bộ luật hình sự  
Trộm cắp tài sản  
UBND  
BLHS  
TCTS  
UBND  
TAND  
TAND  
DANH MỤC BIỂU ĐỒ  
Biểu đồ 1. Thực trạng của Tình hình tội phạm..................................................11  
Biểu đồ 2.1. Cơ cấu của Tình hình tội phạm theo số vụ trong giai đoạn 2014  
– 2018........................................................................................................................13  
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu về trình độ học vấn của các bị cáo trong giai đoạn 2014 –  
2018...........................................................................................................................13  
Biểu đồ 3.1. Động thái của Tình hình tội phạm theo số v..................................14  
Biểu đồ 3.2. Động thái của Tình hình tội phạm theo số bị cáo............................15  
Biểu đồ 4. Thiệt hại của Tình hình tội phạm .......................................................16  
Biểu đồ 5. Nghề nghiệp của người phạm tội trộm cắp tài sản năm 2018...........19  
MỤC LỤC  
i
MỞ ĐẦU  
1. Lý do chọn đề tài  
Huyện Ninh Sơn một trong những huyện được thành lập từ khi tái lập tỉnh Ninh  
Thuận từ tỉnh Thuận Hải cũ. Qua quá trình hình thành về phát triển từ năm 1982, từ  
một huyện miền núi khó khăn về gần như mọi mặt. Huyện Ninh Sơn trong những năm  
vừa qua đã những bước chuyển mình trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại  
hóa theo chủ trưởng, đường lối Đảng và nhà Nước đã đề ra. Những năm gần đây  
với sự thu hút một số doanh nghiệp về chế biến thực phẩm, công nghiệp may mặc, …  
đã góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu của nền kinh tế trên địa bàn huyện, không  
còn quá phụ thuộc vào nông nghiệp như trước đây. Phần nào đó cải thiện cuộc sống  
vốn cơ cực của người dân địa phương.  
Với sự phát triển đó không những đem lại mặt tích cực đó mà nó cũng kéo theo là  
tình hình các tệ nạn hội cũng như tình hình tội phạm phát triển theo. Trên địa bàn từ  
năm 1982 đến nay, tình hình tội phạm tại đây những diễn biến phức tạp. Diễn biến  
của tình hình tội phạm đi cùng sự phát triển của hội. Nhưng xuất hiện nhiều hơn cả  
tội phạm xâm phạm về sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tội phạm xâm phạm về sở  
hữu tội phạm về ma túy. Trong đó đặc biệt tội phạm xâm phạm về sỡ hữu, tuy chỉ  
loại tội phạm xâm phạm tới quyền sở hữu của cơ quan, tổ chức, cá nhân nhưng thực  
tế trên địa bàn huyện loại tội phạm này diễn ra cực kỳ phổ biến và không những gây  
tách động đến tình hình tội phạm mà còn ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn  
hội trên địa bàn huyện.  
Trong tình hình đó, với những tìm hiểu ban đầu tác giả đã nhận thấy tội phạm TCTS  
loại tội phạm độ phổ biến nhất trong tình hình tội phạm tại huyện Ninh Sơn. Với  
cơ cấu khoảng 25,6% trong giai đoạn từ năm 2014 đến năm 2018 trong tình hình tội  
phạm trên toàn huyện1. Tội phạm TCTS có tầm ảnh hưởng cực kỳ sâu sắc đối với tình  
hình tội phạm chung tại đây khi gây thiệt hại nghiêm trọng về tài sản ảnh hưởng tới  
cuộc sống thường ngày của người dân. Mặc đã những thời gian mà loại tội phạm  
này với các công tác đấu tranh, phòng chống của cơ quan chức năng quần chúng  
nhân dân đã tương đối được kiểm soát. Nhưng vần tiềm tài những nguy cơ bộc phát  
trở lại. Cụ thể như năm 2016 được người dân địa phương gọi đây “Năm của siêu  
trộm” khi mà có hàng loại vụ TCTS diễn ra trên địa bàn huyện với mức độ nguy hiểm  
1 Thống kê Tòa án nhân dân huyện Ninh Sơn  
1
   
cao. Ví dụ: Vụ trộm tại Nhà thờ Quảng Thuận với thiệt hại về tài sản hơn  
300.000.000 đồng, vụ trộm tiệm vàng Kim Tùng Giao của băng trộm chuyên nghiệp từ  
Đồng Nai với tài sản bị chiếm đoạt khoảng 40 cây vàng và nhiều tài sản giá trị khác,  
Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (gọi tắt Bộ luật hình sự năm  
2015) vừa mới hiệu lực từ ngày 1/1/2018, thì Điều 173 quy định Tội phạm TCTS  
một vài sự thay đổi so với BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung 2009 về hình phạt,  
một số tình tiết, …. Tuy nhiên trên mặt thực tiễn áp dụng BLHS năm 2015 vẫn còn  
gặp khác nhiều với vướng mắc, hạn chế nhất định như: BLHS năm 2015 vẫn chưa đưa  
ra được khái niệm hay nói cách khác là mô tả hành vi nào là “Trộm cắp tài sản”; một  
số bấp cập khi áp dụng các tình tiết theo quy định của pháp luật như là: Đã bị xử phạt  
vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm”, “Gây ảnh hưởng  
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Và với tình hình đó, cơ quan có thẩm quyền  
vẫn chưa những văn bản hướng dẫn cụ thể cho việc áp dụng các tình tiết này.  
