Tiểu luận Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi vị
“B ảo h ộnhãn hi ệu âm thanh và mùi v ị"
TRITUE’s
I.
Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi vị tại Việt Nam
Điều kiện chung với nhãn hiệu được bảo hộ “Là dấu hiệu nhìn
thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba
chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc
nhiều mầu sắc”
(Khoản 1, Điều 72, Luật Sở hữu Trí tuệ 2005, được sửa đổi, bổ xung năm 2009)
Theo luật Sở hữu Trí tuệ thì âm thanh và mùi vị chưa được
bảo hộ tại Việt Nam vì chúng là các dấu hiệu không thể nhìn
thấy được.
II.
Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi vị ở một số quốc gia trên thế
giới
Ở các nước trên thế giới việc sử dụng các dấu hiệu âm thanh và
mùi vị (dấu hiệu phi truyền thống) hiện nay đã xuất hiện ở nhiều nước,
trong nhiều lĩnh vực như: điện ảnh, giải trí, phát thanh truyền hình, công
nghệ thông tin, điện tử, dịch vụ khách sạn, nhà hàng:
Điển hình là các bản nhạc hiệu trên các chương trình giải trí, phát
thanh, truyền hình. Chúng ta đã trở nên quen thuộc với những hình ảnh
ngộ nghĩnh, âm thanh đặc trưng mỗi khi tắt mở điện thoại di động, máy
nghe nhạc kỹ thuật số… hay khi truy cập các trang mạng ưa thích. Chúng
ta cũng từng bắt gặp những hình ảnh sinh động, những âm thanh mang
tính biểu trưng của nhà sản xuất, phát hành khi xem các tác phẩm điện
ảnh, băng đĩa giải trí, ví dụ về nhãn hiệu âm thanh được bảo hộ và sử
dụng rộng rãi trên thế giới như: Tiếng gầm của sư tử mở đầu cho phim
của hãng MGM (Hoa Kỳ), tiếng chuông điện thoại mặc định của hãng
NOKIA (Phần Lan), tiếng sấm rền của hãng môtô Harley – Davidson (Hoa
1
Kỳ) hoặc bốn nốt nhạc lên xuống trầm bổng của hãng dược phẩm
HISAMITSU (Nhật Bản)…
Ta cũng có thể biết đến một mùi hương đặc trưng nào đó mang tính
chỉ định nguồn gốc sản phẩm, dịch vụ,… ví dụ đó là Nhãn hiệu mùi vị
“mùi thơm mát của nước hoa plumeria” dùng cho chỉ may và thêu ren được
công nhận bảo hộ ở Mỹ vào năm 1990. Mùi cỏ vừa mới cắt cũng được
đăng ký làm nhãn hiệu mùi cho bóng tennis – dữ liêu từ vụ việc R
156/1998-2 của Cộng đồng Châu Âu.
Cơ sở của việc bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi vị (nhãn hiệu phi
truyền thống)
“Nhãn hiệu là dấu hiệu dùng để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các tổ
chức, cá nhân khác nhau”
(Khoản 16, Điều 4, Luật Sở hữu Trí tuệ 2005, được sửa đổi, bổ xung năm 2009)
Xét về bản chất, nhãn hiệu chính là những dấu hiệu dùng để phân biệt
dấu hiệu vốn tồn tại khách quan, có thể cảm nhận được; bản thân chúng
lại đa dạng, có sự khác nhau trong cùng một loại hình nên có thể dùng để
đánh dấu và phân biệt sản phẩm, dịch vụ của các nhà sản xuất, kinh
doanh khác nhau. Do vậy, việc sử dụng các dấu hiệu phi truyền thống làm
nhãn hiệu là có cơ sở và phù hợp với bản chất, chức năng của nhãn hiệu.
