Báo cáo Thực tập công nhân - Phan Văn Thông

Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
LỜI NÓI ĐẦU  
Đối với các trường khoa hc kĩ thut nói chung, và trường Đại hc Vinh nói  
riêng (đặc bit là khoa Xây Dựng), vic hc lý thuyết luôn đi đôi với thực hành, thí  
nghim. Nên công tác thực hành các nghành kthut đối với sinh viên là rt quan  
trng.  
Qua công tác thực hành khong cách giữa thực tế công vic và lý thuyết  
trừu tượng được gim bt. Công tác thực tp công nhân giúp sinh viên có cái nhìn  
khái quát vcông vic trên công trường, trực tiếp tham gia mt số công vic ca  
người công nhân. Bên cnh đó.quá trình thực tp, sinh viên được làm vic, hc hi  
kinh nghim ca những người thlành ngh, giàu kinh nghim thực thế. Sinh viên  
được làm quen với các trang thiết bmáy móc, các dng cụ làm vic. Nếu sinh  
viên không dược va chm thc tế trong quá trình hc thì sau khi ra trường thì sẽ gp  
nhiu khó khăn trong công vic.  
Qua quá trình thực tp, em đã được hc và thực hành các nghề chính ca người  
công nhân trên công trường.Các thy đã giúp em nm bt được khá nhiu công vic  
ca người công nhân xây dựng trên công trường. Vic thực tp giúp em bổ sung  
thêm nhiu kiến thc trên thực tế, liên hgiữa lý thuyết hc được và thực tế trên  
công trường. Điều đó cực kì quan trng cho hành tranh vào nghề sau này ca chúng  
em .  
Ngoài ra, công tác thực tp giúp em hiu biết vnhững bin pháp đảm bo an  
toàn và vsinh lao động trong khi làm vic.  
Mc du đã cgng hết sức nhưng vì thời gian thực tp có hn nên em chưa có  
thời gian đi sâu và tìm hiu kĩ vào thực tế nên báo cáo này không thể tránh được  
những sai sót vmt chuyên môn.  
Em xin chân thành cm ơn Thy Nguyn Duy Khánh đã to điu kin và  
trực tiếp hướng dn trong thời gian em thực tp.  
Vinh, ngày 02 tháng 01 năm 2014  
Sinh Viên  
PHAN VĂN THÔNG  
1
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
A.CÔNG TÁC XÂY  
I. Mục đích  
- Nắm được các loại vữa xây dựng, tỷ lệ pha trộn các loại vữa, phương pháp trộn  
các loại mác vữa trong khi xây móng xây tường, vữa xây những nơi ẩm ướt sự  
khác nhau giữa các loại vữa này.  
- Phương pháp xây tường 110mm, 220mm,…. Biết cách bắt mỏ các loại tường này,  
kỹ thuật xây các tường mạch vữa. Khối xây đúng kỹ thuật, cách kiểm tra các khối  
xây,…  
- Phân biệt các loại gạch đá  
II.Khái niệm chung  
-Khối xây gạch đá tập hợp của những viên gạch đá riêng lẻ, được gắn chặt với  
nhau bằng vữa được xếp thành hàng, thành lớp, nhưng toàn bộ tập hợp đó phải  
chịu lực như một thể thống nhất mà không có sự dịch chuyển của mọi viên thành  
phần.  
- Thành phần khối xây bao gồm các lớp gạch đá nằm chồng lên nhau. Lớp vữa nằm  
giữa hai lớp gạch đá kề nhau, gọi mạch vữa nằm. Các mạch vữa giữa các viên gạch  
đá trong một lớp gọi là các mạch vữa đứng. Mỗi lớp gạch đá gồm một hay nhiều  
hàng, là một dãy các viên gạch đá nối tiếp nhau. Viên gạch đá bề dài được xếp dọc  
theo chiều dài của hàng, gọi viên dọc. Hàng gồm toàn viên dọc, gọi hàng dọc  
(đối với gạch chỉ, gọi là hàng dầy nửa gạch, do bề dài gạch gấp đôi bề ngang). Viên  
gạch đá bề ngang được xếp dọc theo chiều dài của hàng, gọi viên ngang. Hàng  
gồm toàn viên ngang, gọi hàng ngang (hay hàng một gạch, đối với gạch chỉ). Hàng  
nằm giáp mặt bên khối xây gọi hàng ngoài. Hàng nằm bên trong lõi khối xây gọi là  
hàng trèn. Mạch vữa đứng giữa các hàng là mạch đứng dọc (gọi tắt mạch dọc).  
