Phong cách tượng người chim chùa Phật Tích

Tp chí Khoa hc - Trường Đại hc MHà Ni 66 (4/2020) 1-7  
1
PHONG CÁCH TƯỢNG NGƯỜI CHIM CHÙA PHẬT TÍCH  
STATUE OF BUDDHA PURPLE  
Ngô Văn Doanh*  
Ngày tòa soạn nhận được bài báo: 4/10/2019  
Ngày nhận kết quả phản biện đánh giá: 3/04/2020  
Ngày bài báo được duyệt đăng: 28/04/2020  
Tóm tt: Giờ đây, vi hàng chc hin vt được phát hin năm 2008, chúng ta đã hoàn  
toàn có cơ sở để khng định vmt phong cách tượng người chim rt riêng ca di tích chùa  
Pht Tích nói riêng và ca cmt giai đon nghthut Lý nói chung. Ngoài ra, như chúng  
tôi đã phân tích, có thkhng định, do có nhng nét đc thù rt riêng, nên phong cách tượng  
người chim Pht Tích gn như khác hn các phong cách cũng như các kiu tượng người chim  
ca các nn nghthut ckhu vc Nam Á, trong đó có n Độ Đông Nam Á  
Tkhóa: Phong cách, tượng, người chim, chùa Pht Tích  
Abstract: Now, with dozens of artifacts discovered in 2008, we have absolutely a basis  
for asserting a very unique bird-like statue style of the Buddhist Temple ruins in particular  
and of an artistic stage. Li in general. In addition, as we have analyzed, it can be armed  
that, because of its very own particularities, the style of the Buddha Tichen statue is almost  
completely dierent from the styles as well as the types of bird gures of art Art of South Asia,  
including India and Southeast Asia  
Keywords: Style, statue, bird, Buddha temple  
1. Mở đầu  
(Hà Nam) và nhiều mảnh vỡ tượng người  
chim ở Chương Sơn (Nam Định). Người  
chim đánh chũm chọe ở chùa Long Đọi  
còn tương đối nguyên vẹn, cao 0,50m,  
người chim đánh trống cơm chùa Phật  
Tích có to hơn một chút, nhưng do bị gãy  
một đoạn đuôi, nên chỉ còn cao 0,40m, là  
tượng đẹp nhất trong loại tượng này. Các  
tượng khác có nhỏ hơn một chút; ví dụ,  
tượng người chim đánh đàn chùa Phật  
Tích cao 0,27m.  
Năm 1944, trong cuộc khai quật  
ngôi tháp cổ ở chùa Phật Tích (Bắc Ninh),  
đã phát hiện được hai pho tượng Kinnari  
(một đánh trống cơm và một gẩy đàn)  
bằng đá còn khá nguyên vẹn (hiện được  
lưu giữ và trưng bày tại Bảo tàng Lịch sử  
Quốc gia Việt Nam). Sau này, vào những  
năm 60 - 70 của thế kỷ trước, lại phát hiện  
thêm một tượng Kinnari ở chùa Long Đọi  
* Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam  
2
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
2. Nội dung  
Tuy chỉ mới phát hiện được với một  
chưa biết chính xác bằng con đường nào,  
song miền Trung Á là một chặng đường  
không phải là kém quan trọng. Cũng theo  
Louis Bezacier, một đặc điểm có thể nói  
là chủ yếu thấy trên các hình tượng điêu  
khắc này (tức những điêu khắc đá mà  
L.Bezacier cho là cổ nhất của nghệ thuật  
Việt Nam và thuộc ngôi tháp cổ được xây  
dựng ở chùa Phật Tích vào thời Đường) là  
những hình hoa nhỏ có năm, sáu, bảy hay  
tám cánh chạm rải rác trên hình tượng. Thế  
nhưng, ở người chim, cũng những hình  
hoa đó, nhưng to hơn, được làm trang sức  
trên búi tóc và được kết thành dải hoa để  
giữ lấy tóc phía trên trán. Louis Bezacier  
cho rằng kiểu trang sức hoa như của các  
người chim Phật Tích là đặc điểm nhận  
thấy trên nhiều hình tượng điêu khắc và  
hội họa của miền Trung Á (1).  
