Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
THỰC TRẠNG TỰ NHẬN THỨC VỀ SỨC KHỎE CÁ NHÂN CỦA
NGƯỜI CAO TUỔI TẠI VÙNG NÔNG THÔN VIỆT NAM NĂM 2018
VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG
Nguyễn Thanh Lam, Vũ Thiện Hoàng, Phan Ngọc Hân, Lê Thị Hương
Phạm Hải Thanhvà Ngô Trí Tuấn
Viện Đào tạo YHDP &YTCC - Trường Đại học Y Hà Nội
Tự đánh giá sức khỏe cá nhân là một đánh giá đơn giản nhưng toàn diện về mọi mặt của sức khỏe. Với
nghiên cứu này, chúng tôi muốn tìm hiểu thực trạng tự nhận thức sức khỏe cá nhân và các yếu tố ảnh hưởng
tới tự nhận thức của nhóm người Từ 60 tuổi trở lên ở vùng nông thôn Việt Nam. Nghiên cứu khảo sát trên
397 đối tượng thông qua bộ câu hỏi đo lường về chỉ số và sự tự nhận thức về sức khỏe cá nhân (PROMIS).
Phân tích Two-step cluster và phân tích hồi quy logistic đơn biến cũng được sử dụng để phân nhóm và xác
định mối tương quan giữa các yếu tố nhân khẩu học với sự tự nhận thức. Kết quả cho thấy sự tự nhận thức
tốt về sức khỏe cá nhân chiếm ưu thế (53,4%). Các yếu tố: tiền sử bệnh, BMI bình thường, trầm cảm tác
động tới sự tự nhận thức theo chiều nghịch. Nghiên cứu của chúng tôi đã đưa ra được các bằng chứng về
các yếu tố ảnh hưởng đến sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân của người cao tuổi ở vùng nông thôn Việt Nam.
Từ khóa: Tự nhận thức, người cao tuổi, nông thôn, Việt Nam, yếu tố ảnh hưởng
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Sức khỏe được định nghĩa là trạng thái
hoàn toàn thoải mái về thể chất, tinh thần và
xã hội.¹ Mặt khác, các phong trào thúc đẩy Y tế
toàn cầu ngày càng phát triển đã khiến cho việc
nâng cao khả năng tự nhận thức chung về sức
khỏe cá nhân ngày càng cần thiết.2,3 Đó là một
đánh giá đơn giản nhưng toàn diện về cả sức
khỏe thể chất và tinh thần.4 Vì vậy, nâng cao
khả năng tự nhận thức sức khỏe mỗi cá nhân
giúp bảo vệ sức khỏe đúng cách và phát triển
sức khỏe cá nhân theo chiều hướng tích cực sẽ
có thể cải thiện sức khỏe cộng đồng.
bản thân ở khu vực nông thôn hay các nước
đang phát triển đang còn nhiều thiếu hụt. Điều
này có thể do khả năng đáp ứng kém của người
dân với các dịch vụ y tế hay do những điểm yếu
trong hệ thống y tế ở nông thôn và các quốc
gia đang phát triển gây nên.2,5,6 Đây có thể là
nguyên nhân khiến các nước đang phát triển có
tuổi thọ trung bình thấp hơn các nước phát triển
và tỷ lệ các bệnh do nhiễm trùng tăng cao hơn
so với các khu vực khác.7–9 Cũng chính vì lý do
này, người dân nơi đây không chú trọng đến
bảo vệ sức khỏe cá nhân và không sử dụng các
dịch vụ y tế nếu phát sinh chi phí.
Tuy nhiên, thưc trạng nhận thức sức khỏe
Ngoài ra, người cao tuổi là nhóm tuổi mà
sức khỏe thể chất đang dần trở nên kém đi. Nổi
bật trong đó là các vấn đề liên quan tới xương
khớp, tim mạch hay sức khỏe tâm thần.10–12
Điều đó khiến cho nhóm đối tượng này cần
được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn. Vì
vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục
Tác giả liên hệ: Ngô Trí Tuấn, Bộ môn Tổ chức và
Quản lý Y tế - Viện Đào tạo YHDP & YTCC - Trường
Đại học Y Hà Nội
Email: ngotrituan@hmu.edu.vn
Ngày nhận: 15/12/2019
Ngày được chấp nhận: 20/02/2020
TCNCYH 126 (2) - 2020
163
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
tiêu:
mới được nhập vào bộ số liệu. Nghiên cứu đã
phỏng vấn và thu thập số liệu được của 397
người.