Với tư cách là một người con sinh ra và lớn lên tại đây Tác giả nhận thấy mình có  
trách nhiệm cần làm gì đó để giảm thiểu tình trạng này góp phần giúp đỡ cho sự phát  
triển của quê nhà. Đứng trước tình hình đó cùng với sự hỗ trợ của Thạc sĩ Ngô Thiên  
Vân là giảng viên hướng dẫn Thư ký TAND huyện Ninh Sơn Thái Thị Thùy Dung  
là cán bộ hướng dẫn đã thôi thúc tác giả thực hiện đề tài nghiên cứu về tình hình tội  
phạm TCTS.  
Do đó, tác giả đã chọn đề tài “Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn  
huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận” cho kỳ thực tập lần này. Qua đó nghiên cứu đưa  
ra được khái niệm cơ bản của tội phạm TCTS, có nhìn nhận từ thực tiễn việc áp dụng  
BLHS năm 2015 và đưa ra các biện pháp phòng ngừa với loại tội phạm này cho không  
những riêng trên địa bàn huyện Ninh Sơn mà còn cho cả trên cả nước nhằm giảm đi về  
số lượng cũng như thiệt hại tội phạm TCTS gây ra cho xã hội.  
2. Mục đích nghiên cứu  
Trên cơ sở luận, thực tiễn từ việc nghiên cứu tình hình tội phạm TCTS trên địa  
bàn huyện Ninh Sơn từ năm 2014 đến năm 2018, đề tài thể hiện rõ tình hình tội phạm  
TCTS trên địa bàn huyện qua đó đưa ra được các biện pháp phòng ngừa tội phạm  
TCTS về mặt lập pháp cũng như về mặt thực tiễn áp dụng tại huyện Ninh Sơn nói  
riêng và các địa bàn khác nói chung.  
2
 
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu  
Đối tượng nghiện cứu: là tình hình tội phạm TCTS nói riêng và tình hình tội phạm  
nói chung trên địa bàn huyện Ninh Sơn. Ngoài ra tác giả còn nguyên cứu về các quy  
định của pháp luật hình sự Việt Nam, các công trình nghiên cứu khoa học cũng như  
các quan điểm lập pháp về tội phạm TCTS.  
Phạm vị nghiên cứu:  
Về nội dung, đề tài được nghiên cứu tiếp cận dưới góc độ của tội phạm  
học, luật hình sự.  
Về không gian, đề tài được nghiên cứu khảo sát trong phạm vi huyện  
Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận.  
Về thời gian, đề tài được nghiên cứu với số liệu thực tiễn của TAND huyện  
Ninh Sơn từ năm 2014 đến năm 2018.  
4. Phương pháp nghiên cứu  
Để đạt được mục đích nghiên cứu đề ra, tác giả đã sử dụng nhiều phương pháp  
chuyên ngành của nghiên cứu pháp luật phương pháp nghiên cứu của tội phạm học.  