số lượng không nhiều, nhưng các nhà  
nghiên cứu đã nhận thấy các pho tượng  
đá người chim này được thể hiện theo một  
kiểu dáng khá thống nhất và cùng có những  
nét rất chung. Ngay khi được phát hiện  
vào năm 1944, nhà nghiên cứu mỹ thuật  
cổ Việt Nam người Pháp Louis Bezacier,  
người phụ trách cuộc khai quật ở chùa Phật  
Tích (tỉnh Bắc Ninh), đã có những đánh  
giá và nhận xét đáng lưu ý. Theo ông, ba  
hình tượng điêu khắc được phát hiện tại  
Phật Tích là Hộ pháp (Lokapala), người  
chim (Kinnari) và Kim cương (Vajrapala)  
đã chỉ rõ, chẳng những có chịu ảnh hưởng  
Trung Quốc thời Đường, mà nhất là ảnh  
hưởng Ấn Độ đưa tới xứ Bắc Kỳ, hiện nay  
Tượng người chim và các tượng đá khác được phát hin năm 1944  
Mấy chục năm sau, trên cơ sở phân  
tích và so sánh thêm với một số pho tượng  
được phát hiện thêm ở một vài nơi khác,  
nhà nghiên cứu Chu Quang Trứ đã có một  
khái quát khá cô đúc và đầy đủ về các  
tượng người chim đã được phát hiện như  
sau: “Tất cả các tượng người chim đều  
đứng trên đế liền khối với tượng, đế tạc  
thành chiếc đấu vuông thót đáy. Người  
chim đậu chắc trên đế bệ, đuôi uốn cong  
hất lên cao, rõ ràng ở thế tĩnh, song đôi  
cánh lại mở rộng như đang quạt gió, gợi ra  
một tư thế động. Cánh xòe nhưng không  
dang ngang, lại dựng đứng áp sát thân,  
nên đảm bảo cho bố cục ở khối đóng kín,  
có đường viền rõ ràng. Chố khác nhau của  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
3
các tượng này, cơ bản là ở các nhạc cụ  
(trống cơm, chũm chọe và đàn) có hình  
dáng khác nhau, nhưng đều được gắn với  
ngực nhân vật, ở phía trước rất rõ ràng và  
gọn gàng. Nhìn đằng trước, tượng được  
cấu tạo hai nửa phải và trái đăng đối, có  
dạng khối tam giác lớn lồng lên tam giác  
nhỏ (bệ và bụng) nên tĩnh mà lại động,  
chắc chắn nhưng chồng chềnh; nếu nhìn  
ở sườn bên thì lại có dạng một múi cam  
dựng đứng với cung cong quay vào phía  
trong, các đường vạch xếp lớp cánh và các  
long cánh, long đuôi cũng phụ họa theo  
gây ấn tượng về một sự khởi động muốn  
cho người chim bốc lên. Tượng có khuôn  
mặt đầy đặn, hiền từ, các chi tiết trên mặt  
đều sang sủa, tóc tết thành búi trên đỉnh  
và được dải băng hoa buộc lại trên trán;  
ẩn hiện dưới những bông hoa cài trang  
điểm. Tượng có cổ cao ba ngấn, bộ ngực  
nở nang, tay tròn mập và đôi chân chim  
ngắn khỏe với những móng sắc bám lấy  
bệ. Tượng tập trung khai thác khối, song  
cũng chú ý nhiều đến trang trí - nhất là  
trên đầu tóc và phần thân mang lốt chim,  
vì thế vừa nẩy căng vừa tươi mát.”. Như  
Louis Bezacier cho rằng các tượng người  
chim ở Phật Tích là các tượng của ngôi  
tháp (nhưng là ngôi tháp thời Lý), Chu  
Quang Trứ viết “nếu liên tưởng đến tháp  
men thờ chùa Chò (Vĩnh Phú) có tượng  
người chim dang cánh, thì có thể nghĩ các  
tượng người chim bằng đá đều được đặt  
ở mặt ngoài của ngôi tháp Phật giáo, trên  
những chạc đỡ mái thuộc những tầng khác  
nhau, nên có kích thước khác nhau, nhưng  
đều chung cách tạo dáng và bố cục.”(2).  
Sang thế kỷ XXI, vào năm 2008, nhân  
đợt trùng tu lớn, các nhà khảo cổ học đã tiến  
hành khai quật lại khu vực ngôi tháp gạch  
cổ thời Lý. Do khai quật với quy mô lớn  
hơn so với diện tích mà ông Louis Bezacier  
đã đào trước đây, nên lần này, các nhà khảo  
cổ đã phát hiện được rất nhiều hiện vật điêu  
khắc đá, trong đó có hàng chục tượng người  
chim. Tuy số lượng thêm nhiều, nhưng,  
nhìn chung các tượng mới được phát hiện,  
về cơ bản, đều giống với hai tượng người  
chim trước đây cả về kích thước, hình dáng,  
cấu trúc và các họa tiết trang sức trên đầu  
tóc và y phục. Thế nhưng, do có số lượng  
nhiều, nên, qua các tượng được phát hiện  
mới lần này, chúng ta biết thêm được những  
nhạc cụ và đồ vật mà các người chim ở Phật  
Tích cầm trước ngực. Với những phát hiện  
mới năm 2008, ngoài một tượng cầm quyển  
kinh, chúng ta có thể thấy nhiều nhạc cụ  
khác nhau trong tay các người chim: khèn,  
ống sinh, trống cơm, nhị hồ, trống đế, đàn tì  
bà, tiêu và sáo(3).  