1- Xác định thực trạng sự tự nhận thức về
sức khỏe cá nhân ở người cao tuổi từ 60 tuổi
trở lên tại vùng nông thôn Việt Nam.
2- Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến sự
tự nhận thức về sức khỏe cá nhân ở người cao
tuổi từ 60 tuổi trở lên tại vùng nông thôn Việt
Nam.
Công cụ thu thập số liệu: Bộ câu hỏi của
nghiên cứu chúng tôi gồm 3 phần.
- Nhân khẩu học gồm các biến: tuổi, tình
trạng hôn nhân, trình độ học vấn, thu nhập gia
đình, bảo hiểm y tế.
- Đo lường chỉ số sức khỏe cá nhân bao
gồm các biến: tiền sử bệnh tật, tư vấn từ nhân
viên y tế, BMI (chỉ số khối cơ thể), WHR (tỷ số
vòng eo trên vòng mông) và sức khỏe tâm thần.
Trong đó, đo lường sức khỏe thâm thần được
chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi DASS-21 gồm 21
câu hỏi về kiểm định sức khỏe tâm thần trên 3
mặt trầm cảm, lo âu và stress.13
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP
1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu bao gồm những
người dân sống ở khu vực này tối thiểu 3 năm
liên tục và có độ tuổi >= 60 tuổi. Các đối tượng
không mắc các chứng suy giảm trí nhớ và suy
giảm khả năng giao tiếp.
- Đo lường sự tự nhận thức sức khỏe cá
nhân đã được chúng tôi sử dụng bộ câu hỏi
PROMIS gồm 10 câu hỏi. Bộ câu hỏi PROMIS
giúp chúng ta có thể đánh giá đầy đủ về sự tự
nhận thức sức khỏe chung của từng cá nhân
liên quan đến vấn đề sức khỏe thể chất, sức
khỏe tâm thần và sức khỏe xã hội.14 Hệ số
Cronbach’s Alpha của hai bộ câu hỏi DASS- 21
và PROMIS lần lượt là 0,861 và 0,946.
2. Phương pháp
Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu của chúng
tôi sử dụng phương pháp thiết kế mô tả cắt
ngang.
Địa điểm nghiên cứu: Nghiên cứu tại 3
huyện được chọn ngẫu nhiên tại tỉnh Hà Nam
(Duy Tiên, Kim Bảng và Bình Lục) từ tháng 6
đến tháng 8 năm 2018. Khu vực được lấy đại
điện cho vùng nông thôn khu vực Bắc Bộ.
Phương pháp chọn mẫu: Nghiên cứu đã sử
dụng phương pháp chọn mẫu nhiều giai đoạn.
Chúng tôi chọn ngẫu nhiên 3 trong 5 huyện
của tình Hà Nam (Duy Tiên, Kim Bảng và Bình
Lục). Mỗi huyện, 10 xã được chọn ngẫu nhiên.
Tại mỗi xã, 15 hộ dân được chọn ngẫu nhiên
với tiêu chí mỗi hộ có ít nhất 1 người trong độ
tuổi >= 60 tuổi (1 người/hộ). Tổng số đủ tiêu
chí lựa chọn tại mỗi xã là 15 người. Đã có 450
người đủ tiêu chí tại trên địa bàn nghiên cứu.
Các đối tượng đã được thông báo và giải thích
về nghiên cứu, đã ký mẫu đơn đồng ý tham gia.
Sự tham gia của các đối tượng là tự nguyện
và thông tin của những người tham gia được
bảo mật tuyệt đối. Các phiếu thu thập sau được
làm sạch và loại bỏ các phiếu có missing rồi
3. Xử lý số liệu
Chúng tôi sử dụng phần mềm Epidata 3.1
để nhập dữ liệu và phân tích thông qua phần
mềm R-Studio.
Những phương pháp phân tích mà nghiên
cứu của chúng tôi đã sử dụng:
Phân tích mô tả: sử dụng để thống kê tỷ lệ
(%) và tần số trung bình các đặc điểm nhân
khẩu học, thực trạng sức khỏe tâm thần, các
chỉ số sức khỏe và sự tự nhận thức sức khỏe
của đối tượng nghiên cứu để có tổng điểm tự
nhận thức sức khỏe cá nhân.
