Luận văn Đạo đức môi trường ở sinh viên trường Đại học Hải Dương hiện nay: Thực trạng và những vấn đề

VIỆN HÀN LÂM KHOA HC XÃ HỘI VIỆT NAM  
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI  
VŨ THỊ CÚC  
ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở SINH VIÊN  
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG HIỆN NAY:  
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ  
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HC  
HÀ NI, 2018  
VIỆN HÀN LÂM KHOA HC XÃ HỘI VIỆT NAM  
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI  
VŨ THỊ CÚC  
ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG Ở SINH VIÊN  
TRƢỜNG ĐẠI HỌC HẢI DƢƠNG HIỆN NAY:  
THỰC TRẠNG VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ  
Ngành: Triết học  
Mã số: 82 29 001  
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HC  
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC  
GS.TS. HỒ SĨ QUÝ  
HÀ NI, 2018  
LỜI CAM ĐOAN  
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa hc ca riêng tôi. Các số  
liu ghi trong luận văn là trung thực. Nhng kết lun khoa hc ca luận văn chưa  
từng được công btrong bt kcông trình nào khác.  
Tác giả luận văn  
Vũ Thị Cúc  
MỤC LỤC  
MỞ ĐẦU  
1. Tính cấp thiết của đề tài  
Việt Nam là một đất nước đang phát triển mạnh với thành tựu kinh tế - xã hội  
được cộng đồng thế giới đánh giá cao. Những năm gần đây cùng với sự tăng trưởng  
cao của nền kinh tế, sự phát triển nhanh chóng của đời sống xã hội cũng đã ít nhiều  
để lại những hệ lụy về bảo vệ môi trường. Ô nhiễm môi trường chất thải, kể cả chất  
thải khí, chất thải rắn, và chất thải hóa chất đều đã xảy ra. Tai nạn và sự cố môi  
trường ở một số địa phương đã trở thành hiểm họa đe dọa sự phát triển. Rác thải công  
nghiệp thế hệ cũ đã tràn vào Việt Nam. Môi trường thực phẩm cũng trở nên không an  
toàn…Trên thực tế, ô nhiễm môi trường đã và đang là vấn đề báo động ở Việt Nam.  
Vấn đề đặt ra là phải làm sao để ngăn chặn vấn nạn đó? Câu hỏi này đặt ra  
không chỉ đối với sự quản lý vĩ mô của chính phủ, mà còn đặt ra đối với hoạt động  
của các ngành các cấp, với thái độ và hành vi của toàn thể cộng đồng. Đặc biệt, câu  
hỏi đặt ra không chỉ về phương diện kinh tế - xã hội hay pháp luật, mà còn đặt ra về  
phương diện văn hóa và đạo đức. Đạo đức môi trường ngày nay là giá trị tinh thần  
không thể thiếu để các xã hội phát triển bền vững.  
Thế hệ trẻ nước ta chiếm tỉ lệ khoảng 27% dân số và đây cũng chính là những  
chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ góp phần thúc đẩy đất nước phát  
triển theo hướng hiện đại hóa, công nghiệp hóa. Để thúc đẩy được đất nước phát triển  
thì một điều không thể thiếu là cần ngăn không cho môi trường tiếp tục bị ô nhiễm,  
giải quyết được vấn nạn ô nhiễm môi trường. Điều này ở một mức độ lớn, phụ thuộc  
vào ý thức, văn hóa và đạo đức của cộng đồng cũng như của mỗi người thông qua  
hành động của họ với việc bảo vệ môi trường.  
Nói đến thế hệ trẻ, cần thiết phải chú ý đến lớp người rất có ý nghĩa đối với sự  
phát triển đất nước là những bạn trẻ còn đang ngồi trên ghế nhà trường, những sinh  
viên đầy nhiệt huyết, đang mang trong mình những ước mơ, những hoài bão lớn. Đây  
cũng là lực lượng có ý nghĩa lớn trong việc góp phần giải quyết ô nhiễm môi trường  
hiện nay. Nghĩa là đạo đức môi trường ở lớp người trẻ tuổi đang là diều được xã hội  
1
 
kỳ vọng. Trên thực tế, việc xây dựng đạo đức môi trường cho từng sinh viên, biến ý  
thức thân thiện với tự nhiên thành hành động để bảo vệ môi trường, những năm qua  
đã đến được với tầng lớp sinh viên và bước đầu đã có kết quả tương đối tích cực.  
Hải Dương là một tỉnh thuộc vùng kinh tế trọng điểm đồng bằng Bắc Bộ,  
được biết là vùng đất ít nhiều có tiếng về tinh thần hiếu học, tôn sư trọng đạo. Vùng  
đất này đã sinh ra và nuôi dưỡng nhiều bậc hiền tài cho đất nước. Hải Dương hiện có  
3 trường đại học là Đại học Sao Đỏ, Đại học Thành Đông và Đại học Hải Dương  
cùng một số trường cao đẳng và trung cấp.  
Trường Đại học Hải Dương là trường đại học công lập duy nhất của tỉnh Hải  
Dương. Sinh viên của trường được chiêu sinh từ các tỉnh Thái Bình, Quảng Ninh,  
Bắc Giang và một số tỉnh miền núi phía Bắc. Thực ra, ý thức và hành vi đạo đức môi  
trường ở sinh viên Hải Dương có được là từ nhiều kênh khác nhau; ít nhiều cũng  
không tự giác. Do vậy, bên cạnh những sinh viên có ý thức bảo vệ môi trường thì vẫn  
còn không ít những em chưa có thực sự có ý thức, thái độ và hành vi bảo vệ môi  
trường.  
