Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng

TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
THỰC TRẠNG TỰ NHẬN THỨC VỀ SỨC KHỎE CÁ NHÂN CỦA  
NGƯỜI CAO TUỔI TẠI VÙNG NÔNG THÔN VIỆT NAM NĂM 2018  
VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG  
Nguyễn Thanh Lam, Vũ Thiện Hoàng, Phan Ngọc Hân, Lê Thị Hương  
Phạm Hải Thanhvà Ngô Trí Tuấn  
Viện Đào tạo YHDP &YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội  
Tự đánh giá sức khỏe cá nhân là một đánh giá đơn giản nhưng toàn diện về mọi mặt của sức khỏe. Với  
nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu thực trạng tự nhận thức sức khỏe cá nhân và các yếu tố ảnh hưởng  
tới tự nhận thức của nhóm người Từ 60 tuổi trở lên ở vùng nông thôn Việt Nam. Nghiên cứu khảo sát trên  
397 đối tượng thông qua bộ câu hỏi đo lường về chỉ số và sự tự nhận thức về sức khỏe cá nhân (PROMIS).  
Phân tích Two-step cluster và phân tích hồi quy logistic đơn biến cũng được sử dụng để phân nhóm và xác  
định mối tương quan giữa các yếu tố nhân khẩu học với sự tự nhận thức. Kết quả cho thấy sự tự nhận thức  
tốt về sức khỏe cá nhân chiếm ưu thế (53,4%). Các yếu tố: tiền sử bệnh, BMI bình thường, trầm cảm tác  
động tới sự tự nhận thức theo chiều nghịch. Nghiên cứu của chúng tôi đã đưa ra được các bằng chứng về  
các yếu tố ảnh hưởng đến sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân của người cao tuổi ở vùng nông thôn Việt Nam.  
Từ khóa: Tự nhận thức, người cao tuổi, nông thôn, Việt Nam, yếu tố ảnh hưởng  
I. ĐẶT VẤN ĐỀ  
Sức khỏe được định nghĩa là trạng thái  
hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và  
xã hội.¹ Mặt khác, các phong trào thúc đẩy Y tế  
toàn cầu ngày càng phát triển đã khiến cho việc  
nâng cao khả năng tự nhận thức chung về sức  
khỏe cá nhân ngày càng cần thiết.2,3 Đó là một  
đánh giá đơn giản nhưng toàn diện về cả sức  
khỏe thể chất và tinh thần.4 Vì vậy, nâng cao  
khả năng tự nhận thức sức khỏe mỗi cá nhân  
giúp bảo vệ sức khỏe đúng cách và phát triển  
sức khỏe cá nhân theo chiều hướng tích cực sẽ  
có thể cải thiện sức khỏe cộng đồng.  
bản thân ở khu vực nông thôn hay các nước  
đang phát triển đang còn nhiều thiếu hụt. Điều  
này có thể do khả năng đáp ứng kém của người  
dân với các dịch vụ y tế hay do những điểm yếu  
trong hệ thống y tế ở nông thôn và các quốc  
gia đang phát triển gây nên.2,5,6 Đây có thể là  
nguyên nhân khiến các nước đang phát triển có  
tuổi thọ trung bình thấp hơn các nước phát triển  
và tỷ lệ các bệnh do nhiễm trùng tăng cao hơn  
so với các khu vực khác.7–9 Cũng chính vì lý do  
này, người dân nơi đây không chú trọng đến  
bảo vệ sức khỏe cá nhân và không sử dụng các  
dịch vụ y tế nếu phát sinh chi phí.  
Tuy nhiên, thưc trạng nhận thức sức khỏe  
Ngoài ra, người cao tuổi là nhóm tuổi mà  
sức khỏe thể chất đang dần trở nên kém đi. Nổi  
bật trong đó là các vấn đề liên quan tới xương  
khớp, tim mạch hay sức khỏe tâm thần.10–12  
Điều đó khiến cho nhóm đối tượng này cần  
được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn. Vì  
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục  
Tác giả liên hệ: Ngô Trí Tuấn, Bộ môn Tổ chức và  
Quản lý Y tế - Viện Đào tạo YHDP & YTCC - Trường  
Đại học Y Hà Nội  
Email: ngotrituan@hmu.edu.vn  
Ngày nhận: 15/12/2019  
Ngày được chấp nhận: 20/02/2020  
TCNCYH 126 (2) - 2020  
163  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
tiêu:  
mới được nhập vào bộ số liệu. Nghiên cứu đã  
phỏng vấn và thu thập số liệu được của 397  
người.  