Điều kiện bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi vị
Từ thực tiễn bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống của một số nước và
dựa trên những quy định chung về điều kiện bảo hộ nhãn hiệu truyền
thống cho thấy, việc bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống phải đáp ứng
những điều kiện sau:
Thứ nhất, dấu hiệu phi truyền thống như âm thanh, hình ảnh
động, mùi hương dùng làm nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt. Đây
là điều kiện tối quan trọng khi bảo hộ nhãn hiệu. Nhãn hiệu là công cụ
để nhận diện và chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ. Muốn thực hiện
được sứ mệnh này, trước tiên bản thân dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu
2
phải có khả năng phân biệt. Việc dựa vào một dấu hiệu có khả năng
phân biệt để nhận diện, phân biệt và lựa chọn hàng hóa là hoàn toàn có
cơ sở. Tuy nhiên, muốn có khả năng phân biệt thì các dấu hiệu dùng
làm nhãn hiệu phi truyền thống cần phải nổi bật, ấn tượng, dễ nhận
biết, dễ ghi nhớ và không mang tính miêu tả hay tính công năng. Một
số dấu hiệu tuy khả năng phân biệt không cao nhưng qua thực tiễn lâu
dài sử dụng được người tiêu dùng thừa nhận và đạt đến tác dụng phân
biệt, chỉ dẫn nguồn gốc hàng hóa, dịch vụ nên cũng có thể coi là có
khả năng phân biệt.
Thứ hai, dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phi truyền thống phải
tồn tại dưới hình thức có khả năng cảm nhận được. Đó là dấu hiệu có
thể nhìn thấy đối với nhãn hiệu hình ảnh động, có thể nghe thấy đối
với nhãn hiệu âm thanh và có thể ngửi được đối với nhãn hiệu mùi
hương. Như vậy, nếu nhãn hiệu truyền thống là những dấu hiệu có
thể cảm nhận bằng thị giác thì nhãn hiệu phi truyền thống (trừ nhãn
hiệu hình ảnh động) lại là những dấu hiệu có thể cảm nhận bằng
thính giác, khứu giác. Ngoài ra, do dấu hiệu âm thanh, hình ảnh động là
những dấu hiệu phi vật thể cho nên một số nước còn quy định các dấu
hiệu này được bảo hộ khi chúng có khả năng thể hiện dưới hình thức
đồ họa.
Ở Hoa Kỳ, dấu hiệu âm thanh muốn được đăng ký bảo hộ tại Cơ
quan Sở hữu trí tuệ Hoa Kỳ (USPTO) phải đáp ứng được 02 điều kiện về tính
chức năng và khả năng phân biệt.
o
Thứ nhất, điều kiện về tính chức năng: Dấu hiệu xin đăng ký là một
tổng thể, hay chỉ là một đặc điểm có tính chức năng? Nếu dấu hiệu này chỉ
là một đặc điểm có tính chức năng thì sẽ không được đăng ký bảo hộ như
một nhãn hiệu. Tòa án Tối cao Hoa Kỳ đã tuyên bố rằng một đặc điểm của
nhãn hiệu xin đăng ký bảo hộ có tính chức năng nếu nó “cần thiết cho việc
sử dụng hoặc cho mục đích của sản phẩm hoặc ảnh hưởng đến giá thành
hoặc
giá
trị
của
sản
phẩm”.
Các nhân tố để quyết định tính chức năng như: Có phải sáng chế hữu ích?
Có nhằm quảng cáo - lợi ích thực tiễn? Có phải là thiết kế thay thế? Có
khiến phương pháp sản xuất đơn giản và rẻ hơn? Tuy nhiên, không cần
phải dựa trên tất cả các nhân tố kể trên mới đủ để quyết định đặc điểm đó
có tính chức năng đối với hàng hóa hay không, cụ thể là tùy thuộc vào từng
trường hợp, một số hoặc tất cả các nhân tố có thể cùng tồn tại.
3
o
Thứ hai, điều kiện về khả năng phân biệt: Nếu dấu hiệu này không có
tính chất chức năng, nó có tính phân biệt không? Cụ thể là: Bản chất có khả
năng tự phân biệt hay đạt được khả năng phân biệt hay không? Một số nhãn
hiệu phi truyền thống có thể về bản chất có khả năng phân biệt. Ví dụ, các
nhãn hiệu âm thanh có thể mang khả năng phân biệt về bản chất nếu chúng
là “ngẫu nhiên, độc đáo và có khả năng phân biệt và có thể được sử dụng
nhằm tạo ấn tượng trong tâm trí người nghe và khi bắt gặp lại, người nghe
có thể nhận ra rằng một sản phẩm hoặc dịch vụ đó xuất phát từ một nguồn
gốc cụ thể, dù không rõ tên nguồn”.