Để góp phần bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm môi trường nói chung, ở  
môi trường tỉnh Hải Dương và Đại học Hải Dương nói riêng, thì việc nghiên cứu về  
thực trạng đạo đức môi trườngcủa sinh viên Trường Đại học Hải Dương, đánh giá  
thực trạng và tìm các giải pháp phát huy đạo đức môi trường ở mỗi sinh viên là việc  
làm vô cùng có ý nghĩa.  
Với những lý do nêu trên tôi chọn đề tài: “Đạo đức môi trường ở sinh viên  
Trường Đại học Hải Dương hiện nay: Thực trạng và những vấn đề” là đề tài nghiên  
cứu luận văn của mình.  
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài  
Môi trường là hệ vấn đề đã được khá nhiều tác giả nghiên cứu, tìm hiểu và đề  
cập tới bởi tính cần thiết và cấp bách ngày càng nghiêm trọng của nó. Đã có nhiều  
công trình nghiên cứu đi vào cả chiều sâu và chiều rộng của vấn đề, đi từ chuyên  
ngành đến đa ngành và liên ngành với nhau. Trong đó, từ góc độ khoa học xã hội  
2
nhân văn và từ chuyên ngành triết học, chúng tôi thấy có một số công trình nghiên  
cứu đáng chú ý sau đây:  
Trước tiên cần phải nhắc đến: “Báo cáo môi trường quốc gia”. Đây là những  
báo cáo hàng năm về vấn đề môi trường do Bộ tài nguyên và Môi trường thực hiện.  
Từ báo cáo môi trường quốc gia năm 2016 với chủ đề là môi trường đô thị cho biết  
tình trạng ô nhiễm môi trường ở các khu đô thị của Việt Nam đang diễn ra rất phức  
tạp với sự ô nhiễm tiêu biểu hàng đầu là hoạt động của ngành giao thông vận tải,  
ngành xây dựng, ngành công nghiệp... gây ra.Ô nhiễm môi trường không khí, chủ  
yếu là bụi gây ảnh hưởng trực tiếp và nghiêm trọng đến sức khỏe của người dân sinh  
sống tại chính khu đô thị đó. Đặc biệt là trẻ em với sức đề kháng còn yếu. Bên cạnh ô  
nhiễm không khí là ô nhiễm môi trường nước do việc xử lý nước thải chưa đúng quy  
định và do việc vứt rác thải xuống sông, hồ ven khu đô thị gây nên tình trạng bốc mùi  
hôi thối, nước sông hồ chuyển màu đen làm ảnh hưởng tới đời sống sinh hoạt của  
người dân và làm xấu đi hình ảnh đẹp của khu đô thị. Ngoài ra còn ô nhiễm do chất  
thải rắn gây ra, đó là hiện tượng thu gom và vận chuyển rác thải chưa nhanh chóng và  
kịp thời làm bốc mùi hôi thối và mất mỹ quan đô thị. Cuối cùng là ô nhiễm môi  
trường đất do nước thải chưa qua xử lý hoặc xử lý chưa đúng theo quy định, các bãi  
chôn lấp rác thải gây ra...  
Báo cáo môi trường quốc gia năm 2017 với nội dung chính đề cập tới là quản  
lý chất thải. Theo báo cáo vấn đề quản lý chất thải còn nhiều bất cập, chỉ tính về nước  
thải mới giải quyết được trên 10% tổng lượng nước thải, còn lại vẫn thải ra môi  
trường chưa qua xử lý hoặc chỉ mới xử lý ở mức độ đơn giản. Qua đây có thể thấy,  
môi trường đang bị ô nhiễm rất nghiêm trọng. Những việc làm đó đã góp phần làm  
cho nguồn nước, nguồn đất, không khí ngày càng ô nhiễm hơn. Chất thải rắn cũng là  
vấn đề đau đầu với các cơ quan quản lý bởi khối lượng lớn. Từ đó, kéo theo hệ lụy là  
hiện tượng biến đổi khí hậu đang diễn ra phức tạp, hiện tượng nước biển dâng và xâm  
nhập mặn đang đe dọa những khu đô thị, những tỉnh và thành phố ven biển...  
3
Bên cạnh các báo cáo của các tổ chức chính trị - xã hội về bảo vệ môi trường,  
các tác giả khác với các bài viết đã công bố khá nhiều và đề cập rất chi tiết đến vấn đề  
đạo đức môi trường, bảo vệ môi trường, giáo dục bảo vệ môi trường như: Nguyễn  
Thị Lan Hương[19],“Đạo đức môi trường và truyền thống mục đích luận”, Tạp chí  
Triết học số 12; Nguyễn Văn Phúc[30], “Bảo vệ môi trường nhìn từ góc độ đạo  
đức, Tạp chí triết học số 4; Phạm Thị Ngọc Trầm, “Vấn đề xây dựng đạo đức sinh  
thái trong điều kiện kinh tế thị trường”, Triết học, số 3/2002; Phạm Thị Ngọc Trầm  
(Chủ biên), Quản lý nhà nước đối với tài nguyên và môi trường vì sựphát triển bền  
vững dưới góc nhìn xã hội – nhân văn[48], Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006; Hồ  
Sỹ Quý[36], “Về đạo đức môi trường”, Triết học, số 9/2005; Hồ Sĩ Quý (Chủ biên)  
(2000)[32], Mối quan hệ giữa con người và tự nhiên trong sự phát triển xã hội, Nxb.  