1- Xác định thực trạng sự tự nhận thức về  
sức khỏe cá nhân ở người cao tuổi từ 60 tuổi  
trở lên tại vùng nông thôn Việt Nam.  
2- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự  
tự nhận thức về sức khỏe cá nhân ở người cao  
tuổi từ 60 tuổi trở lên tại vùng nông thôn Việt  
Nam.  
Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi của  
nghiên cứu chúng tôi gồm 3 phần.  
- Nhân khẩu học gồm các biến: tuổi, tình  
trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập gia  
đình, bảo hiểm y tế.  
- Đo lường chỉ số sức khỏe cá nhân bao  
gồm các biến: tiền sử bệnh tật, tư vấn từ nhân  
viên y tế, BMI (chỉ số khối cơ thể), WHR (tỷ số  
vòng eo trên vòng mông) và sức khỏe tâm thần.  
Trong đó, đo lường sức khỏe thâm thần được  
chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi DASS-21 gồm 21  
câu hỏi về kiểm định sức khỏe tâm thần trên 3  
mặt trầm cảm, lo âu và stress.13  
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP  
1. Đối tượng  
Đối tượng nghiên cứu bao gồm những  
người dân sống ở khu vực này tối thiểu 3 năm  
liên tục và có độ tuổi >= 60 tuổi. Các đối tượng  
không mắc các chứng suy giảm trí nhớ và suy  
giảm khả năng giao tiếp.  
- Đo lường sự tự nhận thức sức khỏe cá  
nhân đã được chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi  
PROMIS gồm 10 câu hỏi. Bộ câu hỏi PROMIS  
giúp chúng ta có thể đánh giá đầy đủ về sự tự  
nhận thức sức khỏe chung của từng cá nhân  
liên quan đến vấn đề sức khỏe thể chất, sức  
khỏe tâm thần và sức khỏe xã hội.14 Hệ số  
Cronbach’s Alpha của hai bộ câu hỏi DASS- 21  
và PROMIS lần lượt là 0,861 và 0,946.  
2. Phương pháp  
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu của chúng  
tôi sử dụng phương pháp thiết kế mô tả cắt  
ngang.  
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu tại 3  
huyện được chọn ngẫu nhiên tại tỉnh Hà Nam  
(Duy Tiên, Kim Bảng và Bình Lục) từ tháng 6  
đến tháng 8 năm 2018. Khu vực được lấy đại  
điện cho vùng nông thôn khu vực Bắc Bộ.  
Phương pháp chọn mẫu: Nghiên cứu đã sử  
dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn.  
Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 3 trong 5 huyện  
của tình Hà Nam (Duy Tiên, Kim Bảng và Bình  
Lục). Mỗi huyện, 10 xã được chọn ngẫu nhiên.  
Tại mỗi xã, 15 hộ dân được chọn ngẫu nhiên  
với tiêu chí mỗi hộ có ít nhất 1 người trong độ  
tuổi >= 60 tuổi (1 người/hộ). Tổng số đủ tiêu  
chí lựa chọn tại mỗi xã là 15 người. Đã có 450  
người đủ tiêu chí tại trên địa bàn nghiên cứu.  
Các đối tượng đã được thông báo và giải thích  
về nghiên cứu, đã ký mẫu đơn đồng ý tham gia.  
Sự tham gia của các đối tượng là tự nguyện  
và thông tin của những người tham gia được  
bảo mật tuyệt đối. Các phiếu thu thập sau được  
làm sạch và loại bỏ các phiếu có missing rồi  
3. Xử lý số liệu  
Chúng tôi sử dụng phần mềm Epidata 3.1  
để nhập dữ liệu và phân tích thông qua phần  
mềm R-Studio.  
Những phương pháp phân tích mà nghiên  
cứu của chúng tôi đã sử dụng:  
Phân tích mô tả: sử dụng để thống kê tỷ lệ  
(%) và tần số trung bình các đặc điểm nhân  
khẩu học, thực trạng sức khỏe tâm thần, các  
chỉ số sức khỏe và sự tự nhận thức sức khỏe  
của đối tượng nghiên cứu để có tổng điểm tự  
nhận thức sức khỏe cá nhân.  