Mạch vữa đứng giữa các viên trong hàng là mạch đứng ngang (gọi tắt mạch  
ngang).  
- Các loại khối xây:  
+Theo vật liệu: khối xây đá hộc, khối xây gạch  
+ Theo kết cấu: khối xây móng, khối xây tường, khối xây trụ  
- Phân đoạn xây là đơn vị thành phân của một khối xây chia theo phương mặt bằng,  
đảm bảo cho các tổ đội công nhân làm việc độc lập, không ảnh hưởng đến nhau.  
2
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
- Đợt xây là đơn vị thành phần của khối xây chia theo chiều cao. Khối xây cần chia  
nhỏ theo chiều cao vì hai lý do sau:  
- Chiều cao của con người là có hạn. Tầm cao công tác của người thợ đứng xây tối  
đa khoảng 1,5 m. Tầm cao công tác hiệu quả nhất của người thợ là 0,2 1,2 m. nếu  
muốn xây ở độ cao >1,5 m thì phải bắc giáo công tác để thợ đứng lên xây.  
- Khối xây là sự kết hợp giữa hai loại vật liêu là gạch đá, đã khả năng chịu lực từ  
trước, vữa xây, khi xây chưa khả năng chịu lực sẽ phát triển theo thờigian  
sau khi đông cứng. Cho nên nếu xây cao quá khối xây sẽ mất khả năng chịu lực, cần  
phải hạn chế chiều cao xây để chờ vữa xây đông cứng.  
Chiều cao của một đợt xây khoảng 1,5 m. Trong đợt xây có nhiều phân đoạn. Xây  
hết các phhân đoạn trong một đợt thì mới quay về xây tiếp phân đoạn đầu tiên của đợt  
tiếp trên, sau khi đã bắc giáo công tác.  
-Mỏlà gián đoạn kỹ thuât trong khối xây theo phương mặt bằng, giữa hai phân đoạn  
xây trước-sau. Có 3 kiểu mỏ mỏ dật, mỏ nanh và mỏ hốc, cấu tạo của chúng như  
sau:  
+ Mỏ dật chất lượng tốt, xóa được sự khác biệt sau-trước, khối xây được đồng  
nhất, nhưng xây lên cao diện xây giảm, nên năng xuất xây kém. Mỏ nanh, mỏ hốc thì  
ngược lại, các mạch đứng tại vị trí mỏ thường không no đầy, các lớp gạch đồng mức  
của hai phần cũ-mới thể không ngang bằng, nên chất lượng các mỏ này kém, tuy  
nhiên, ưu điểm của chúng là diện xây không đổi, nên năng xuất đạt tối đa.  
3
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
Dựa theo ưu nhược điểm của từng loại mỏ việc áp dụng chúng có khác nhau:  
Mỏ dật chất lượng tốt nên được khuyến khích dùng, đặc biệt ở tầm trung bình  
hoặc thấp. Chỉ khi không thể xây được loại mỏ này mới dùng các loại còn lại kia.  
Khi phân đoạn xây mới nối tiếp thẳng hàng với phân đoạn trước thì sử dụng kết  
hợp mỏ dật với mỏ nanh, mỏ dật cho những lớp xây thấp bên dưới, các mỏ nanh cài  
vào nhau, cho những lớp xây bên trên. Khi phân đoạn xây mới nối vuông góc với  
phân đoạn cũ, trên tầm cao lớn, thì phân đoạn cũ để mỏ hốc còn phân đoạn mới  
được nối vào đó bằng mỏ nanh, tầm trung bình và thấp vẫn để mỏ dật liên kết với  
nhau.  