Khoa học xã hội, Hà Nội; Lê Văn Khoa[23] (chủ biên), Môi trường và giáo dục bảo  
vệ môi trường, Nxb Giáo dục Việt Nam, 2008; Hội thảo quốc gia“Giáo dục môi  
trường trong các trường học”, Trung tâm nghiên cứu Tài nguyên và Môi trường  
cùng Đại học quốc gia Hà Nội phối hợp thực hiện...  
Những công trình nêu trên đều khẳng định, môi trường có vai trò quan trọng  
như thế nào với cuộc sống thường ngày của mỗi người dân, chính vì vậy mà nhiệm  
vụ bảo vệ môi trường, phòng chống ô nhiễm môi trường đang vô cùng cấp bách. Để  
bảo vệ môi trường đạt kết quả tốt thì không thể thiếu được việc giáo dục ý thức, trách  
nhiệm và đạo đức môi trường đến từng thành viên trong xã hội từ trẻ đến già, không  
phân biệt tuổi tác, trình độ. Vì đạo đức môi trường được thể hiện ở tất cả các phương  
diện của xã hội từ sản xuất, du lịch, giải trí, học tập đến sinh hoạt hàng ngày của con  
người. Hiện nay ô nhiễm môi trường không chỉ tập trung ở thành phố, các khu đô thị,  
công nghiệp mà đã len lỏi về tận thôn quê và trường học. Điều đó đòi hỏi càng phải  
đẩy nhanh giáo dục đạo đức môi trường cho từng người dân. Các công trình nghiên  
cứu trên đã nhấn mạnh đến thực trạng môi trường hiện nay, các vấn đề cần giải quyết  
và đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường để bảo vệ môi trường  
4
đang bị suy thoái. Các giải pháp đó thể hiện ở tầm quốc gia và được thực hiện trên  
phạm vi cả nước với tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.  
Trong số những nghiên cứu có liên quan đến đạo đức môi trường, chúng tôi  
thấy một số công trình ít nhiều có nghiên cứu sâu hơn, hệ thống hơn về đạo đức môi  
trường như: Vũ Dũng, “Đạo đức môi trường ở nước ta: lí luận và thực tiễn”, Nxb.  
Từ điển bách khoa, Hà Nội 2010; Dự án điều tra cơ bản “Đánh giá đạo đức môi  
trườngở nước ta hiện nay”, do Viện Khoa học xã hội Việt Nam thực hiện (2009 –  
2010); Nguyễn Văn Phúc, “Đạo đức môi trường”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội  
2013; “Xây dựng đạo đức môi trường ở Việt Nam hiện nay”, Luận án tiến sĩ Triết  
học của Hoàng Thị Thanh chuyên ngành Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa  
duy vật lịch sử, Hà Nội, 2017. Đây là những công trình đề cập đến cả mặt lý luận và  
nhận thức về đạo đức môi trường với những khái niệm cụ thể và chi tiết bao gồm:  
khái niệm môi trường, đạo đức, đạo đức môi trường và các tiêu chí để đánh giá đạo  
đức môi trường... Ví dụ: Các tiêu chí để đánh giá đạo đức môi trường thể hiện như  
sau: Đạo đức môi trường là những hành vi mang tính chuẩn mực (thông qua các văn  
bản pháp luật, các quy định, nghị định hiện hành của Đảng và Nhà nước về môi  
trường); Ý thức về nghĩa vụ của con người đối với việc bảo vệ môi trường; Ý thức tự  
giác, tự nguyện của chủ thể đối với việc bảo vệ môi trường; Sự tác động của lương  
tâm chủ thể đối với việc bảo vệ môi trường; Việc bảo vệ môi trường gắn với việc hài  
hào về lợi ích giữa con người và tự nhiên; Chia sẻ trách nhiệm để duy trì sự toàn vẹn  
của môi trường toàn cầu...  
Nhiều tác giả cũng đã tập trung phân tích thực trạng đạo đức môi trường đang  
diễn ra hiện nay và những vấn đề cần giải quyết để từ đó đưa ra các giải pháp cụ thể  
để khắc phục những hạn chế còn tồn tại. Tuy nhiên các giải pháp đó mang tầm quốc  
gia, xã hội. Hiện tại chưa có công trình nào nghiên cứu về đạo đức môi trường ở sinh  
viên Trường Đại học Hải Dương: thực trạng và những vẫn đề. Tuy vậy, các công  
trình trên chính là những tiền đề, căn cứ và cơ sở để chúng tôi vận dụng trong nghiên  
cứu nội dung đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương: Thực  
5
trạng và những vẫn đề. Chúng tôi sẽ tập trung đi làm rõ về đạo đức môi trường ở sinh  
viên Trường Đại học Hải Dương đã và đang diễn ra như thế nào? Thực trạng và  
những vấn đề đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương cần được  
giải quyết là gì? Trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp khắc phục những tồn tại hạn  
chế để phát huy những ưu điểm về đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học  
Hải Dương góp phần cho Trường Đại học Hải Dương và quê hương Hải Dương có  
môi trường làm việc, học tập và sinh hoạt xanh – sạch và đẹp hơn.  