Mt stượng người chim phát hin năm 2008  
4
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
Những phát hiện mới năm 2008 đã  
khác hẳn những kiểu người chim trong các  
phong cách nghệ thuật cổ của cả khu vực  
phía nam châu Á, như Ấn Độ, Sri Lanka,  
và Đông Nam Á. Không xuất hiện trên  
điêu khắc là những thiên thần dâng hoa  
hoặc chơi nhạc ở hai bên các biểu trưng  
của Phật như Stupa (bảo tháp), Bodhi-  
Drumas (cây Bồ Đề), Dharmacakras  
(Pháp luân) như thường thấy trong nghệ  
thuật Ấn Độ; không được thể hiện thành  
cặp đôi vợ chồng (kinnara và kinnari)  
đứng canh hai bên cây đời (Kalpataru)  
như trên các phù điêu đá đền Prambanan  
thế kỷ IX ở đảo Java (Indonesia); không  
mô tả câu chuyện tình ly kì giữa cô gái  
người chim Manohara với chàng hoàng tử  
Suddana bằng điêu khắc như ở ngôi tháp  
Phật giáo vĩ đại Borobudu thế kỷ IX ở  
đảo Java (Indonesia) và trên các bức tranh  
tường Phật giáo ở các ngôi chùa của Thái  
Lan, Lào, Campuchia và Mianma...(4),  
các tượng người chim của Phật Tích đều  
là những hình nhạc công được tạc thành  
pho tượng độc lập đứng thẳng trên chiếc  
bệ vuông liền khối bên dưới. Không chỉ  
không phải là những hình phù điêu hay  
tranh vẽ cũng như không phải là các đầu  
đao đỡ mái như trong các nền nghệ thuật  
cổ của các nước phía nam châu Á, mà  
người chim Phật Tích còn đều là các  
tượng tròn được tạc rời với kích thước,  
hình dáng và cấu trúc giống nhau, kiểu  
như theo một mô hình hay mô típ chung,  
rồi mới đem đặt lên trên đỉnh các cột hay  
diềm mái bao quanh để trang trí cho phần  
trên các tầng (các tượng ở các tầng trên  
có kích thước nhỏ hơn) của một kiến trúc  
(có thể là một tháp vuông nhiều tầng)  
Phật giáo.  
càng thêm khẳng định cho một kiểu dáng,  
thậm chí, theo chúng tôi, một phong cách  
tượng người chim của nền mỹ thuật cổ Việt  
Nam. Chúng tôi cho rằng, hoàn toàn có cơ  
sở để đặt tên cho phong cách nghệ thuật  
tượng người chim này của nghệ thuật cổ  
Việt Nam là phong cách Phật Tích. Mặc  
dầu số lượng đã được phát hiện lên đến  
con số hàng chục, nhưng có thể xác định  
được những nét đặc trưng sau đây của các  
tượng người chim Phật Tích: 1. Những  
người chim Phật Tích là những nhạc công  
đang cùng đứng bên nhau xung quanh  
bốn mặt ngoài ngôi tháp Phật để tấu nhạc  
ngợi ca Phật, Pháp, chứ không phải là các  
cặp đôi người chim (kinnara và Kinnari)  
thường được kể trong các truyền thuyết  
Phật giáo; 2. Tượng đứng thẳng trên đế  
vuông thót đáy liền khối với tượng, đuôi  
uốn cong hất lên cao ở phía sau, đôi cánh  
mở rộng dựng đứng áp sát thân, cả thân  
người nhô mạnh ra phía trước, hai tay đưa  
ra ôm hoặc cầm một nhạc cụ, đầu ngẩng  
cao và nhìn thẳng ra phía trước; 3. Thân  
mình căng tròn, khuôn mặt bầu phúc hậu  
với đôi mắt xếch nhỏ, cặp lông mày cao  
thanh tú (ở một số tượng, có nét trông  