Trong đó thể kể đến như: phương pháp lịch sử, phương pháp so sánh và so sách  
pháp luật, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, phương pháp tổng hợp, …  
5. Bố cục của đề tài  
Ngoài phần mở đầu, kết luận và các danh mục thì nội dung của đề tài được chia làm  
ba chương:  
Chương 1: Khát quát chung về tội phạm trộm cắp tài sản  
Chương 2: Tình hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh  
Thuận từ năm 2014 đến năm 2018  
Chương 3: Đánh giá và kiến nghị công tác phòng ngừa đối với tội phạm trộm cắp  
tài sản trên địa bàn huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận  
3
     
CHƯƠNG I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI  
SẢN  
1.1. Khái niệm tội phạm trộm cắp tài sản  
Căn cứ theo Điều 32 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Quyền  
sở hữu một quyền của công dân được ghi nhận quyền sở hữu được pháp luật bảo  
hộ. Để bảo hộ, Nhà nước ta đã nhiều biện pháp được sử dụng như là các biện pháp  
về dân sự. Nhưng biện pháp nghiêm khắc hơn cả sử dụng pháp luật hình sự. Pháp  
luật nước ta đã hình sự hóa các hành vi nguy hại cho xã hội xâm phạm đến sở hữu,  
hơn thế nữa còn quy định về các biện pháp cưỡng chế hình sự đối với người thực hiện  
loại tội phạm này. Trong số các loại tội phạm xâm phạm sở hữu phải kể đến “Trộm  
cắp tài sản”. Một loại tội phạm độ phổ biến cao ở khắp nơi trên cả nước hiện nay.  
Điểm qua lịch sử thì pháp luật hình sự nước ta đã những ghi nhận về tội phạm  
này từ rất sớm. Ở thời phong kiến, tội phạm TCTS được ghi nhận trong nhiều quy  
phạm luật hình sự thời bấy giờ. Điển hình trong “Bộ luật Hồng Đức” một bộ luật được  
xem là đỉnh cao của thành tựu lập pháp Việt Nam thời phong kiến. Tội phạm TCTS là  
tội phạm có tính chất mức độ nguy hiểm cao trong các tội phạm xảy ra trong xã hội  
phong kiến. Sự đánh giá này được thể hiện tại quy định về hình phạt đối với người  
phạm tội TCTS và cách thức sắp xếp vị trí của các quy định của tội TCTS trong các  
quy định về tội phạm2. Theo sự thay đổi của hội pháp luật hình sự cũng nhiều  
thay đổi về quy định tội phạm TCTS và được ghi nhận trước khi BLHS năm 1985 ra  
đời. Cụ thể là Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản hội chủ nghĩa và Pháp  
lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân do Ủy ban Thường vụ Quốc  
hội thông qua vào năm 1970. Trên tinh thần kế thừa hai pháp lệnh trên BLHS năm  
1985 của nước ta cũng đã quy định loại tội phạm này tại hai chương: Chương IV – Các  
tội xâm phạm sở hữu hội chủ nghĩa Chương VI – Các tội xâm phạm sở hữu của  
công dân. Tại gia đoạn này, TCTS được quy định tại hai điều luật khác nhau căn cứ  
trên loại tài sản mà hành vi trộm cắp xâm phạm đến. Còn tại BLHS năm 1999, với sự  
thay đổi của các chính sách bình đẳng trong xã hội giữa các thành phần kinh tế và các  
hình thức sở hữu thì tội phậm xâm phạm sở hữu chỉ còn được quy định trong Chương  
XIV – Các tội xâm phạm sở hữu. Và trên cơ sở lấy BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung  
năm 2009 làm nền tảng, thì BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 cũng một  
vài thay đổi. Thay đổi lớn nhất đó là các dấu hiệu định tội khi chiếm đoạt tài sản có giá  
2 Quốc triều hình luật, Luật hình triều Lê, Luật Hồng Đức, Nxb. Chính trị quốc gia (2005).  
4
   
trị dưới 2 triệu đồng. Cụ thể là thay thế dấu hiệu “Gây hậu quả nghiệm trọng” bằng  
dấu hiệu “Gây ảnh hướng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; cụ thể hóa dấu hiệu  
Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170,  
171, 172, 174, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm”  
bằng cách liệt kê các tội phạm mang tính chiếm đoạt tài sản theo quy định của BLHS  
năm 2015. Ngoài ra còn thêm các dấu hiệu đó là tài sản phương tiện kiếm sống  
chính của người bị hại và gia đình họ; tài sản kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng có giá trị  
đặc biệt về mặt tinh thần đối với bị hại. Mặc dù qua quá trình hình thành có nhiều sự  
phát triển và hoàn thiện nhưng pháp luật hình sự nước ta chưa một khái niệm cụ thể  
“Trộm cắp tài sản” như thế nào?  