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu  
3.1. Mục đích nghiên cứu  
Nghiên cứu thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên Trường Đại học Hải  
Dương hiện nay; đánh giá những nét tích cực và hạn chế của thực trạng đó; trên cơ sở  
đó đề xuất các giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và nâng cao nhận thức, thái  
độ, hành vi đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại học Hải Dương.  
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu  
- Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận vềđạo đức, đạo đức môi trường, đạo đức  
môi trường ở sinh viên làm cơ sở lý luận của đề tài.  
- Nghiên cứu và phân tích thực trạng đạo đức môi trường ở sinh viên đại học  
Hải Dương. Xác định những vấn đề đặt ra.  
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên đại  
học trong học tập và trong cuộc sống.  
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu  
4.1. Đối tượng nghiên cứu  
Đạo đức môi trường (trong luận văn chủ yếu nghiên cứu môi trường tự nhiên)  
ở sinh viên Trường Đại học Hải Dương.  
4.2. Phạm vi nghiên cứu  
- Phạm vi về nội dung: Đề tài tập trung nghiên cứu đạo đức môi trường (luận  
văn chủ yếu nghiên cứu môi trường tự nhiên) ở sinh viên đại học đang học tập tại  
Trường Đại học Hải Dương trong những năm gần đây.  
6
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu  
5.1. Cơ sở lý luận  
Cơ sở lý luận của luận văn là triết học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và  
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, chủ yếu là về quan hệ con người với tự  
nhiên, về môi trường và về đạo đức môi trường.  
Luận văn có sự kế thừa những quan điểm và thành tựu nghiên cứu của các nhà  
khoa học đi trước về môi trường và đạo đức môi trường… trong đời sống xã hội và  
trong quá trình đổi mới ở Việt Nam hơn 30 năm qua.  
5.2. Phương pháp nghiên cứu  
Đề tài kết hợp sử dụng các phương pháp phân tích - tổng hợp; logic - lịch sử;  
hệ thống - cấu trúc, phân tích tài liệu thứ cấp và liên ngành khoa học xã hội .  
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn  
6.1. Ý nghĩa lý luận  
Luận văn góp phần làm rõ lý luận và những vấn đề đạo đức môi trường ở sinh  
viên đại học hiện nay.  
6.2. Ý nghĩa thực tiễn  
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, trong giảng dạy về đạo đức môi  
trường cho sinh viên đại học; luận văn cũng có ý nghĩa khuyến nghị đối với công tác  
xây dựng đạo đức môi trường cho sinh viên Trường Đại học Hải Dương hiện nay.  
7. Kết cấu của luận văn  
Ngoài phần mở đầu và kết luận và danh mc TLTK luận văn còn có 3 chương  
8 tiết.  
Chương 1: Cơ sở lý luận về đạo đức môi trường ở sinh viên đại học  
Chương 2: Thực trạng và những vấn đề về đạo đức môi trường ở sinh viên  
Trường Đại học Hải Dương  
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao đạo đức môi trường ở sinh viên  
Trường Đại học Hải Dương  
7
Chương 1  
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẠO ĐỨC MÔI TRƢỜNG  
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài nghiên cứu  
1.1.1. Đạo đức  
Khái niệm đạo đức  
Đạo đức là một từ Hán Việt dùng để chỉ một thành tố trong tính cách và giá  
trị của một con người, những tư tưởng về đạo đức học đã xuất hiện hơn 26 thế kỷ  
trước đây trong triết học Trung Quốc, Ấn Độ, Hy Lạp cổ đại. Theo nghĩa Hán Việt  
có thể hiểu: đạo là con đường, đức là tính tốt. Khi nói một người có đạo đức tức là  
nói người đó đã có sự rèn luyện thực hành các lời răn dạy về đạo đức, sống có  
chuẩn mực và có nét đẹp trong đời sống và tâm hồn. Hiện nay, đạo đức là một vấn  
đề được nhiều tác giả nghiên cứu, chúng ta có thể thấy đạo đức là một hiện tượng  
xã hội được hình thành trong quá trình lao động sản xuất tạo ra của cải vật chất,  
trong mối quan hệ giữa con người với con người nhằm điều chỉnh hành vi của mình  
để đảm bảo sự hoạt động của cộng đồng nói chung. Đạo đức được hình thành dựa  
trên cơ sở tự giác, tự nguyện không mang tính cưỡng ép, bắt buộc. Chỉ có những  
hành vi được thực hiện trên cơ sở tự giác, tự nguyện và phù hợp với lợi ích xã hội  
mới được coi là hành vi đạo đức.  
Theo Từ điển Tiếng Việt, “đạo đức” là “những tiêu chuẩn, nguyên tắc được  
dư luận xà hội thừa nhận, quy định hành vi, quan hệ của con người đối với nhau và  
đối với xã hội phẩm chất tốt đẹp của con người do tu dưỡng theo những tiêu chuẩn  
nhất định mà có” [39, tr.464].  
Theo Giáo trình đạo đức học của Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh:  
“Đạo đức thuộc hình thái ý thức xã hội, là tập hợp những nguyên tắc, qui tắc nhằm  
điều chỉnh đánh giá cách ứng xử của con người trong quan hệ với nhau, với xã  
hội, với tự nhiên trong hiện tại hoặc quá khứ cũng như tương lai. Chúng được thực  
hiện bởi niềm tin cá nhân, bởi truyền thống và sức mạnh của dư luận xã hội.” [17,  
tr.116].  