III.Các yêu cầu kỹ thuật chung của công tác xây  
1.Không trùng mạch(tạo liên kết của khối xây)  
Hiện tượng trùng mạch hiện tượng các mạch đứng trong các lớp xây liên tiếp nối  
liền với nhau thành dải theo phương của tác dụng của tải trọng.  
Hiện tượng này làm khối xây tách làm 2 phần nằm hai bên dải mạch đứng làm phá  
vỡ khối xây. Muốn khắc phục ta phải tạo ra các viên khóa nằm trong các lớp xen kẽ,  
để liên kết hai phần khối xây hai bên dãy mạch đứng và phá vỡ sự liên tục của dãy  
mạch này.  
Chiều sâu liên kết của các viên khóa vào mỗi phần khối xây bằng 1/2cạnh vuông  
góc với dãy mạch đứng, của viên này. Nếu một bên cắm nông hơn thì viên này sẽ  
không thành viên khóa dẫn tới liên kết này không đảm bảo nên vẫn coi là trùng mạch.  
Đối với gạch chỉ, chiều sâu liên kết của các viên khóa là 1/4 gạch (= 1/2 bề ngang) khi  
viên khóa nằm dọc theo mạch đứng, 1/2 gạch khi viên khóa nằm ngang mạch đứng.  
Độ không trùng mạch tỷ lệ các lớp xây có liên kết khóa mạch trên chiều dài  
mạch đứng. Độ không trùng mạch (1/2) càng lớn càng tốt (tốt nhất =1/2, một lớp  
hàng doc chỉ kèm một lớp hàng ngang và ngược lại). Đối với mạch đứng ngang, độ  
không trùng mạch phải là 1/2. Đối với mạch đứng dọc, độ không trùng mạch cho  
phép tối thiểu là 1/6 (trường hợp xây tường 220: tối đa 5 lớp dọc phải có 1 lớp ngang  
kèm theo).  
2.Mạch vữa đông đặc(tăng kết dính của khối xây)  
Vữa xây làm nhiệm vụ kết dính các viên gạch đá trong khối xây. Tất cả các mạch  
vữa trong khối xây phải được chèn đầy và ép ngoài cho chặt, nhất mạch đứng. Nếu  
không đầy mạch sẽ làm giảm yếu cụ bộ khối xây. Tuy nhiên, cường độ vữa thường  
4
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
thấp hơn gạch đá phải phát triển dần theo thời gian, nên mạch vữa quá dầy cũng  
làm yếu khối xây. Theo quy phạm, mạch vữa thường dầy 0,8-1,2 cm.  
3.Khối xây thẳng đứng (để khối xây chịu nén đúng tâm, ổn định tổng thể)  
Khối xây chịu kéo và uốn kém, nó chịu nén tốt nhất theo phương vuông góc với  
các lớp xây của nó. Do chịu nén, nên khối xây càng thẳng đứng thì chịu nén càng  
đúng tâm và càng đỡ mất ổn định hơn. Độ nghiêng các mặt và các góc khối xây, theo  
chiều cao, không vượt quá 10 mm cho một tầng nhà (cao 3-4 m), nhưng cho toàn nhà  
thì không quá 30 mm. Kiểm tra độ nghiêng bằng dọi.  
4.Mặt bên khối xây phẳng (ổn định cục bộ)  
Mặt biên khối xây phẳng không lồi lõm cục bộ làm khối xây chịu lực tốt hơn, đẹp  
hơn tiết kiệm vật liệu và nhân công hoàn thiện.  
5.Từng lớp xây ngang bằng (trong lớp không xuất hiện lực trượt)  
Nếu lớp xây nằm nghiêng, mỗi viên gạch trong lớp đó sẽ chịu tác động bởi một tải  
trọng xiên so với mặt trên viên gạch. Tải trọng này, phân thành hai lực thànhphần,  
một theo phương vuông góc với mặt trên viên gạch, tạo nén tốt lên mạch vữa nằm và  
các lớp dưới (phát huy hết được ưu điểm của kết cấu xây gạch đá), nhưng thành phần  
còn lại, hướng dọc theo mạch vữa nằm, gây hiện tượng trượt tách giữa các lớp xây,  
ảnh hưởng sấu tới kết cấu thống nhất của khối xây. Nếu các lớp xây ngang bằng thì tải  
trọng chỉ còn có thành phần thứ nhất, phát huy hết được ưu điểm của kết cấu xây gạch  
đá, mà không phát sinh lực trượt không tốt giữa các lớp xây.  