Những lưu ý khi đăng ký nhãn hiệu âm thanh như sau: (i) Yêu cầu
bản vẽ không áp dụng đối với nhãn hiệu âm nhạc; (ii) Nếu một nhãn
hiệu chứa âm nhạc hoặc từ ngữ kèm âm nhạc, người nộp đơn phải nộp
bản nhạc để lưu lại như bản mô tả nhãn hiệu HOẶC như một mẫu
vật; (iii) Để minh họa rằng nhãn hiệu âm thanh thực sự chỉ dẫn và phân
biệt các dịch vụ và chỉ dẫn nguồn gốc của chúng, mẫu vật nên chứa
một phần đầy đủ về nội dung âm thanh để thể hiện bản chất của nhãn
hiệu.
Một số nhãn hiệu âm thanh đã được cấp tại Hoa Kỳ bởi USPTO:
Âm thanh là giọng người đang hát từ âm trầm ngân lên âm cao từ
“YAHOO” thuộc chủ sở hữu Yahoo!, Inc và nhãn hiệu gồm ba mươi
(30) nốt nhạc (B giáng 3, E giáng 4, D4, C4, B giáng 3, G3, B giáng 3, E
giáng 4, E giáng 4, D4, C4, D giáng 4, D4, D4, D4, B giáng 3, C4, B
giáng 3, D4, D4, B giáng 3, C4, G3, G3, B giáng 3, B3, C4, D4, E giáng 4
và G4. Nhãn hiệu có bài nhạc nền là giại điệu Merrie) thuộc chủ sở
hữu Công ty giải trí Time Warner.
Cách thức đăng kí bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi vị
Từ kinh nghiệm đã làm của một số nước, việc bảo hộ nhãn hiệu
phi truyền thống cũng nên được thực hiện theo cách thức đăng ký và xét
nghiệm đơn giống với việc bảo hộ nhãn hiệu truyền thống.
Trong đó ở giai đoạn đăng ký, người nộp đơn phải lựa chọn hoặc
tạo ra được dấu hiệu phi truyền thống đáp ứng yêu cầu làm nhãn hiệu;
xác định được danh mục hàng hóa, dịch vụ sử dụng nhãn hiệu. Sau đó
người nộp đơn phải hoàn thiện hồ sơ đơn và nộp cho cơ quan đăng ký
nhãn hiệu. Trong giai đoạn xét nghiệm đơn, cơ quan đăng ký nhãn hiệu
tiến hành các bước thẩm định hình thức, thẩm định nội dung để xác định
phạm vi bảo hộ nhằm trao quyền nhãn hiệu.
4
Do dấu hiệu dùng làm nhãn hiệu phi truyền thống đều có tính phi
vật thể, kênh nhận biết của từng loại dấu hiệu này lại khác hẳn với nhãn
hiệu truyền thống, cho nên khi đăng ký bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống
cần lưu ý một số điểm khác biệt sau:
Đối với nhãn hiệu âm thanh: Người nộp đơn cần phải thể
hiện âm thanh dưới hình thức một khuông nhạc được chia thành các
gạch nhịp cùng các ký hiệu âm nhạc để có thể xác định được độ trầm
bổng, độ ngân vang của nó. Đồng thời họ cần chỉ ra phương thức cũng
như công cụ dùng để thể hiện âm thanh đó. Ngoài ra, âm thanh cũng có
thể ghi vào vật ghi để nộp kèm theo đơn. Việc này sẽ đặc biệt cần
thiết đối với những âm thanh không có khả năng thể hiện bằng khuông
nhạc.
Đối với nhãn hiệu hình ảnh động trên giao diện điện
tử: Người nộp đơn cần phải thể hiện hình ảnh động dưới dạng một
chuỗi các hình ảnh được bố trí theo thứ tự thay đổi, ẩn hiện, biến
động của nó. Họ còn phải nộp kèm theo bản mô tả để giải thích các
hình ảnh nối tiếp nhau diễn tả điều gì. Ngoài ra, vật ghi dữ liệu hình
ảnh động kèm chương trình thể hiện nó cũng rất có ý nghĩa để xác
định hình ảnh này.