Phân tích K-mean cluster: sử dụng để phân
nhóm đối tượng nghiên cứu theo tổng điểm sự
tự nhận cá nhận về sức khỏe thể chất với tổng
TCNCYH 126 (2) - 2020
164
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
điểm sự tự nhận cá nhận về sức khỏe sức khỏe
tâm thân, số phân nhóm được cho là phù hợp
dựa vào hệ số Euclidean distance cao nhất so
với các phân nhóm khác.15
trung học phổ thông. 93,5% đối tượng đã kết
hôn. 56,9% đối tượng nghiên cứu có thu nhập
dưới 50 triệu VND. 85,9% người trả lời đã có
bảo hiểm y tế. 39,2% tổng số đối tượng mắc từ
1 bệnh trở lên. Về lối sống, có 69,5% số người
tham gia không có hoạt động thể thao trong
thời gian gần đây. Trong tổng số các đối tượng
nghiên cứu, 72% không hút thuốc, 70,5%
không uống trà, 71,8% không sử dụng đồ uống
có cồn và 96,2% không sử dụng cà phê trong
thời gian gần.
Phân tích hồi quy logistics: nhằm xác định
mối tương quan giữa các yếu tố nhân khẩu học
với các phân nhóm tự nhận thức của đối tượng
nghiên cứu. Các kết quả phân tích có ý nghĩa
thống kê khi giá trị p < 0,05.
4. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu đã được sự cho phép của địa
phương ở các khu vực được chọn mẫu. Các
đối tượng tự nguyện tham gia nghiên cứu
được đảm bảo vô danh và bí mật các thông
tin cá nhân. Các thông tin thu thập chỉ dành
cho mục đích nghiên cứu.
Về các chỉ số sức khỏe thể chất, 79,1% số
người tham gia đều có chỉ số BMI bình thường.
Ngược lại, chỉ số WHR đã chỉ ra phần lớn đối
tượng nằm trong khoảng điểm nhận thấy sự
nguy hiểm. Đặc biệt, có tới 52,1% đối tượng
nghiên cứu được chỉ ra có chỉ số WHR cao (>1
đối với nam và >0,85 đối với nữ), ở trong tình
trạng rất nguy hiểm.
III. KẾT QUẢ
1. Đặc điểm đối tượng nghiên cứu
Về sức khỏe tâm thần, tỉ lệ người trả lời
được chỉ ra có điểm sức khỏe tâm thần bình
thường ở ba mặt: trầm cảm, lo âu và căng
thẳng lần lượt là 89,4%, 82,4% và 96,5%.
58,9% đối tượng tham gia nghiên cứu trong
độ tuổi dưới 65 tuổi. 60,5% là nam giới. 77,1%
số người tham gia có trình độ học vấn dưới
2. Phân nhóm đối tượng tự nhận thức
Biểu đồ 1. Phân bố hệ số Euclidean distance theo từng phân bố nhóm (n = 397)
Kết quả phân tích Two-step cluster chỉ ra 2 phân nhóm với hệ số BIC là cao nhất trong các mô
hình phân nhóm. Kích thước của các phân nhóm lần lượt là: 184 (46,3%) - nhóm 1 và 213 (53,7%)
- nhóm 2.
Biểu đổ 2 chỉ ra số phân nhóm phù hợp là 2 nhóm giữa tổng điểm nhận thức cá nhân về sức khỏe
tâm thần với tổng điểm nhận thức cá nhân về sức khỏe thể chất. Kết quả phân tích K-mean cluster
TCNCYH 126 (2) - 2020
165
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
chỉ ra nhóm 1 (n = 184, % = 46,3%) là nhóm có sự tự nhận thức cá nhân về cả sức khỏe thể chất
sức khỏe tâm thần là kém. Trong khi đó nhóm 2 (n= 213, % = 53,7%) thì có sự tự nhận thức cao về
cả sức khỏe thể chất sức khỏe tâm thần.
Biểu đồ 2. Phân bố đối tượng theo phân nhóm đối tượng
của phân tích K-mean cluster (n = 397)
3. Mô hình của các yếu tố tác động ảnh hưởng tới sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân
Bảng 1. Mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến phân nhóm tự nhận sức khỏe (n = 397)
95%CI
Estimate
(β)
Yếu tố ảnh hưởng
SE
OR
Cận dưới
1,05
Cận trên
2,42
Nam giới (Có/Không)
0,47
- 0,81
0,79
0,21
0,23
0,28
0,26
1,59
0,45
2,19
1,72
Bị bệnh (Có/Không)
0,28
0,71
Không bị trầm cảm (Có/Không)
BMI bình thường (Có/Không)
1,27
3,78
0,54
1,04
2,84
Bảng trên cho thấy rằng kết quả thu được ở mô hình cho thấy 3 yếu tố: giới tính, tiền sử bệnh độ
trầm cảm và chỉ số BMI có ảnh hưởng tới sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân. Cụ thể, bị bệnh dẫn
đến sự tự nhận thức giảm. Bên cạnh đó, nam giới, không trầm cảm và có BMI bình thường thì tăng
sự tự nhận thức sức khỏe cá nhân.