Theo Điều 235 BLHS Nhật bản, TCTS được quy định như sau: “Bất cứ ai đánh  
cắp tài sản của người khác sẽ bị xét xử với tội trộm cắp tài sản bị trừng phạt với  
hình phạt không quá mười năm tù.”3 Tương tự như pháp luật Việt Nam, pháp luật hình  
sự Nhật Bản cũng chưa có khái niệm cụ thể về TCTS. Còn tại Khoản 1 Điều 158 của  
BLHS Liên Bang Nga quy định: Trộm cắp tài sản nghĩa là bí mật chiếm đoạt tài sản  
của người khác…”4. Theo khái niệm này thì TCTS có hai dấu hiệu rõ ràng là hành vi  
chiếm đoạt tài sản của người khác và hành vi này được thực hiện mật.  
Trên thực tiễn áp dụng các quy phạm hình sự cũng như khoa học pháp lý tại nước  
ta có thể đưa ra khái niệm như sau: “Trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài  
sản đang trong sự quản của người khác có giá trị từ hai triệu đồng trở lên hoặc  
dưới hai triệu đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp luật định”5. thể thấy  
khái niệm này khá tương đồng với BLHS Liên bang Nga. Dấu hiệu định tội của tội  
phạm này gồm có hai dấu hiệu:  
Thứ nhất, đây một hành vi chiếm đoạt tài sản đang trong sự quản của người  
khác. Có thể hiểu đang trong sự quản của người khác là đang trong sự quản của  
chủ sỡ hữu hoặc của người quản hợp pháp.  
Thứ hai, Hành vi chiếm đoạt tài sản này là một hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản.  
Lén lút chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản một các bí mật đối với người  
quản lý tài sản.  
3 The Criminal Code of Japan (Bộ luật hình sự Nhật bản), www.archive.org.  
4 Trường đại học Luật Nội (2010), Bộ luật hình sự Liên Bang Nga, Nxb Công an nhân dân, Hà nội.  
5 TS Trần Thị Quang Vinh, Tập bài giảng Luật hình sự, 2018.  
5
để thỏa mãn cấu thành tội phạm thì hành vi này còn phải thỏa mãn các trường  
hợp luật quy định về giá trị tài sản, loại tài sản xâm phạm, nhân thân người phạm tội  
hay gây hậu quả xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.  
1.2. Dấu hiệu pháp lý của Tội phạm trộm cắp tài sản  
Tội phạm TCTS là loại tội phạm khá phổ biến xâm phạm đến quyền sở hữu của  
người khác về tài sản. Loại tội này mang những dấu hiệu pháp lý đặc trưng theo quy  
định của pháp luật hình sự. Những dấu hiệu này được thể hiện cụ thể tại Điều 173  
BLHS năm 2015 như sau:  
Khách thể của tội phạm trộm cắp tài sản  
Với cái tên “trộm cắp tài sản” thì có thể thấy rõ khách thể chính mà loại tội phạm  
này xâm phạm đó chính là quyền sở hữu vtài sản của cơ quan, tố chức cá nhân. Theo  
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền sở hữu tài sản một  
trong các quyền được nhà nước và pháp luật bảo hộ. Theo Luật dân sự Việt Nam,  
quyền sỡ hữu bao gồm: quyền chiếm hữu, quyền định đoạt, quyền sử dụng. Khi tội  
phạm TCTS xâm phạm đến quyền chiếm hữu về tài sản thì cũng đồng thời xâm phạm  
đến quyền định đoạt quyền sử dụng tài sản của chủ sở hữu.  
thể thấy đối tượng của loại tội phạm này là tài sản. Căn cứ theo Điều 105 Bộ  
luật dân sự năm 2015 quy định “Tài sản vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”.  
Ngoài ra, tài sản còn được phân thành hai loại động sản bất động sản. Theo Điều  
107 Bộ luật dân sự năm 2015, bất động sản đất đai; nhà, công trình xây dựng gắn  
liền với đất đai; tài sản khác gắn liền với đất đai, nhà, công trình xây dựng; tài sản  
khác do pháp luật quy định. Động sản những tài sản không phải bất động sản. Như  
vậy những tài sản tội phạm này xâm phạm cụ thể là: vật, tiền, giấy tờ có giá. Trong  
trườn hợp phân chia tài sản theo động sản bất động sản thì đối tượng tác động hiện  
nay của tội phạm TCTS là động sản. Trên thực tế cho thấy, đối tượng tác động của tội  
phạm này thường là các tài sản hợp pháp của chủ sở hữu. Ngoài ra, tội phạm TCTS  
theo pháp luật hình sự Việt Nam không chỉ nhằm bảo vệ quyền sở hữu mà còn để đảm  
bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội, vậy trong một số trường hợp đặc biệt, tài sản bất  
hợp pháp vẫn đối tượng tác động của loại tội phạm này. Đó là các tài sản chủ sở  
hữu được thông qua các hành vi vi phạm pháp luật như: đánh bạc, buôn bán ma  
túy,… Người chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp vẫn bị truy cứu trách nhiệm về hành vi  
TCTS của mình.  