8
     
Như vậy có thể hiểu đạo đức theo các khía cạnh sau:  
Đạo đức là một hình thái ý thức xã hội, trong đó tập hợp những qui tắc,  
chuẩn mực xã hội và từ những quy tắc, chuẩn mực đó con người sẽ tự giác điều  
chỉnh hành vi của bản thân mình để phù hợp với lợi ích và hạnh phúc của con  
người, với tiến bộ xã hội.  
Đạo đức là hệ thống những qui tắc, nguyên tắc, chuẩn mực thể hiện sự tự  
giác của con người trong mối quan hệ giữa con người với con người, con người với  
cộng đồng xã hội, con người với tự nhiên và con người với chính bản thân mình.  
Cu trúc của đạo đức  
Với tư cách là một bộ phận của triết học, đạo đức là một hiện tượng xã hội  
có cấu trúc phức tạp, gồm các thành phần sau: ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và  
quan hệ đạo đức.  
Ý thức đạo đức: hệ thống những quan niệm, nguyên tắc, tri thức và những  
cảm xúc, tình cảm chung của các cộng đồng người về các giá trị thiện, ác, lương  
tâm, trách nhiệm, hạnh phúc và công bằng… Mặt khác nó còn bao gồm cả những  
quy tắc đánh giá, điều chỉnh hành vi ứng xử giữa cá nhân với xã hội, giữa cá nhân  
với cá nhân trong xã hội.  
Hành vi đạo đức: Là một hành động được thực hiện một cách tự giác, tự  
nguyện và được xuất phát bởi một động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức. Hay có thể  
hiểu hành vi đạo đức là những cử chỉ, hành động và việc làm của con người trong  
các mối quan hệ xã hội mà phù hợp với các chuẩn mực đạo đức.  
Quan hệ đạo đức: Là tổng hợp những quan hệ xã hội, tác động qua lại với  
nhau, đó là quan hệ giữa người với người, giữa cá nhân và xã hội xét về mặt đạo  
đức. Quan hệ đạo đức có tính tự giác và tự nguyện, nó vận động, biến đổi theo quá  
trình phát triển của xã hội, trong phạm vi một hình thái kinh tế - xã hội hay hệ giá trị  
đạo đức của một giai cấp cũng có sự vận động, phát triển.  
Ý thức đạo đức, quan hệ đạo đức và hành vi đạo đức là những yếu tố tạo nên  
cấu trúc của đạo đức, chúng không tồn tại độc lập, mà có quan hệ biện chứng tác  
9
động qua lại với nhau. Cấu trúc đạo đức không thể thiếu một tỏng ba yếu tố này. Ý  
thức đạo đức được hình thành trong quan hệ đạo đức và là điều kiện để hình thành  
hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức và  
không thể tách rời quan hệ đạo đức.  
Chức năng của đạo đức  
Tương tự như cấu trúc của đạo đức, chức năng của đạo đức cũng có ba chức  
năng bao gồm: chức năng điều chỉnh hành vi, chức năng giáo dục và chức năng  
nhận thức.  
Chức năng điều chỉnh hành vi: Đây được coi là chức năng quan trọng nhất  
của đạo đức, mặc dù là chức năng quan trọng nhất nhưng đó không phải là cái đặc  
quyền của đạo đức, bởi vì trong xã hội, con người tạo ra rất nhiều phương thức điều  
chỉnh hành vi của mình như: pháp luật, tôn giáo, chính trị, nghệ thuật, nhận thức  
khoa học...Chức năng này nhằm bảo đảm hài hòa quan hệ lợi ích cộng đồng và cá  
nhân. Nếu như sức mạnh của pháp luật là sự cưỡng chế, bắt buộc phải thực hiện thì  
sức mạnh của đạo đức chính là niềm tin cá nhân, là truyền thống và dư luận xã hội.  
Chức năng điều chỉnh hành vi của đạo đức được thực hiện bằng hai phương  
thức chủ yếu như sau: Thứ nhất là xã hội tạo ra sức mạnh dư luận để khen ngợi,  
động viên những người có đạo đức và có những hành vi tốt đẹp. Đồng thời cũng lên  
án, phê phán những hành vi gây ảnh hưởng xấu đến mọi người xung quanh và đến  
cộng đồng xã hội. Thứ hai là bản thân mỗi người phải tự giác, xuất phát từ chính ý  
thức của mình để điều chỉnh hành vi thông qua những chuẩn mực đạo đức xã hội và  
bản thân cũng phải tham gia các hoạt động thực tiễn để bổ sung nhận thức, rèn  
luyện ý chí.  
Chức năng giáo dục: Đây cũng là một trong những chức năng cơ bản của  
đạo đức, chức năng này có tác dụng hình thành những nguyên tắc, quy tắc và  
chuẩn mực đạo đức trong từng con người cụ thể và phát triển nhân cách của họ.  
Đây cũng là con đường đặc trưng cơ bản để loài người tồn tại và phát triển. Có  
thể hiểu, chức năng giáo dục của đạo đức chính là làm cho “tính người” ở mỗi  
10  
người được nhiều lên để ngày càng có nhiều hành động đẹp cho những người khác  
học tập và noi theo.  
Về thực chất chức năng này là đạo đức hóa con người và xã hội loài người.  