như hình chim én), sống mũi cao, chiếc  
miệng nhỏ với cặp môi mọng cong duyên  
dáng, tóc vấn ngược thành một búi tròn to  
trên đỉnh đầu; 4. Những hình hoa tròn nhỏ  
nhiều cánh được cài trên búi tóc, được kết  
thành dải trên trán để giữ mái tóc và được  
xâu thành chuỗi đeo trên cổ... Không chỉ  
tạo ra cả một phong cách, mà, theo chúng  
tôi, phong cách nghệ thuật tượng người  
chim của Phật Tích nói riêng và cả nghệ  
thuật thời Lý nói chung cũng rất riêng và  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
5
Kinnara Prambanan (Indonesia). Dvaravati (Thái Lan) và Chămpa, (Vit Nam)  
Từ năm 1944, khi chỉ mới phát hiện  
có một hiện vật, nhà nghiên cứu nghệ thuật  
cổ Việt Nam người Pháp Louis Bezacier  
đã nhận thấy ngay. Như chúng tôi đã trích  
dẫn, theo L.Bezacier, ba hình tượng điêu  
khắc được phát hiện tại Phật Tích là Hộ  
pháp (Lokapala), người chim (Kinnari)  
và Kim cương (Vajrapala) đã cho thấy,  
không chỉ có ảnh hưởng Trung Quốc thời  
Đường, mà còn có cả ảnh hưởng Ấn Độ.  
Tuy không rõ những ảnh hưởng này đã  
được đưa tới miền bắc Việt Nam bằng con  
đường nào, song Louis Bezacier cho rằng  
miền Trung Á là một chặng đường không  
phải là kém quan trọng. Cũng theo Louis  
Bezacier, một đặc điểm có thể nói là chủ  
yếu thấy trên các hình tượng điêu khắc  
này là những hình hoa nhỏ có năm, sáu,  
bảy hay tám cánh chạm rải rác trên hình  
tượng. Riêng ở người chim, cũng những  
hình hoa đó, nhưng to hơn, được làm  
trang sức trên búi tóc và được kết thành  
dải hoa để giữ lấy tóc phía trên trán. Louis  
Bezacier cho rằng kiểu trang sức hoa như  
của các người chim Phật Tích là đặc điểm  
nhận thấy trên nhiều hình tượng điêu khắc  
và hội họa của miền Trung Á. Rất tiếc là,  
nhà nghiên cứu người Pháp lại chỉ dừng  
lại ở một nhận định khá là chung chung.  
Mặc dầu vậy, theo chúng tôi, đây là một  
cảm nhận, có thể nói là rất chuyên môn và  
rất quan trọng để nghiên cứu. Thế nhưng,  
vì nhiều lý do, các nhà nghiên cứu Việt  
Nam sau này lại không để ý đến gợi ý của  
Louis Bezacier, mà có xu hướng đi tìm  
mối quan hệ và sự ảnh hưởng của nghệ  
thuật Chămpa trong các tượng người chim  
thời Lý.  
Giờ đây, trên cơ sở phân tích một  
loạt các tượng với một số lượng khá  
nhiều, chúng tôi nhận thấy cảm nhận của  
Louis Bezacier về ảnh hưởng Trung Á đến  
tượng người chim Phật Tích là có cơ sở.  
Theo tôi, không chỉ các hình hoa trang trí,  
mà một số chi tiết tạo hình khác trên tượng  
người chim Phật Tích là chịu ảnh hưởng  
của Trung Á, mà cụ thể là của nền nghệ  
thuật Phật giáo của vương quốc Phật giáo  
Khotan (người Trung Quốc gọi là Nguyệt  
Chi hay Nhục Chi) tồn tại từ đầu công  
nguyên đến thế kỷ XI tại lòng chảo Tarim ở  
Trung Á (nay thuộc Tân Cương, Cam Túc,  
Trung Quốc. Vào giữa thế kỷ VII, Vương  
quốc Nguyệt Chi bị nhà Đường thôn tính.  