Đối với nhãn hiệu mùi hương: Người nộp đơn cần phải mô
tả dấu hiệu mùi hương sao cho người tiêu dùng bình thường có thể
hiểu được, nộp bản mô tả đó kèm theo đơn đăng ký nhãn hiệu. Họ có
thể bị yêu cầu phải nộp kèm theo hình ảnh hoặc sản phẩm thực của
sản phẩm sử dụng nhãn hiệu mùi hương đó.
Tóm lại, bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống tuy có điểm giống với
bảo hộ nhãn hiệu truyền thống, nhưng do tính chất chất đặc thù của
nó nên bảo hộ nhãn hiệu phi truyền thống cũng có những điểm khác
biệt nhất định về điều kiện, cách thức bảo hộ. Đây chính là nội dung
cần quan tâm khi xem xét đưa vấn đề bảo hộ nhãn hiệu phi truyền
thống vào quy định, điều chỉnh trong luật.
III. Ví dụ về bảo hộ âm thanh và mùi vị ở một số quốc gia trên thế
giới
5
Ví dụ 1:
Tiếng gầm của sư tử của hãng phim Mỹ “ Metro Goldwyn Mayer”
đã được bảo hô ở Pháp từ ngày 4/11/1994. Âm thanh này được bảo hộ
là do nó có khả năng tự phân biệt và đạt được khả năng tự phân biệt.
Theo đạo luật năm 1991 về bảo hộ nhãn hiệu của cộng hòa Pháp thì
Âm thanh được bảo hộ như nhãn hiệu với điều kiện âm thanh đó có
thể được thể hiện dưới dạng hình hoạ hoặc xác định được bằng máy
ảnh phổ âm thanh. Ảnh phổ âm thanh là loại máy có chức năng ghi lại
âm thanh và thể hiện lại âm thanh đó dưới dạng hình hoạ bằng những
đường cong khác nhau.(6) Do vậy có thể đánh giá được tính phân biệt
của âm thanh.Thế nên tiếng gầm của sư tử được bảo hộ.
Ví dụ 2
Nhãn hiệu mùi vị “mùi thơm tươi mát của nước hoa Plumeria” dùng
cho chỉ may và thêu ren được công nhận bảo hộ ở Mỹ vào năm
1990Năm 1990 Ban Giải quyết Khiếu nại nhãn hiệu (TTAB) thuộc
Cục Patent và nhãn hiệu Hoa Kỳ (USPTO) đã ra quyết định chấp thuận
khiếu nại của chủ đơn và đồng ý bảo hộ nhãn hiệu “mùi hương hoa
đại” (Phumeria Blossoms) cho sản phẩm “chỉ may và chỉ thêu” (nhóm
23) dựa trên bằng chứng mùi đó đã đạt được khả năng phân biệt thông
qua việc sử dụng trên thị trường. Bằng sự kiện đó USPTO chính thức
chấp nhận Bảo hộ nhãn hiệu mùi tại Hoa Kỳ..
Ví dụ 3
Mùi của cỏ vừa mới cắt cũng được đăng ký làm nhãn hiệu mùi cho
bóng tennis –Dữ liệu từ vụ việc R156/1998-2 của Cộng đồng Châu Âu.
Theo cơ sở dữ liệu trực tuyến của OHIM, cho tới nay cơ quan này mới
chỉ cấp một đăng ký mùi duy nhất, đó là "mùi cỏ tươi mới cắt" cho sản
phẩm bóng tennis (Đơn số 000428870, cấp văn bằng bảo hộ năm
2000). Trong quyết định bác bỏ ý kiến của xét nghiệm viên và chấp
nhận đơn, Phòng giải quyết khiếu nại 2 của OHIM lập luận rằng:
"Mùi cỏ tươi mới cắt là một mùi có khả năng phân biệt mà ai cũng
nhận ra ngay lập tức nhờ sự trải nghiệm của mình. Với nhiều người,
mùi hoặc hương của cỏ mới cắt gợi nhớ về mùa xuân, hoặc mùa hè,
6
về cánh đồng cỏ mới cắt, sân chơi hoặc những trải nghiệm thú vị
tương tự".
IV. Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi vị với sự phát triển của Việt
Nam
Hiện tại ở Việt Nam chưa bảo hộ nhãn hiệu đối với âm thanh và
mùi vị. Đây là điều thiếu sót và chưa hoàn chỉnh của Luật sở hữu Trí
tuệ 2005, sửa đổi, bổ xung năm 2009.