6
 
Mặt khách quan của tội phạm trộm cắp tài sản  
Tội phạm TCTS là một tội cấu thành vật chất. vật mặt khách quan của tội phạm  
TCTS gồm đây đủ: Hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội, mối quan hệ  
nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho xã hội. Ngoài ra mặt  
khách quan còn có một số điều kiện bên ngoài của việc thực hiện hành vi phạm tội  
như: công cụ, phương tiện, phương pháp, thủ đoạn, thời gian, địa điểm thực hiện,…  
Thứ nhất, Hành vi khách quan của tội phạm TCTS, đây được xem là biểu hiện cơ  
bản nhất của mặt khách quan. Hành vi khách quan mà tội phạm TCTS thể hiện là hành  
vi bí mật lấy đi tài sản của người khác nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản. mật ở đây  
nghĩa người phạm tội có ý thức che giấu hành vi phạm tội của mình. Trong một  
số trường hợp, người phạm tội chỉ che giấu hành vi phạm tội của mình đối với chủ sở  
hữu, người quản lý tài sản nhưng lại để cho người khác thấy hành vi phạm tội của  
mình nhưng vẫn thực hiện hành vi phạm tội.  
Thứ hai, Hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm những thiệt hại tội  
phạm gây ra hoặc đe dọa gây ra cho khách thể của tội phạm. Ở tội phạm TCTS, hậu  
quả mà nó gây ra là những thiệt hại về tài sản. hậu quả về tài sản do hành vi này  
gây ra có giá trị từ 2.000.000 đồng trở lên, nếu dưới 2.000.000 đồng thì phải thỏa mãn  
các yếu tố khác theo quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Cụ thể là tình  
tiết đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;  
Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170,  
171, 172, 174, 175 và 290 của BLHS năm 2015, chưa được xóa án tích mà còn vi  
phạm; Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội; Tài sản phương tiện  
kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ; Tài sản là di vật, cổ vật. thể thấy  
hậu quả tội phạm trộm cắp này gây ra không những thiệt hại về tài sản mà còn  
gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự, trị an trên địa bàn, và gây hoang mang cho  
người dân địa phương.  
Thứ ba, Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi khách quan và hậu quả nguy hiểm cho  
hội. Trong mặt khách quan của tội phạm TCTS cần phải chứng minh hành vi chiếm  
đoạt tài sản của người khác một cách lén lút là nguyên nhân dẫn đến hậu quả gây thiệt  
hại cho quyền sở hữu của chủ sở hữu. Trong mối quan hệ nhân quả của mặt khách  
quan của tội phạm TCTS thì hậu quả thiệt hại về tài sản chính là kết quả thể hiện trên  
thực tế của hành vi TCTS.  
Chủ thể của tội phạm trộm cắp tài sản  
7
Theo pháp luật hình sự Việt Nam hiện nay thì pháp nhân không thể chủ thể của  
tội phạm TCTS. Vì vậy chỉ có con người mới chủ thể của loại tội phạm này. Nhưng  
không phải ai cũng thể chủ thể của tội phạm TCTS. Họ phải đủ các điểu kiện mà  
pháp luật hình sự quy định đó là: có năng lực trách nhiệm hình sự đủ độ tuổi chịu  
trách nhiệm hình sự khi thực hiện hành vi.  
Năng lực trách nhiệm hình sự khả năng nhận thấy hành vi của mình là nguy hại  
cho xã hội đủ năng lực để điều khiển việc thực hiện hành vi đó. Người phạm tội  
TCTS khi thực hiện hành vi đó, họ nhận thức được rằng sẽ tước đoạt đi quyền sở  
hữu của người khác, gây ra các thiệt hại về tài sản cho chủ sở hữu.  