Phân tích K-mean cluster: sử dụng để phân  
nhóm đối tượng nghiên cứu theo tổng điểm sự  
tự nhận cá nhận về sức khỏe thể chất với tổng  
TCNCYH 126 (2) - 2020  
164  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
điểm sự tự nhận cá nhận về sức khỏe sức khỏe  
tâm thân, số phân nhóm được cho là phù hợp  
dựa vào hệ số Euclidean distance cao nhất so  
với các phân nhóm khác.15  
trung học phổ thông. 93,5% đối tượng đã kết  
hôn. 56,9% đối tượng nghiên cứu có thu nhập  
dưới 50 triệu VND. 85,9% người trả lời đã có  
bảo hiểm y tế. 39,2% tổng số đối tượng mắc từ  
1 bệnh trở lên. Về lối sống, có 69,5% số người  
tham gia không có hoạt động thể thao trong  
thời gian gần đây. Trong tổng số các đối tượng  
nghiên cứu, 72% không hút thuốc, 70,5%  
không uống trà, 71,8% không sử dụng đồ uống  
có cồn và 96,2% không sử dụng cà phê trong  
thời gian gần.  
Phân tích hồi quy logistics: nhằm xác định  
mối tương quan giữa các yếu tố nhân khẩu học  
với các phân nhóm tự nhận thức của đối tượng  
nghiên cứu. Các kết quả phân tích có ý nghĩa  
thống kê khi giá trị p < 0,05.  
4. Đạo đức nghiên cứu  
Nghiên cứu đã được sự cho phép của địa  
phương ở các khu vực được chọn mẫu. Các  
đối tượng tự nguyện tham gia nghiên cứu  
được đảm bảo vô danh và bí mật các thông  
tin cá nhân. Các thông tin thu thập chỉ dành  
cho mục đích nghiên cứu.  
Về các chỉ số sức khỏe thể chất, 79,1% số  
người tham gia đều có chỉ số BMI bình thường.  
Ngược lại, chỉ số WHR đã chỉ ra phần lớn đối  
tượng nằm trong khoảng điểm nhận thấy sự  
nguy hiểm. Đặc biệt, có tới 52,1% đối tượng  
nghiên cứu được chỉ ra có chỉ số WHR cao (>1  
đối với nam và >0,85 đối với nữ), ở trong tình  
trạng rất nguy hiểm.  
III. KẾT QUẢ  
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu  
Về sức khỏe tâm thần, tỉ lệ người trả lời  
được chỉ ra có điểm sức khỏe tâm thần bình  
thường ở ba mặt: trầm cảm, lo âu và căng  
thẳng lần lượt là 89,4%, 82,4% và 96,5%.  
58,9% đối tượng tham gia nghiên cứu trong  
độ tuổi dưới 65 tuổi. 60,5% là nam giới. 77,1%  
số người tham gia có trình độ học vấn dưới  
2. Phân nhóm đối tượng tự nhận thức  
Biểu đồ 1. Phân bố hệ số Euclidean distance theo từng phân bố nhóm (n = 397)  
Kết quả phân tích Two-step cluster chỉ ra 2 phân nhóm với hệ số BIC là cao nhất trong các mô  
hình phân nhóm. Kích thước của các phân nhóm lần lượt là: 184 (46,3%) - nhóm 1 và 213 (53,7%)  
- nhóm 2.  
Biểu đổ 2 chỉ ra số phân nhóm phù hợp là 2 nhóm giữa tổng điểm nhận thức cá nhân về sức khỏe  
tâm thần với tổng điểm nhận thức cá nhân về sức khỏe thể chất. Kết quả phân tích K-mean cluster  
TCNCYH 126 (2) - 2020  
165  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
chỉ ra nhóm 1 (n = 184, % = 46,3%) là nhóm có sự tự nhận thức cá nhân về cả sức khỏe thể chất  
sức khỏe tâm thần là kém. Trong khi đó nhóm 2 (n= 213, % = 53,7%) thì có sự tự nhận thức cao về  
cả sức khỏe thể chất sức khỏe tâm thần.  
Biểu đồ 2. Phân bố đối tượng theo phân nhóm đối tượng  
của phân tích K-mean cluster (n = 397)  
3. Mô hình của các yếu tố tác động ảnh hưởng tới sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân  
Bảng 1. Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến phân nhóm tự nhận sức khỏe (n = 397)  
95%CI  
Estimate  
(β)  
Yếu tố ảnh hưởng  
SE  
OR  
Cận dưới  
1,05  
Cận trên  
2,42  
Nam giới (Có/Không)  
0,47  
- 0,81  
0,79  
0,21  
0,23  
0,28  
0,26  
1,59  
0,45  
2,19  
1,72  
Bị bệnh (Có/Không)  
0,28  
0,71  
Không bị trầm cảm (Có/Không)  
BMI bình thường (Có/Không)  
1,27  
3,78  
0,54  
1,04  
2,84  
Bảng trên cho thấy rằng kết quả thu được ở mô hình cho thấy 3 yếu tố: giới tính, tiền sử bệnh độ  
trầm cảm và chỉ số BMI có ảnh hưởng tới sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân. Cụ thể, bị bệnh dẫn  
đến sự tự nhận thức giảm. Bên cạnh đó, nam giới, không trầm cảm và có BMI bình thường thì tăng  
sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân.  