Hiệu quả của chức năng này phụ thuộc vào những điều kiện kinh tế, xã hội, vào  
mức độ tự giác của mỗi người trong quá trình giáo dục đạo đức để hướng tới nhân  
cách và phẩm chất cần có.  
Chức năng nhận thức: Ngoài hai chức năng nêu trên, đạo đức còn có chức  
năng nhận thức. Chức năng này bao gồm: nhận thức và tự nhận thức. Nhận thức của  
đạo đức là một quá trình vừa có hướng nội, vừa có hướng ngoại. Nhận thức hướng  
nội lấy bản thân chủ thể đạo đức làm đối tượng để nhận thức. Đây là quá trình chủ  
thể đạo đức tự đánh giá bản thân, tự đối chiếu nhận thức cũng như những hành vi  
của mình với chuẩn mực đạo đức xem đã phù hợp chưa? Nhận thức hướng ngoại là  
lấy chuẩn mực đạo đức làm đối tượng để nhận thức. Trên cơ sở đó, chủ thể nhận  
thức làm gia tăng thêm tính hướng nội của mình. Còn tự nhận thức là quá trình bản  
thân tự thẩm định, tự đánh giá những nhận thức, hành vi đạo đức của mình với  
chuẩn mực giá trị chung của cộng đồng, xã hội. Từ hai quá trình nhận thức trên con  
người sẽ đi đến phân biệt những giá trị như: đúng - sai, tốt - xấu, thiện - ác... và  
hướng tới giá trị bao quátmà con người muốn vươn tới là chân, thiện, mỹ.  
Các chức năng của đạo đức đều có một vai trò nhất định, nhưng không phải  
vì thế mà chúng tách rời nhau, không có ràng buộc với nhau mà ngược lại chúng  
đều có quan hệ chặt chẽ với nhau, sự vận hành của chức năng này là tiền đề, điều  
kiện của sự vận hành chức năng đạo đức khác. Hơn nữa chúng đều hướng tới một  
mục đích chung của xã hội đó là nhân đạo hóa con người và xã hội loài người.  
1.1.2. Môi trường  
Khái niệm môi trường  
Môi trường là khái niệm rộng, bao quát nhiều nội dung và được sử dụng  
trong rất nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, giáo dục.... theo định nghĩa thông  
thường thì môi trường được hiểu: “là toàn bộ nói chung những điều kiện tự nhiên  
11  
và xã hội trong đó con người hay một sinh vật tồn tại, phát triển trong mối quan hệ  
với con người hay sinh vật y. [39, tr.618].  
Về mặt pháp lý, theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường được Quốc hội nước  
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XIII, kì họp thứ 7 thông qua ngày  
23/6/2014 thì môi trường được định nghĩa là: "hệ thống các yếu tố vật chất tự nhiên  
và nhân tạo có tác động đối với sự tồn tại và phát triển của con người và sinh vật”.  
Từ cách định nghĩa này của Luật Bảo vệ môi trường có thể hiểu môi trường là tập  
hợp tất cả các yếu tố tự nhiên và nhân tạo bao quanh con người và nó có ảnh hưởng  
lớn tới các hoạt động sống của con người như: sinh hoạt, sản xuất, học tập... Nghĩa  
là có thể thấy, con người chính là trung tâm của mối quan hệ giữa con người với tự  
nhiên. Thành phần của môi trường theo Điều 1 của Luật này bao gồm: "yếu tố  
vật chất tạo thành môi trường gồm đất, nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh  
vật và các hình thái vật chất khác".  
Hiện nay có hai cách hiểu đơn giản về môi trường, đó là hiểu theo nghĩa  
rộng và hiểu theo nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng, môi trường bao gồm tất cả các nhân  
tố tự nhiên và xã hội cần thiết cho hoạt động sinh hoạt, lao động, sản xuất của con  
người như: nước, không khí, đất, ánh sáng... Theo nghĩa hẹp, không xét tới tài  
nguyên thiên nhiên môi trường chỉ bao gồm các nhân tố tự nhiên và xã hội tác động  
trực tiếp tới chất lượng cuộc sống con người. Ví dụ: môi trường của giảng viên bao  
gồm nhà trường với sinh viên, đồng nghiệp, nội quy của trường, lớp học, phòng làm  
việc, tổ chức xã hội như Đảng, Đoàn với các điều lệ hay gia đình, họ tộc với những  
quy định chỉ truyền miệng nhưng vẫn được công nhận, thi hành và các cơ quan  
hành chính các cấp với luật pháp, nghị định, thông tư...  
Nếu chia theo chức năng có thể chia môi trường sống của con người như sau:  
Một là môi trường tự nhiên bao gồm ánh sáng mặt trời, núi sông, biển cả,  
không khí, động, thực vật, đất, nước... chúng tồn tại bên ngoài ý muốn của con  
người, nhưng không phải như vậy mà không chịu sự tác động của con người mà  
ngược lại chúng vẫn chịu ít nhiều chịu tác động.  
12  
Hai là môi trường xã hội đó là tổng thể các quan hệ giữa người với người  
bao gồm: luật lệ, thể chế, cam kết, quy định, ước định... ở các cấp khác nhau  
như: quốc gia, tỉnh, huyện, cơ quan, làng xã, họ tộc, gia đình, tổ chức đoàn thể...  