6.Góc tường thật vuông  
IV. Các dụng cụ vật liệu dùng trong công tác xây  
1. Dụng cụ  
Dây lèo dùng để xác định các cạnh mặt bên khối xây. Có 3 loại dây lèo: lèo  
đứng, lèo xiên, lèo ngang. Lèo ngang, thường căng ở độ cao 1,5-2,0 m so với mặt sàn  
công tác, trên đó buộc các dây lèo đứng. Lèo đứng cùng lèo ngang xác định mặt thẳng  
đứng của các khối xây: mặt tường, trụ… Lèo xiên để xây những khối xây có một mặt  
biên nằm nghiêng như: tường thu hồi, tường bậc thang, mái đê, đập...  
Dây xây (dây cữ), căng ở mép biên hàng ngoài của một lớp gạch, dùng để chỉnh  
phẳng lớp gạch độ phẳng cục bộ trong từng lớp xây của mặt bên khối xây.  
Cữ xây độ dầy trung bình tiêu chuẩn của một lớp xây. Đối với khối xây gạch chỉ  
thường cữ xây là khoảng 75 77 mm (khoảng 65+(8 12) mm).  
Dọi dùng để xác định, điều chỉnh, kiểm tra độ thẳng đứng của khối xây.  
5
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
Dao xây (bai) dùng để dải vữa (khi xây tường nửa gạch), gõ trèn và chỉnh gạch,  
chặt gạch, vét và trèn đầy mạch vữa.  
Ni vô (dạng ống hay thước) dùng để đánh thăng bằng các lớp gạch.  
Xẻng dùng để trộn, xúc và dải vữa (khi bề dầy tường một gạch).  
dùng để đựng vữa trong khi vận chuyển gần.  
Hộc chứa vữa đựng vữa trước lúc xây tại nơi xây.  
Hộc đong vật liệu hộp chữ nhật đóng bằng gỗ, để đong đếm thể tích vật liệu.  
Thước cữ, làm bằng gỗ hay kim loại trên có gắn hoặc khắc vạch cữ xây, dùng để  
điều chỉnh độ dầy của các lớp xây (cữ xây là bề dầy tiêu chuẩn của mỗi lớp xây).  
Ngoài ra, nếu thước cữ dài và thật thẳng thì có thể dùng nó thay cho dây lèo đứng.  
Cải tiến từ thước cữ, lèo đứng dọi cột lèo, làm từ thép góc có hàn thêm bản  
đế để dựng thẳng đứng thật vững. Trên cột lèo có gắn thước cữ di động lên xuống,  
gắn dọi để kiểm tra độ đứng thẳng của cột và móc buộc lèo ngang. Cột lèo thường  
được dùng ở những mặt bằng chống chải, tại hai góc biên của một phân đoạn khối xây  
tường, dùng kết hợp các loại dây lèo: ngang, đứng, xiên.  
Thước tầm, làm bằng gỗ hay hợp kim nhôm dài 2,0- 2,5 m, dùng để kiểm tra độ  
phẳng của mặt bên khối xây.  
Thước thợ (thước vuông) dùng để bắt góc khối xây (kiểm tra độ vuông của góc  
tường).  