IV. BÀN LUẬN  
tôi cho rằng có nhiều đối tượng vẫn chưa có  
những nhận thức đúng về thực trạng sức khỏe  
cá nhân. Chúng tôi cũng nhận định rằng đây  
chính là nhóm đối tượng cần được chú trọng  
trong việc nâng cao ý thức khám sức khỏe định  
kì và cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn.  
Ngoài ra, việc phát triển các dịch vụ y học gia  
đình tại vùng nông thôn là cần thiết.  
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra sự tự nhận  
thức về sức khỏe cá nhân tốt chiếm ưu thế. Tuy  
nhiên, chỉ số WHR chỉ ra thực trạng sức khỏe  
ngược lại, WHR cao (nguy hiểm) chiếm trên  
50% và nghiên cứu lại chỉ ra rằng việc tự nhận  
thức về sức khỏe không bị ảnh hưởng bởi thực  
trạng sức khỏe cá nhân. Điều đó khiến chúng  
TCNCYH 126 (2) - 2020  
166  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Điểm nhấn trong kết quả nghiên cứu của  
chúng tôi là đã chỉ ra sự tương quan giữa sự  
trầm cảm và sự nhận thức sức khỏe các nhân  
của người cao tuổi ở vùng nông thôn. Một  
nghiên cứu của Fiske A. và cộng sự đã chỉ ra  
rằng người cao tuổi bị trầm cảm có nhiều khả  
năng thay đổi về nhận thức, các triệu chứng  
soma và mất hứng thú hơn so với những người  
trẻ tuổi bị trầm cảm.16 Kết quả này có nét tương  
đồng với nghiên cứu của chúng tôi và một  
nghiên cứu khác tại Trung Quốc mà chúng tôi  
tìm được.17 Từ đó, chúng tôi khẳng định rằng  
trầm cảm là một trong những yếu tố chính gây  
ảnh hưởng đến sự tự nhận thức về sức khỏe ở  
người cao tuổi. Ngoài ra, trầm cảm còn gây ra  
sa sút trí tuệ, suy giảm nhận thức và chức năng  
sinh lý, đồng tời làm tăng tỷ lệ tự tử và tàn tật ở  
người cao tuổi.18 Điều này khiến cho trầm cảm  
trở thành một vấn đề cần được quan tâm nhiều  
hơn trong thời gian tới.  
với nữ giới vốn được cho là phái yếu trong văn  
hóa Việt Nam.  
Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra những yếu  
tố ảnh hưởng đến nhận thức kém khác là tiền  
sử bệnh. Tiền sử bệnh là yếu tố nên được ưu  
tiên chú ý ở người cao tuổi ở vùng nông thôn  
vì đây là yếu tố dễ ảnh hưởng đến tình trạng  
sức khỏe của bệnh nhân. Mức độ, số lượng  
hay số năm điều trị bệnh có thể là những lý  
do ảnh hưởng đến sự tự nhận thức cá nhân.  
Hơn nữa, những nghiên cứu trước đây cũng  
chỉ ra sự ảnh hưởng của tiền sử bệnh tới sự tự  
nhận thức.20,22,23 Ngoài ra, chúng tôi đã tìm ra  
chỉ số BMI có tác động đến sự tự nhận thức, kết  
quả này có thể lý giải do sự tham gia hoạt động  
thể thao của nhóm nghiên cứu là thấp (30,5%).  