Để được năng lực trách nhiệm hình sự một người phải trải qua quá trình sinh ra,  
phát triển về mặt thể chất, trí tuệ cùng với đó sự giáo dục cũng như những tích lũy  
kinh nghiệm sống của bản thân khi tới một độ tuổi nhất định. Trải qua quá trình đó thì  
một người mới thể nhận thức được thế nào là chuẩn mực hội và hình thành năng  
lực trách nhiệm hình sự để điển khiển hành vi của mình sao phù hợp với chuẩn mực  
của hội. Còn theo quy định tại Điều 12 BLHS năm 2015, thì người từ đủ 16 tuổi trở  
lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm, trừ những trường hợp mà Pháp luật  
hình sự có quy định khác. Ngoài ra người từ đủ 14 tuổi cho đến dưới 16 cũng sẽ chủ  
thể của tội phạm này khi phạm tội với trường hợp đó tội phạm rất nguy hiểm, tội  
phạm đặc biệt nguy hiểm.  
Đây là hai điều kiện về chủ thể của tội phạm TCTS. Chủ thể của loại tội phạm này  
chủ thể bình thường, chỉ cần đáp ứng được hai điều kiện về năng lực trách nhiệm  
hình sự độ tuổi khi thực hiện hành vi TCTS sẽ trở thành chủ thể của tội phạm này.  
Mặt chủ quan của tội phạm trộm cắp tài sản  
Mặt chủ quan của tội phạm thể hiện diễn biến tâm lý của người phạm tội, được đặc  
trưng bằng dấu hiệu lỗi, động cơ, mục đích phạm tội6.  
Lỗi dấu hiệu bắt buộc của mọi loại tội phạm, với trường hợp tội phạm TCTS thì  
lỗi ở đây lỗi cố ý trực tiếp. Người phạm tội khi thực hiện hành vi TCTS họ nhận  
thức rõ ràng về hành vi của mình gây nguy hại cho xã hội. họ mong muốn hậu quả  
đó xảy ra.  
6 Nguyễn Thanh Phương, Đấu tranh phòng choóng tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn tỉnh Bình Thuận, Luận  
văn thạc sĩ, Tp. Hồ Chí Minh (2009).  
8
Về động cơ mục đích, thì đây không phải dấu hiệu bắt buộc của loại tội phạm  
này. Nhưng lại mối quan hệ chắc chẽ với dấu hiệu lỗi. Động cơ phạm tội yếu  
tố thúc đẩy việc thực hiện hành vi người phạm tội. Còn mục đích được hiểu là cái  
mong muốn đạt được của người phạm tội khi thực hiện hành vi đặt ra trong ý thức của  
họ. Tuy không là dấu hiệu bắt buộc nhưng trên thực tế hai dấu hiệu này là cơ sở cho  
việc là rõ trong nhiều vấn đề khác của tội phạm. dụ như trong việc quyết định các  
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người phạm tội.  
Như vậy, Tội phạm TCTS là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác do  
chủ thể đủ năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện với mong muốn chiếm đoạt được  
tài sản mặc nhận thực được sự sai trái của hành vi. Và gây hậu quả là xâm phạm  
đến quyền sở hữu của quan, tổ chức, cá nhân.  
1.3. Hình phạt  
Về phần hình phạt thì BLHS năm 2015 có sự thay đổi so với BLHS năm 1999 sửa  
đổi, bổ sung 2009 (gọi tắt là BLHS năm 1999) theo hướng giảm nhẹ đi. Với bốn  
khung hình phạt chính và một hình phạt bổ sung. BLHS năm 2015 quy định về hình  
phạt cho tội phạm TCTS như sau:  
Khung thứ nhất, đây là khung cơ bản mức phạt cải tạo không giam giữ đến 3  
năm hoặc phạt từ 6 tháng đến 3 năm khi mà người phạm tội đáp ứng đủ các dấu  
hiệu định tội theo Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015. Các tình tiết định tội khi giá trị  
tài sản chiếm đoạt dưới 2.000.000 đồng cũng sự thay đổi so với BLHS năm 1999 cụ  
thể là tình tiết “Đã bị kết án về tội chiếm đoạt tài sản, chưa được xoá án tích mà còn  
vi phạm” được thay đổi theo hướng liệt kê, cụ thể hóa các loại tội phạm chiếm đoạt tài  
sản; tình tiết “Gây hậu quả nghiêm trọng” được thay bằng tình tiết “Gây ảnh hưởng  
xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”; thêm vào đó là hai tình tiết “Tài sản là  
phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” “Tài sản là di vật,  
cổ vật”.  