Môi trường xã hội giúp cho hoạt động của con người được đi theo một khuôn  
khổ nhất định, từ đó dần dần hình thành sức mạnh tập thể to lớn tạo thuận lợi  
cho sự phát triển, và đây cũng là điểm khác biệt giữa cuộc sống của con người và  
các sinh vật khác.  
Ngoài ra, người ta còn phân biệt khái niệm môi trường nhân tạo, đó là tất cả  
các nhân tố do con người tạo ra, làm thành những tiện nghi trong cuộc sống, như xe  
máy, ôtô, máy bay, nhà ở, công sở, các khu đô thị, khu công nghiệp, các khu công  
viên nhân tạo phục vụ cho vui chơi giải trí...  
Từ những trình bày ở trên có thể hiểu môi trường sống tất cả những gì có  
xung quanh con người, đem lại cho con người điều kiện, cơ sở để tồn tại, để sống  
và phát triển, như C.Mác đã từng trình bày trong tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết  
học năm 1844: “Giới tự nhiên là thân thể vô cơ của con người, và chính nó là giới  
tự nhiên trong chừng mực của bản thân nó không phải là thân thể con người. Con  
người sống dựa vào tự nhiên. Như thế nghĩa là tự nhiên là thân thể của con người;  
để khỏi chết, con người phải ở trong quá trình giao dịch thường xuyên với thân thể  
đó. Sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người liên hệ khăng khít với tự nhiên,  
điều đó chẳng qua chỉ có nghĩa là tự nhiên liên hệ khăng khít với bản thân tự nhiên,  
vì con người là một bộ phận của tự nhiên”[7, tr.91-92].  
Chức năng của môi trường  
Môi trường chính là không gian sống của con người và sinh vật. Vậy môi  
trường có chức năng gì? Môi trường cho chúng ta không khí để thở và duy trì sự  
sống, cho đất đai để trồng trọt chăn nuôi và xây dựng nhà cửa, ngoài ra môi trường  
còn có rất nhiều loại khoáng sản ở cả trên mặt đất và trong lòng đất, đó là nguồn tài  
nguyên rất quý phục vụ cho nhu cầu sản xuất. Không chỉ phục vụ cho nhu cầu sinh  
hoạt, sản xuất mà môi trường còn có rất nhiều danh lam thắng cảnh đẹp là nơi du  
13  
lịch, nghỉ mát cho con người sau những ngày làm việc vất vả, cho cuộc sống của  
con người tưoi đẹp và sinh động hơn. Tuy nhiên khả năng cung cấp của môi trường  
tự nhiên phục vụ các nhu cầu đó của con người là có giới hạn và nó phụ thuộc vào  
trình độ phát triển của mỗi quốc gia và ở mỗi giai đoạn khác nhau.  
Ngoài ra môi trường còn là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất thải của con  
người trong quá trình sinh hoạt, lao động sản xuất và sử dụng các tài nguyên thiên  
nhiên thải vào môi trường dưới dạng các chất thải. Chất thải có loại ở dạng rắn, có  
loại ở dạng lỏng và một số loại qua thời gian được hân hủy thành các chất vô cơ, vi  
sinh có thể phục vụ lại nhu cầu cầu của con người. Ví dụ chất thải của lợn có thể sử  
dụng thành ga phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của con người hay chất thải của các  
loại gia súc, gia cầm có thể ủ mục thành phân bón cho các loại cây trồng được xanh  
tốt Các tài nguyên sau khi hết hạn sử dụng, chúng bị thải vào môi trường dưới dạng  
các chất thải. Tuy nhiên với chức năng là nơi chứa đựng chất thải của môi trường  
không phải là vô hạn mà là có giới hạn. Nếu con người vượt quá giới hạn này thì sẽ  
gây ra tình trạng mất cân bằng sinh thái và dấn đến hiện tượng ô nhiễm môi trường.  
Lúc này lại cần sự chung tay góp sức của con người để chống lại hiện tượng ô  
nhiễm môi trường, để bảo vệ môi trường.  
1.1.3. Đạo đức môi trường  
Khái niệm đạo đức môi trường  
Thuật ngữ đạo đức môi trường không phải xuất hiện ngay từ thời cổ đại, thời  
cổ đại đạo đức môi trường mới chỉ thể hiện ở tình yêu thương của con người với  
thiên nhiên, với cỏ cây hoa lá và vạn vật xung quanh nơi họ sinh sống. Cho đến khi  
nền kinh tế thị trường hình thành và phát triển cùng với các cuộc cách mạng khoa  
học công nghệ đem theo sự ra đời ngày càng nhiều các loại máy móc hiện đại từ đó  
làm cho đời sống của con người ngày càng đòi hỏi cao hơn, họ không bằng lòng với  
những gì sẵn có hiện tại của tự nhiên. Họ bắt đầu khai thác sâu hơn vào nguồn tài  
nguyên thiên nhiên của môi trường để tìm ra những nguồn nguyên nhiên vật liệu  
phục vụ cho công việc của mình, lâu dần làm cho nguồn tài nguyên thiên nhiên bị  
14  
cạn kiệt dẫn đến việc môi trường tự nhiên không thể tự điều chỉnh, tự cân bằng  
được và gây ra hiện tượng ô nhiễm môi trường. Với tình trạng ô nhiễm môi trường  
như hiện nay việc bảo vệ môi trường không chỉ là trách nhiệm của từng quốc gia  
riêng lẻ mà nó mang tính toàn cầu, mang tính quốc tế với mọi quốc gia trên thế  
giới.Từ sự ô nhiễm môi trường đang diễn ra nghiêm trọng như hiện nay chúng ta  
nhận thấy rằng mỗi quốc gia nên có thay đổi về chiến lược, chính sách, cách thức và  
mô hình phát triển về kinh tế để từ đó đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa con  
người với xã hội và tự nhiên.  