Nghiên cứu khác ở Singapore khẳng định sự  
tự nhận thức sức khỏe cá nhân có ảnh hưởng  
bởi hoạt động thể thao, việc hoạt động thể thao  
có thể dẫn đến duy trì chỉ số BMI ở mức bình  
thường.23  
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy nam  
giới là đối tượng có sự tự nhận thức về sức  
khỏe thấp hơn so với nữ giới. Tuy nhiên, yếu  
tố này lại không đồng nhất ở nhiều nghiên cứu  
tại các địa điểm khác nhau. Cụ thể, một nghiên  
cứu ở Estonia có kết quả tương đồng với chúng  
tôi rằng phụ nữ có khả năng tự nhận thức về  
sức khỏe cao hơn nam giới.19 Hai nghiên cứu  
khác ở Singapore và Pakistan có kết quả hoàn  
toàn trái ngược với nghiên cứu của chúng tôi  
và nghiên cứu ở Estonia.20,21 Nghiên cứu ở  
Singapore cho rằng yếu tố văn hóa có thể là  
nguyên nhân đóng cho những khác biệt này.20  
Chúng tôi cũng có cho mình một quan điểm  
tương tự về vấn đề này. Chúng tôi cho rằng có  
thể do văn hóa ở Việt Nam cho rằng nam giới là  
phái mạnh và không được phép mềm yếu. Đây  
có thể là lý do vì sao nam giới thường chủ động  
bỏ qua những vấn đề sức khỏe của bản thân  
để giữ lấy hình tượng đó. Điều đó khiến cho sự  
tự nhận thức về sức khỏe của họ thấp hơn so  
Nghiên cứu của chúng tôi có một vài hạn  
chế. Đầu tiên, cũng giống như các nghiên cứu  
trước đây, phương pháp nghiên cứu cắt ngang  
và độ chính xác của các câu trả lời trong bộ câu  
hỏi tự điền chính là những hạn chế mà nghiên  
cứu này mắc phải. Bên cạnh đó, việc chỉ tập  
trung nghiên cứu ở địa bàn một tỉnh miền Bắc  
nên chưa thể khái quát hóa toàn bộ vùng nông  
thôn Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi đề xuất cần có  
thêm nhiều nghiên cứu khác liên quan đến vấn  
đề tự nhận thức về sức khỏe tại những vùng  
khác ở khu vực nông thôn Việt Nam để có thể  
khái quát được toàn bộ vùng nông thôn Việt  
Nam.  
V. KẾT LUẬN  
Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp thực  
trạng của sự tự nhận thức trên đối tượng người  
cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam. Cụ thể,  
sự tự nhận thức về sức khỏe cá nhân tốt chiếm  
TCNCYH 126 (2) - 2020  
167  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
ưu thế. Các yếu tố tiền sử bệnh, BMI bình  
thường hay trầm cảm gây thay đổi khả năng tự  
nhận thức sức khỏe. Chúng tôi đề xuất có thêm  
những nghiên cứu khác tập trung vào các đối  
tượng có sự tự nhận kém hơn như người cao  
tuổi, người có tiền sử trầm cảm.  
populations  
undergoing  
epidemiological  
transition: a friend or foe? Semin Immunopathol.  
2012;34(6):889-901.  
8. Okeahialam BN, Ogbonna C, Otokwula  
AE, Joseph DE, Chuhwak EK, Isiguzoro IO.  
Cardiovascular Epidemiological Transition in a  
Rural Habitat of Nigeria: The Case of Mangu  
Local Government Area. West African Journal  
of Medicine. 2012;31(1):14–18.  
LỜI CẢM ƠN  
Nhóm nghiên cứu chúng tôi xin cảm ơn sự  
giúp đỡ của Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y  
tế công cộng Trường Đại học Y Hà Nội, các cơ  
quan ban ngành và Trạm Y tế địa phương đã  
tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành nghiên  
cứu này.  
9. Dye C, Trunz BB, Lönnroth K, Roglic  
G, Williams BG. Nutrition, Diabetes and  
Tuberculosis in the Epidemiological Transition.  
PLOS ONE. 2011;6(6):e21161.  
10. Butler RN, Lewis MI. Aging & Mental  
Health: Positive Psychosocial Approaches.  
Oxford, England: C. V. Mosby; 1973.  
TÀI LIỆU THAM KHẢO  
1. Organization WH. Basic Documents.  
World Health Organization; 2014.  
11. Yazdanyar A, Newman AB. The Burden  
of Cardiovascular Disease in the Elderly:  
Morbidity, Mortality, and Costs. Clin Geriatr  
Med. 2009;25(4):563-vii.  
2. Chen X. Understanding the Development  
and Perception of Global Health for More  
Effective Student Education. Yale J Biol Med.  
2014;87(3):231-240.  
12. Felson DT, Naimark A, Anderson  
J, Kazis L, Castelli W, Meenan RF. The  
prevalence of knee osteoarthritis in the elderly.  
The Framingham Osteoarthritis Study. Arthritis  
Rheum. 1987;30(8):914-918.  