Khung thứ hai, tăng nặng so với khung cơ bản với mức phạt từ 2 năm đến dưới 7  
năm tù. Với các tình tiết tặng nặng tại Khoản 2:  
a) Có tổ chức;  
b) Có tính chất chuyên nghiệp;  
c) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;  
9
 
d) Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm;  
đ) Hành hung để tẩu thoát;  
e) Tài sản bảo vật quốc gia;  
g) Tái phạm nguy hiểm.  
Khung thứ ba, mức phạt từ 7 năm đến 15 năm tù. Theo quy định của Khoản 3:  
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;  
b) Li dụng thiên tai, dịch bệnh.  
Khung thứ tư, có mức phạt từ 12 năm đến 20 năm tù. Quy định tại khoản 4 đã có  
sự thay đổi lớn so với BLHS năm 1999 khi bỏ đi hình phạt tù chung thân. Các tình tiết  
định khung như sau:  
a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;  
b) Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp  
Ngoài ra người phạm tội còn có thể chịu hình phạt bổ sung được quy định theo  
Khoản 5 là hình thức phạt tiền. Người phạm tội thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đến  
50.000.000 đồng. Hình phạt này là một hình phạt phù hợp với tình chung hình của tội  
phạm xâm phạm sở hữu đối với riêng tội phạm TCTS, nó có tính chất giáo dục  
riêng và phòng ngừa chung cho xã hội.  
10  
CHƯƠNG II. TÌNH HÌNH TỘI PHẠM TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA  
BÀN HUYỆN NINH SƠN, TỈNH NINH THUẬN TỪ NĂM 2014 ĐẾN  
NĂM 2018  
2.1. Tình hình Tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn Huyện Ninh Sơn,  
Tỉnh Ninh Thuận Từ năm 2014 đến năm 2018  
Trong giai đoạn 2014 – 2018, tình hình tội phạm TCTS trên địa bàn huyện có  
những diễn biến phức tạp, ảnh hướng sâu rộng đến tình hình tội phạm chung cũng như  
tình hình an ninh trật tự của huyện Ninh Sơn. Các thông số của tình hình tội phạm về  
thực trạng, cơ cấu, động thái và thiệt hại sẽ phản ánh một cách đầy đủ bức tranh toàn  
cảnh về tình hình tội phạm TCTS tại Ninh Sơn.  
2.1.1. Thực trạng của tình hình tội phạm  
Căn cứ vào việc thống tại TAND huyện Ninh Sơn, biểu đồ dưới đây thể hiện một  
cách rõ ràng thực trạng của tình hình tội phạm TCTS trong giai đoạn 2014 – 2018:  
Thc trng ca Tình hình Ti phm  
Biu đồ 1.  
40  
35  
30  
25  
20  
15  
10  
5
Svụ  
Sbcáo  
0
2014  
2015  
2016  
2017  
2018  
Ngun: Thng kê Tòa án nhân dân huyn Ninh Sơn  
Nhìn chung về thực trạng tội phạm TCTS có những diễn biến phức tạp trong đó có  
giai đoạn tăng nhẹ, tăng đột biến giảm. thể chia làm hai giai đoạn nhỏ, cụ thể:  
Giai đoạn tăng từ năm 2014 – 2016, giai đoạn này cả về số vụ cũng như số bị cáo  
đều chiều hướng tăng, với đỉnh điểm năm 2016. Năm 2014 đưa ra xét xử 11 vụ  
với 20 bị cáo. Năm 2015 đưa ra xét xử 13 vụ với 21 bị cáo. Trong giai đoạn 2014 –  
2015, kể cả số vụ số bị cáo đều sự tăng. Số vụ tăng 18,2%, về số bị cáo tăng 5%  
so với năm 2014. Còn trong năm 2016, có 25 vụ với 34 bị cáo, tăng 92,3% về số vụ và  
11  
     
61,9% về số bị cáo so với 2015. Có thể thấy đây một tỷ lệ tăng đột biến khi về số vụ  
tăng gần gấp 2 lần, về số bị cáo tăng hơn 1,5 lần.  