Trong những thế kỷ thuộc Đường, nghệ  
thuật Phật giáo Khotan đã để lại nhiều di  
sản quan trong và nổi tiếng như các tác  
phẩm điêu khắc, các bích họa ở Kucha và  
6
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
chùa hang Kizil. Như các nhà nghiên cứu  
đã nhận thấy, nghệ thuật Phật giáo Khotan  
là sự kết hợp hài hòa của nghệ thuật Phật  
giáo Trung Á thời Kushan và nghệ thuật  
Trung Hoa thời Đường. Trên các hình điêu  
khắc và đặc biệt là trên các bích họa (ở  
Kizil) của nghệ thuật Khotan, những hình  
hoa nhỏ, như ở tượng người chim Phật  
Tích, luôn xuất hiện làm các trang trí trên  
đầu tóc, quần áo của các nhân vật khác  
nhau. Ngoài ra, trong nghệ thuật Khotan,  
ở các hình người, chiếc mũi được thể hiện  
nhọn hơn, đôi mắt được thể hiện xếch  
nhiều hơn so với lệ thường ở nền hội họa  
Ấn Độ. Cũng theo các nhà nghiên cứu, đôi  
mắt nhỏ, cái miệng bé cặp lông mày cao  
hình chim én cũng là những nét đặc trưng  
của nghệ thuật Nguyệt Chi. Ngoài ra, theo  
quan sát của chúng tôi, phần thùy tai (dái  
tai) lớn kéo dài tới tận vai và được thể hiện  
gần như độc lập với tai ở các tượng người  
chim Phật Tích rất giống thùy tai của một  
số nhân vật quan trọng nhất của Phật giáo  
như Đức Phật, Mahakashyapa (Đại Ca  
Diếp) trên tranh tường chùa hang Kizil(5).  
Nếu đẩy xa hơn nữa đến thời Kushan,  
chúng tôi còn nhận thấy hình dáng, cấu  
trúc, chức năng và các nhạc cụ của những  
tượng người chim Phật Tích có nhiều nét  
gần với năm tượng nhạc công thế kỷ II-  
III ở khu di tích Phật giáo Airtam (nước  
Cộng hòa Uzbekistan) đang cùng hòa tấu  
năm âm thanh linh thiêng của nhà Phật  
(panchamahashabda)(6).  
Btát Kucha (Bo tàng Guimet), Bích ha Kizil và nhc công Airtam  
3. Kết luận  
những ảnh hưởng của nghệ thuật Phật  
giáo Khotan đã góp phần tạo nên một  
phong cách tượng người chim rất đặc biệt  
của Phật Tích nói riêng và của thời nhà Lý  
nói chung./.  
Như vậy, một lần nữa có thể khẳng  
định, những cảm nhận của Louis Bezacier  
về những ảnh hưởng của nghệ thuật Trung  
Quốc thời Đường và của Ấn Độ vùng  
Trung Á trên hình tượng người chim Phật  
Tích là có cơ sở. Thế nhưng, chúng tôi  
muốn nhấn mạnh thêm là hai ảnh hưởng  
trên không phải đi từ hai hướng Ấn Độ  
và Trung Hoa, mà là từ một nơi, từ nền  
nghệ thuật Phật giáo Khotan, đã đến miền  
bắc Việt Nam. Và, theo chúng tôi, chính  
Tài liu tham kho:  
[1]. Louis Bezacier, Essais sur l’art Annamite,  
Hanoi, 1944, tr. 218-219  
[2]. Chu Quang Trứ, Tượng cổ Việt Nam  
với truyền thống điêu khắc dân tộc, Nxb.Mỹ  
thuật, Hà Nội, 2001, tr.69-72.  
Nghiên cu trao đi Research-Exchange of opinion  
7
[3]. Thích Đức Thiện, Phật Tích - di sản văn  
hóa Phật giáo, Nxb.Văn hóa- Thông tin, Hà  
Nội, 2014, các hình minh họa từ 44 đến 54.  
Huân, Nxb. Mỹ thuật, Hà Nội, 2007, tr.174-  
179, hình 195,196.  
[6]. B.A.Staviski, Nghệ thuật Trung Á thời  
cổ đại (TK.VI trước CN - TK VIII CN), Nxb.  
Mỹ thuật, Matxcơva, 1974 (tiếng Nga), tr.93,  
h.67-71.  
[4]. Có thể tham khảo: Sherman E.Lee, A  
History of Far Eastern Art, New York, 1964.  
Vittorio Roveda, Images of the Gods - Khmer  
Mythology in Cambodia, Laos & Thailand,  
River Books, Bangkok, 2005.  
Địa chtác gi: Vin Hàn Lâm khoa hc xã  
hi Vit Nam  
[5]. E.Lee, A History of Far Eastern Art, New  
York, 1964 (bản dịch tiếng Việt của Trần Văn  
Email: doanhngovan@gmail.com  
pdf 7 trang yennguyen 22/04/2022 620
Bạn đang xem tài liệu "Phong cách tượng người chim chùa Phật Tích", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfphong_cach_tuong_nguoi_chim_chua_phat_tich.pdf