IV. BÀN LUẬN
tôi cho rằng có nhiều đối tượng vẫn chưa có
những nhận thức đúng về thực trạng sức khỏe
cá nhân. Chúng tôi cũng nhận định rằng đây
chính là nhóm đối tượng cần được chú trọng
trong việc nâng cao ý thức khám sức khỏe định
kì và cần có thêm những nghiên cứu sâu hơn.
Ngoài ra, việc phát triển các dịch vụ y học gia
đình tại vùng nông thôn là cần thiết.
Nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra sự tự nhận
thức về sức khỏe cá nhân tốt chiếm ưu thế. Tuy
nhiên, chỉ số WHR chỉ ra thực trạng sức khỏe
ngược lại, WHR cao (nguy hiểm) chiếm trên
50% và nghiên cứu lại chỉ ra rằng việc tự nhận
thức về sức khỏe không bị ảnh hưởng bởi thực
trạng sức khỏe cá nhân. Điều đó khiến chúng
TCNCYH 126 (2) - 2020
166
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Điểm nhấn trong kết quả nghiên cứu của
chúng tôi là đã chỉ ra sự tương quan giữa sự
trầm cảm và sự nhận thức sức khỏe các nhân
của người cao tuổi ở vùng nông thôn. Một
nghiên cứu của Fiske A. và cộng sự đã chỉ ra
rằng người cao tuổi bị trầm cảm có nhiều khả
năng thay đổi về nhận thức, các triệu chứng
soma và mất hứng thú hơn so với những người
trẻ tuổi bị trầm cảm.16 Kết quả này có nét tương
đồng với nghiên cứu của chúng tôi và một
nghiên cứu khác tại Trung Quốc mà chúng tôi
tìm được.17 Từ đó, chúng tôi khẳng định rằng
trầm cảm là một trong những yếu tố chính gây
ảnh hưởng đến sự tự nhận thức về sức khỏe ở
người cao tuổi. Ngoài ra, trầm cảm còn gây ra
sa sút trí tuệ, suy giảm nhận thức và chức năng
sinh lý, đồng tời làm tăng tỷ lệ tự tử và tàn tật ở
người cao tuổi.18 Điều này khiến cho trầm cảm
trở thành một vấn đề cần được quan tâm nhiều
hơn trong thời gian tới.
với nữ giới vốn được cho là phái yếu trong văn
hóa Việt Nam.
Ngoài ra, nghiên cứu còn chỉ ra những yếu
tố ảnh hưởng đến nhận thức kém khác là tiền
sử bệnh. Tiền sử bệnh là yếu tố nên được ưu
tiên chú ý ở người cao tuổi ở vùng nông thôn
vì đây là yếu tố dễ ảnh hưởng đến tình trạng
sức khỏe của bệnh nhân. Mức độ, số lượng
hay số năm điều trị bệnh có thể là những lý
do ảnh hưởng đến sự tự nhận thức cá nhân.
Hơn nữa, những nghiên cứu trước đây cũng
chỉ ra sự ảnh hưởng của tiền sử bệnh tới sự tự
nhận thức.20,22,23 Ngoài ra, chúng tôi đã tìm ra
chỉ số BMI có tác động đến sự tự nhận thức, kết
quả này có thể lý giải do sự tham gia hoạt động
thể thao của nhóm nghiên cứu là thấp (30,5%).