Trong thời kì hội nhập hiện nay thì đây là điều thiếu sót vô cùng to
lớn và cần khắc phục:
Về thực tiễn, bảo hộ âm thanh và mùi vị là bảo chính các dấu
hiệu để phân biệt hàng hóa, dịch vụ của các cá nhân, tổ chức
khác nhau, đây là những điều thực tế thúc đẩy kinh doanh và
phát triển, thúc đẩy tư duy, sáng tại, là lẽ công bằng và hợp
pháp trong quá trình phát triển và lưu thông hàng hóa. “Kinh
tế coi SHTT là sức cạnh tranh. Nhà khoa học coi SHTT là sức
sáng tạo. Xã hội coi SHTT là sức sống. Cạnh tranh trên thế
giới ngày hôm nay và ngày mai là cạnh tranh về quyền
SHTT”- (Nguyên Thủ tưởng TQ - Ôn Gia Bảo).
Đảm bảo phù hợp với hiệp địn TRIPs mà Việt Nam là thành
viên, Với Điều 72 Luật Sở hữu Trí tuệ 2005, được sửa đổi,
bổ xung năm 2009 phạm vi dấu hiệu được công nhận là nhãn
hiệu hàng hóa vẫn rất hẹp và không tương thích với quy định
của Hiệp định TRIPs. Cụ thể, theo Điều 15 Hiệp định TRIPs
thì bất kỳ một dấu hiệu hoặc tổ hợp các dấu hiệu nào có khả
năng phân biệt hàng hoá hoặc dịch vụ của một doanh nghiệp
với hàng hoá hoặc dịch vụ của các doanh nghiệp khác đều có
thể được công nhận là nhãn hiệu hàng hoá. Như vậy, về
nguyên tắc, bất kỳ dấu hiệu nào cho dù là có thể nhìn thấy
như từ ngữ, hình ảnh, màu sắc (bao gồm màu sắc trong sự
kết hợp với các yếu tố khác hoặc chỉ riêng màu sắc), không
gian ba chiều hoặc không được nhìn thấy như âm thanh, mùi,
7
vị nếu như có khả năng phân biệt đều có thể được đăng ký là
nhãn hiệu hàng hoá.
Đảm bảo phù hợp với Điều 18. 18 của Hiệp định TPP mà
Việt Nam là thành viên: “Không Bên nào được quy định rằng
dấu hiệu phải được nhìn thấy bằng mắt như một điều kiện
để đăng ký, cũng không được từ chối việc đăng ký nhãn hiệu
là một âm thanh đơn thuần. Ngoài ra, mỗi Bên phải nỗ lực để
cho phép đăng ký nhãn hiệu mùi hương. Một Bên có thể đòi
hỏi một mô tả ngắn gọn và chính xác hoặc đại diện đồ họa
của nhãn hiệu, hoặc cả hai nếu có thể” mà Việt Nam mới chỉ
có cơ chế bảo hộ đối với những nhãn hiệu là dấu hiệu nhìn
thấy được. Còn mùi vị và âm thanh, pháp luật chưa hề có cơ
chế bảo hộ. Để đảm bảo sự tương thích pháp luật khi Việt
Nam trở thành thành viên của TPP, các quy định của pháp luật
về sở hữu trí tuệ tại Việt Nam khi đó có thể được sửa đổi,
bổ sung.
Cần thiết phải bổ xung và phát triển các điều luật Bảo hộ với
Nhãn hiệu âm thanh và mùi vị cho Luật Sở hữu Trí tuệ của
Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo:
Luật sở hữu trí tuệ 2005 sửa đổi, bổ xung năm 2009.
Những bất cập, hạn chế của pháp luật về sở hữu trí tuệ và
kiến
nghị
hoàn
thiện:
Bảo hộ "nhãn hiệu phi truyền thống", xu hướng tất yếu:
8
"Âm thanh" có thể được bảo hộ với danh nghĩa nhãn hiệu:
Tháng 11/2017
Nguyễn Văn Quỳnh
9
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu luận Bảo hộ nhãn hiệu âm thanh và mùi vị", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- tieu_luan_bao_ho_nhan_hieu_am_thanh_va_mui_vi.pdf