3. Erfe JM, Choe JK. Introduction: the  
global health movement. Yale J Biol Med.  
2014;87(3):227-229.  
4. Haseli-Mashhadi N, Pan A, Ye X, et al.  
Self-Rated Health in middle-aged and elderly  
Chinese: distribution, determinants and  
associations with cardio-metabolic risk factors.  
BMC Public Health. 2009;9(1):368.  
13. Lovibond SH, Lovibond PF, Psychology  
Foundation of Australia. Manual for the  
Depression Anxiety Stress Scales. Sydney,  
N.S.W.: Psychology Foundation of Australia;  
1995.  
5. McIntyre D, Thiede M, Dahlgren G,  
Whitehead M. What are the economic  
consequences for households of illness and  
of paying for health care in low- and middle-  
income country contexts? Social Science &  
Medicine. 2006;62(4):858-865.  
14. Hays RD, Bjorner JB, Revicki DA,  
Spritzer KL, Cella D. Development of physical  
and mental health summary scores from the  
patient-reported  
outcomes  
measurement  
information system (PROMIS) global items.  
Qual Life Res. 2009;18(7):873-880.  
6. Mills A. Health Care Systems in Low-  
and Middle-Income Countries. New England  
Journal of Medicine. 2014;370(6):552-557.  
7. Wiria AE, Djuardi Y, Supali T, Sartono  
E, Yazdanbakhsh M. Helminth infection in  
15. Hand DJ, Krzanowski WJ. Optimising  
k-means clustering results with standard  
software packages. Computational Statistics &  
Data Analysis. 2005;49(4):969-973.  
16. Fiske A, Wetherell JL, Gatz M.  
TCNCYH 126 (2) - 2020  
168  
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC  
Depression in Older Adults. Annual Review of  
Clinical Psychology. 2009;5(1):363-389.  
17. Haseli-Mashhadi N, Pan A, Ye X, et  
al. Self-Rated Health in middle-aged and  
elderly Chinese: distribution, determinants and  
associations with cardio-metabolic risk factors.  
BMC Public Health. 2009;9:368.  
Singapore. BMC Public Health. 2007;7(1):184.  
21. Ahmad K, Jafar TH, Chaturvedi N. Self-  
rated health in Pakistan: results of a national  
health survey. BMC Public Health. 2005;5:51.  
22. Steward KA, Tan A, Delgaty L, et al. Self-  
Awareness of Executive Functioning Deficits  
in Adolescents With ADHD. J Atten Disord.  
2017;21(4):316-322.  
18. Rodda J, Walker Z, Carter J. Depression  
in older adults. BMJ. 2011;343.  
23. Bivona U, Riccio A, Ciurli P, et al. Low  
Self-Awareness of Individuals With Severe  
Traumatic Brain Injury Can Lead to Reduced  
Ability to Take Another Person’s Perspective.  
The Journal of Head Trauma Rehabilitation.  
2014;29(2):157  
19. Leinsalu M. Social variation in self-rated  
health in Estonia: a cross-sectional study. Soc  
Sci Med. 2002; 55(5):847-861.  
20. Lim W-Y, Ma S, Heng D, et al. Gender,  
ethnicity, health behaviour & self-rated health in  
Summary  
SELF-AWARENESS OF INDIVIDUAL HEALTH AMONG  
VIETNAMESE ELDERLY OVER IN RURAL AREAS IN 2018 AND  
ASSOCIATED FACTORS  
An individualized health assessment is a basic evaluation but comprehensive assessment of all  
aspects of health. With this study, we aim to explore the state of individual health self-awareness and  
the factors affecting self-awareness of Vietnamese people 60 years of age and older in rural area. We  
surveyed397subjectsthroughasetofpersonalhealthmeasurementquestionnaireandpersonalhealth  
self-awareness (PROMIS) questionnaire. Two-step cluster analysis and univariate logistic regression  
analysis were used to classify groups of self-awareness and determine the correlation between  
demographicfactorsandself-awareness.Ourresultsfoundthatpredominantly,halfoftheelderlyhasgood  
self-awareness about personal health (53.4%). Factors asssosiated included: medical history, normal  
BMI index, depression status. Our research suggests focusing on subjects with less cognitive ability.  
Key words: Self-awareness, elderly, rural area, Vietnamese, associated factors  
TCNCYH 126 (2) - 2020  
169  
pdf 7 trang yennguyen 14/04/2022 4680
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_tu_nhan_thuc_ve_suc_khoe_ca_nhan_cua_nguoi_cao_tu.pdf