Nghiên cứu khác ở Singapore khẳng định sự
tự nhận thức sức khỏe cá nhân có ảnh hưởng
bởi hoạt động thể thao, việc hoạt động thể thao
có thể dẫn đến duy trì chỉ số BMI ở mức bình
thường.23
Nghiên cứu của chúng tôi nhận thấy nam
giới là đối tượng có sự tự nhận thức về sức
khỏe thấp hơn so với nữ giới. Tuy nhiên, yếu
tố này lại không đồng nhất ở nhiều nghiên cứu
tại các địa điểm khác nhau. Cụ thể, một nghiên
cứu ở Estonia có kết quả tương đồng với chúng
tôi rằng phụ nữ có khả năng tự nhận thức về
sức khỏe cao hơn nam giới.19 Hai nghiên cứu
khác ở Singapore và Pakistan có kết quả hoàn
toàn trái ngược với nghiên cứu của chúng tôi
và nghiên cứu ở Estonia.20,21 Nghiên cứu ở
Singapore cho rằng yếu tố văn hóa có thể là
nguyên nhân đóng cho những khác biệt này.20
Chúng tôi cũng có cho mình một quan điểm
tương tự về vấn đề này. Chúng tôi cho rằng có
thể do văn hóa ở Việt Nam cho rằng nam giới là
phái mạnh và không được phép mềm yếu. Đây
có thể là lý do vì sao nam giới thường chủ động
bỏ qua những vấn đề sức khỏe của bản thân
để giữ lấy hình tượng đó. Điều đó khiến cho sự
tự nhận thức về sức khỏe của họ thấp hơn so
Nghiên cứu của chúng tôi có một vài hạn
chế. Đầu tiên, cũng giống như các nghiên cứu
trước đây, phương pháp nghiên cứu cắt ngang
và độ chính xác của các câu trả lời trong bộ câu
hỏi tự điền chính là những hạn chế mà nghiên
cứu này mắc phải. Bên cạnh đó, việc chỉ tập
trung nghiên cứu ở địa bàn một tỉnh miền Bắc
nên chưa thể khái quát hóa toàn bộ vùng nông
thôn Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi đề xuất cần có
thêm nhiều nghiên cứu khác liên quan đến vấn
đề tự nhận thức về sức khỏe tại những vùng
khác ở khu vực nông thôn Việt Nam để có thể
khái quát được toàn bộ vùng nông thôn Việt
Nam.
V. KẾT LUẬN
Nghiên cứu của chúng tôi cung cấp thực
trạng của sự tự nhận thức trên đối tượng người
cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam. Cụ thể,
sự tự nhận thức về sức khỏe cá nhân tốt chiếm
TCNCYH 126 (2) - 2020
167
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
ưu thế. Các yếu tố tiền sử bệnh, BMI bình
thường hay trầm cảm gây thay đổi khả năng tự
nhận thức sức khỏe. Chúng tôi đề xuất có thêm
những nghiên cứu khác tập trung vào các đối
tượng có sự tự nhận kém hơn như người cao
tuổi, người có tiền sử trầm cảm.
populations
undergoing
epidemiological
transition: a friend or foe? Semin Immunopathol.
2012;34(6):889-901.
8. Okeahialam BN, Ogbonna C, Otokwula
AE, Joseph DE, Chuhwak EK, Isiguzoro IO.
Cardiovascular Epidemiological Transition in a
Rural Habitat of Nigeria: The Case of Mangu
Local Government Area. West African Journal
of Medicine. 2012;31(1):14–18.
LỜI CẢM ƠN
Nhóm nghiên cứu chúng tôi xin cảm ơn sự
giúp đỡ của Viện Đào tạo Y học dự phòng và Y
tế công cộng Trường Đại học Y Hà Nội, các cơ
quan ban ngành và Trạm Y tế địa phương đã
tạo điều kiện cho chúng tôi hoàn thành nghiên
cứu này.
9. Dye C, Trunz BB, Lönnroth K, Roglic
G, Williams BG. Nutrition, Diabetes and
Tuberculosis in the Epidemiological Transition.
PLOS ONE. 2011;6(6):e21161.
10. Butler RN, Lewis MI. Aging & Mental
Health: Positive Psychosocial Approaches.
Oxford, England: C. V. Mosby; 1973.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Organization WH. Basic Documents.
World Health Organization; 2014.
11. Yazdanyar A, Newman AB. The Burden
of Cardiovascular Disease in the Elderly:
Morbidity, Mortality, and Costs. Clin Geriatr
Med. 2009;25(4):563-vii.
2. Chen X. Understanding the Development
and Perception of Global Health for More
Effective Student Education. Yale J Biol Med.
2014;87(3):231-240.
12. Felson DT, Naimark A, Anderson
J, Kazis L, Castelli W, Meenan RF. The
prevalence of knee osteoarthritis in the elderly.
The Framingham Osteoarthritis Study. Arthritis
Rheum. 1987;30(8):914-918.
3. Erfe JM, Choe JK. Introduction: the
global health movement. Yale J Biol Med.