Giai đoạn giảm từ 2016 – 2018, tình hình tội phạm trộm cắp trên địa bàn huyện  
dường như phần nào được kiểm soát nên đã có xu hướng giảm trong ba năm này. Năm  
2017, với số vụ là 14 vụ giảm 44% so với năm 2016, số bị cáo là 21 bị cáo giảm  
38,2% so với năm 2016. Với đỉnh điểm năm 2016, công tác phòng ngừa của cơ quan  
chức năng cũng như người dân được nâng cao và đã những tác dụng tích cực một  
cách rõ rệt. Năm 2018 chỉ sự giảm nhẹ giảm 7,1% về số vụ tăng nhẹ về số bcáo  
là 4,5%.  
Với thực trạng này, Chỉ số tội phạm TCTS trên 10.000 dân tại địa bàn huyện Ninh  
Sơn trong giai đoạn 2014 - 2018:  
Với: 76 là số vụ trộm cắp tài sản diễn ra trên địa bàn huyện Ninh Sơn  
83569 là số dân sinh sống trên địa bàn huyện Ninh Sơn  
Qua chỉ số này khi so sánh với các huyện khác trong tỉnh. Thực trạng tội phạm trộm  
cắp của huyện Ninh Sơn còn khá cao đứng vị trí thứ 3 trong 7 huyện và thành phố  
nhưng chỉ số gần bằng vị trí thứ 2 của huyện Ninh Hải, chỉ số của huyện Ninh Hải  
và thành phố Phan Rang lần lượt là 9,2 và 11,87.  
2.1.2. Cơ cấu của tình hình tội phạm  
Thông số cơ cấu của tình hình tội phạm sẽ cho tỷ trọng trong thành phần của tổng  
thể tình hình tội phạm chung. Qua đó phản ảnh đầy đủ về mức độ phổ biến, tính chất  
nguy hiểm, tầm ảnh hưởng của tội phạm này cũng như thành phần của người phạm tội.  
Tỷ lệ tội phạm TCTS trên địa bản huyện Ninh Sơn trong những năm qua luôn chiếm tỷ  
cao trong tình hình tội phạm chung.  
7 Báo cáo tổng kết ngành Tòa án tỉnh Ninh Thuận năm 2018.  
12  
 
Cơ cu ca tình hình ti phm theo svụ  
trong giai đon 2014 - 2018  
Biu đồ 2.1.  
25,6%  
Ti phm tri cp tài  
sn  
Ti phm khác  
74,4%  
Ngun: Thng kê Tòa án Nhân dân huyn ninh Sơn  
Trong giai đoạn 2014 – 2018, tội phạm TCTS chiểm tỷ lệ khá cao trong tình hình  
tội phạm chung trên toàn huyện. Với tỷ lệ 25,6% thì loại tội phạm này chiếm tỷ lệ cao  
nhất trong các loại tội phạm. Qua tỷ lệ này có thể thấy đây loại tội phạm sự ảnh  
hưởng sâu rộng đến toàn bộ tình hình tội phạm trên địa bàn huyện Ninh Sơn. Không  
những thế nó còn có ảnh hưởng lớn đến đời sống của người dân nơi đây.  
Tội phạm TCTS thường do các đối tượng có không công việc làm ổn định, chưa  
được qua đào tạo về nghề nghiệp. Dưới đây biểu đồ thể hiện tỷ lệ về trình độ học  
vấn của các bị cáo phạm tội TCTS:  
Cơ cu vtrình độ  
Biu đồ 2.2.  
6%  
hc vn ca bcáo trong giai  
đon 2014 - 2018  
22,9%  
Không biết chữ  
Chưa tt nghip THPT  
Khác  
71,1%  
Ngun: Thng kê Tòa án nhân dân  
huyn Ninh Sơn  
Cụ thể từ năm 2014 đến năm 2018, trong tổng số 118 bị cáo phạm tội TCTS thì chỉ  
có 7 bị cáo đã tốt nghiệp trung học phổ thông và qua đào tạo về nghề nghiệp, chiếm tỷ  
lệ 6%. Số bị cáo không biết chữ là 22,9% và 71,1% là số bị cáo biết chữ nhưng chưa  
tốt nghiệp trung học phổ thông. Với tỷ lệ học vấn như trên có thể thấy các bị cáo  
13  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 37 trang yennguyen 31/03/2022 9360
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo thực tập Tình hình tội phạm trộm cắp tài sản trên địa bàn huyện Ninh Sơn, tỉnh Ninh Thuận", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docbao_cao_thuc_tap_tinh_hinh_toi_pham_trom_cap_tai_san_tren_di.doc