Ph.Ăngghen từng phân tích: “Khi đốt rừng trên các triền núi và lấy số phân  
tro đủ để bón cho một đời cây cà phê đem lại một số thu hoạch rất lớn, thì những  
người chủ đồn điền Tây Ban Nha ở Cu Ba có cần gì phải suy nghĩ rằng sau này,  
những trận mưa rào ở vùng nhiệt đới sẽ cuốn sạch lớp đất bên trên không có sự che  
chở và chỉ để lại những lớp đá trơ trụi”[8, tr. 658]. Có thể thấy, từ trong lịch sử con  
người vì lợi ích kinh tế cũng đã bất chấp làm những hành động tàn phá tự nhiên.  
Do vậy, để đảm bảo được sự cân bằng, hài hòa giữa con người với tự nhiên  
thì bên cạnh việc khai thác tự nhiên con người cũng cần phải bảo vệ tự nhiên, bảo  
vệ môi trường. Muốn bảo vệ môi trường thì phải có những hành động, việc làm về  
bảo vệ môi trường ví dụ như: vứt rác đúng nơi quy định kể cả ở nhà hay ở trường  
học, bệnh viện, nơi công cộng; không đưa nước thải chưa qua xử lý ra môi trường;  
không bẻ cành cây, hái hoa hay dẫm lên cỏ ở những khuôn viên trường học, công  
viên, khu đô thị làm xấu cảnh quan môi trường; hay rộng hơn là trồng cây phủ xanh  
đất trống, trồng cây gây rừng, không chặt phá rừng bừa bãi, săn bắn trái phép những  
loài vật quý đang trong danh sách cần được bảo tồn.... Những hành động và việc  
làm đó phải xuất phát từ trong suy nghĩ, nhận thức, thái độ của mỗi người và phải  
mang tính tự nguyện, tự giác không bắt buộc phải thực hiện. Đây chính là cơ sở để  
hình thành và cho ra đời một cách ứng xử mới đối với môi trường thuộc về phạm  
trù đạo đức được mang tên là đạo đức môi trường.  
15  
Khái niệm về đạo đức môi trường được rất nhiều tác giả trong và ngoài nước  
nhắc tới. Đầu tiên không thể không nhắc tới một luận điểm nổi tiếng và đó cũng là  
quan niệm đầu tiên về đạo đức môi trường đưa ra năm 1949 của triết gia người Mỹ  
mang tên Aldo Leopold trong 5 tập tiểu luận The Land Ethic đã đăng trên A Sand  
County Almanac (Niên giám một vùng đất): “Một hành động chỉ được coi là đúng  
nếu nhằm bảo vệ sự toàn vẹn, ổn định vẻ đẹp của cộng đồng sinh vật; ngược  
lại thì là sai lầm[Trích theo: 36].  
Theo tác giả Ernest Partridge trong tác phẩm Giới thiệu về đạo đức môi  
trường, Trường Đại học tổng hợp California, Mỹ (2008), có nhấn mạnh: “đạo đức  
môi trường được hiểu là, sự thể hiện trách nhiệm của con người đối với việc tôn  
trọng đất đai, thực vật, tài nguyên, sinh vật không phải là con người”.  
Bên cạnh các công trình nghiên cứu ở ngoài nước thì trong nước cũng có rất  
nhiều công trình nghiên cứu về đạo đức môi trường, trong đó tiêu biểu có:  
Trong công trình nghiên cứu của tác giả Nguyễn Văn Phúc với tác phẩm  
Đạo đức môi trường”, tác giả đã đưa ra định nghĩa về đạo đức môi trường như sau:  
“Đạo đức môi trường là một hệ thống các chuẩn mực đạo đức điều chỉnh quan hệ  
giữa con người (xã hội) và tự nhiên vì sự phát triển bền vững” [30, tr.73].  
Tác giả Hồ Sĩ Quý trong bài viết về môi trường ở tạp trí Triết học số 9 với  
nội dung “Về đạo đức môi trường” tác giả cũng khẳng định: “Đạo đức môi trường  
một khái niệm rộng, phong phú, nhưng không quá đa nghĩa. Trên những nét lớn,  
thể hiểu sử dụng khái niệm này như sau:  
- Đạo đức môi trường những chuẩn mực tự nhiên, bình thường ngấm  
sâu trong hành vi và trong phong cách sinh hoạt, ứng xử của mỗi người mỗi  
cộng đồng - Con người bảo vệ môi trường, tôn trọng giới tự nhiên và cẩn trọng  
trước hệ sinh thái một cách tự nhiên, không cần ai ra lệnh, không vì mục đích vụ  
lợi nào khác.  
16  
Tải về để xem bản đầy đủ
pdf 87 trang yennguyen 05/04/2022 5020
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Đạo đức môi trường ở sinh viên trường Đại học Hải Dương hiện nay: Thực trạng và những vấn đề", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • pdfluan_van_dao_duc_moi_truong_o_sinh_vien_truong_dai_hoc_hai_d.pdf