2014;87(3):227-229.
4. Haseli-Mashhadi N, Pan A, Ye X, et al.
Self-Rated Health in middle-aged and elderly
Chinese: distribution, determinants and
associations with cardio-metabolic risk factors.
BMC Public Health. 2009;9(1):368.
13. Lovibond SH, Lovibond PF, Psychology
Foundation of Australia. Manual for the
Depression Anxiety Stress Scales. Sydney,
N.S.W.: Psychology Foundation of Australia;
1995.
5. McIntyre D, Thiede M, Dahlgren G,
Whitehead M. What are the economic
consequences for households of illness and
of paying for health care in low- and middle-
income country contexts? Social Science &
Medicine. 2006;62(4):858-865.
14. Hays RD, Bjorner JB, Revicki DA,
Spritzer KL, Cella D. Development of physical
and mental health summary scores from the
patient-reported
outcomes
measurement
information system (PROMIS) global items.
Qual Life Res. 2009;18(7):873-880.
6. Mills A. Health Care Systems in Low-
and Middle-Income Countries. New England
Journal of Medicine. 2014;370(6):552-557.
7. Wiria AE, Djuardi Y, Supali T, Sartono
E, Yazdanbakhsh M. Helminth infection in
15. Hand DJ, Krzanowski WJ. Optimising
k-means clustering results with standard
software packages. Computational Statistics &
Data Analysis. 2005;49(4):969-973.
16. Fiske A, Wetherell JL, Gatz M.
TCNCYH 126 (2) - 2020
168
TẠP CHÍ NGHIÊN CỨU Y HỌC
Depression in Older Adults. Annual Review of
Clinical Psychology. 2009;5(1):363-389.
17. Haseli-Mashhadi N, Pan A, Ye X, et
al. Self-Rated Health in middle-aged and
elderly Chinese: distribution, determinants and
associations with cardio-metabolic risk factors.
BMC Public Health. 2009;9:368.
Singapore. BMC Public Health. 2007;7(1):184.
21. Ahmad K, Jafar TH, Chaturvedi N. Self-
rated health in Pakistan: results of a national
health survey. BMC Public Health. 2005;5:51.
22. Steward KA, Tan A, Delgaty L, et al. Self-
Awareness of Executive Functioning Deficits
in Adolescents With ADHD. J Atten Disord.
2017;21(4):316-322.
18. Rodda J, Walker Z, Carter J. Depression
in older adults. BMJ. 2011;343.
23. Bivona U, Riccio A, Ciurli P, et al. Low
Self-Awareness of Individuals With Severe
Traumatic Brain Injury Can Lead to Reduced
Ability to Take Another Person’s Perspective.
The Journal of Head Trauma Rehabilitation.
2014;29(2):157
19. Leinsalu M. Social variation in self-rated
health in Estonia: a cross-sectional study. Soc
Sci Med. 2002; 55(5):847-861.
20. Lim W-Y, Ma S, Heng D, et al. Gender,
ethnicity, health behaviour & self-rated health in
Summary
SELF-AWARENESS OF INDIVIDUAL HEALTH AMONG
VIETNAMESE ELDERLY OVER IN RURAL AREAS IN 2018 AND
ASSOCIATED FACTORS
An individualized health assessment is a basic evaluation but comprehensive assessment of all
aspects of health. With this study, we aim to explore the state of individual health self-awareness and
the factors affecting self-awareness of Vietnamese people 60 years of age and older in rural area. We
surveyed397subjectsthroughasetofpersonalhealthmeasurementquestionnaireandpersonalhealth
self-awareness (PROMIS) questionnaire. Two-step cluster analysis and univariate logistic regression
analysis were used to classify groups of self-awareness and determine the correlation between
demographicfactorsandself-awareness.Ourresultsfoundthatpredominantly,halfoftheelderlyhasgood
self-awareness about personal health (53.4%). Factors asssosiated included: medical history, normal
BMI index, depression status. Our research suggests focusing on subjects with less cognitive ability.
Key words: Self-awareness, elderly, rural area, Vietnamese, associated factors
TCNCYH 126 (2) - 2020
169
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng tự nhận thức về sức khỏe cá nhân của người cao tuổi tại vùng nông thôn Việt Nam năm 2018 và các yếu tố ảnh hưởng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- thuc_trang_tu_nhan_thuc_ve_suc_khoe_ca_nhan_cua_nguoi_cao_tu.pdf