6
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
2. Vật liệu  
- Vữa: có 3 loại  
+ Vữa vôi cát: chỉ là vôi và cát (mỏc ≤ 25)  
+ Xi măng cát: cát và xi măng (mác 50 ÷ 100)  
+ Vữa tam hợp: cát, vôi, xi măng (mác < 50)  
- Gạch: mác 75 có 2 loại:  
+ Gạch chỉ: gạch đặc có kích thước thông thường 220x105x55  
+ Gạch lỗ nhiều loại: 2 lỗ, 4 lỗ, 6 lỗ  
- Yêu cầu chung đối với các vật liệu xây dựng  
+ Vôi phải sạch khô  
+ Xi măng phi bt, không đông cc, đảm bo hn sử dng và mác thiết kế  
+ Cát không được ln tp cht  
+ Gch có kích cỡ đồng đều  
V. Các bước tiến hành xây tường gạch chỉ cơ bản  
1. Tổ chức mặt bằng phân đoạn xây  
Mặt bằng thi công phân đoạn xây được chia thành 3 dải song song liền kề nhau:  
- Dải thứ nhất, dải sản phẩm, vị trí mà phân đoạn tường sau khi xâyxong sẽ  
nằm trên đó. Hệ thống dây lèo, cột lèo và dây xây được căng ở đây, về phía mặt tường  
bên kia, đối xứng với mặt tường gần người thợ xây. Như vậy, để khi xây người thợ  
không chạm vào làm lệch hệ định hướng gồm: cột lèo, các dây lèo và dây xây, để  
tường không bị khuyết tật.  
- Dải ở giữa, dải công tác, là nơi người thợ đứng để thao tác xây, nơi để vật  
liệu gạch vữa xây ngay. Thường thì gạch vữa, mỗi thứ để ở một bên người xây  
(vữa đặt ở phía tay cầm dao xây), nhằm giản tiện các thao tác xây. Không gian thao  
tác tối thiểu cho mỗi người thợ xây là . Khi xây những đợt xây trên cao, hệ thống giáo  
công tác được lắp dựng trong dải không gian này để người thợ đứng lên trên xây.  
- Dải ngoài cùng, là dải vận chuyển, tạo thành tuyến đường vận chuyển gạch từ  
nơi tập kết vữa từ chỗ trộn, về để xây.  
2. Căng hệ thống định hướng cho công tác xây  
hệ lèo để xác định các bề mặt tường. Trên một trục định vị tường thường ở hai đầu  
có hai góc tường, làm đổi hướng hoàn toàn trục tường này. Trên mỗi trục tường thể  
chia làm một hay nhiều phân đoạn xây nối nhau thẳng hàng.  
7
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
Tại hai điểm góc biên của trục tường, được xác định sẵn (giác) trên mặt nền, ta  
dựng hai cột lèo, góc cột lèo trùng với hai điểm trên. Dùng dọi chỉnh cho hai cột lèo  
này đứng thật thẳng đứng theo cả hai phương: phương trục tường phương vuông  
góc với tường. Khi trục tường được chia thành nhiều phân đoạn tường, để các phân  
đoạn xây nối nhau thẳng hàng trên cùng một trục, qua hai đầu trên của hai cột lèo, dọc  
theo mép biên tường định xây, ta buộc một dây lèo ngang bằng thép. Trên dây lèo  
ngang có treo các lèo đứng trung gian, được dọi đứng theo cả hai phương giống như  
với cột lèo và ghim đầu dưới vào mạch vữa nằm dưới cùng. Nếu phân đoạn tường  
trung gian có các góc tường, góc trụ liền tường, thì chân các điểm góc này trên nền  
phải nằm trên hình chiếu của lèo ngang trên nền, do các phân đoạn cùng trên một trục,  
tại các điểm này ta ghim đầu dưới cácdây lèo đứng trung gian hay thước cữ góc  
vào đó. Đầu trên của các dây lèo đứng hay thước cữ góc này được treo buộc vào lèo  
ngang và được điều chỉnh bằng dọi cho thẳng đứng với đầu dưới theo cả hai mặt: mặt  
tường mặt vuông góc. Tại mỗi đầu mỏ của một phân đoạn phải một dây lèo  
đứng. Khoảng cách giữa các lèo đứng không quá 12 m, để dây xây không bị võng.  
Sau khi xây xong những viên góc hoặc mỏ của một, hai lớp dưới cùng, đầu dưới của  
tất cả các dây lèo đứng được ghim vào mạch vữa ngang dưới cùng và được kiểm tra  
lại bằng dọi.  
Hệ thống lèo trên sẽ định hướng cho cả một đợt xây cho nên sau khi dựng xong  
phải giữ ổn định không xê dịch hệ này cho đến khi xây đợt mới.  
Dây xây: hệ thống định hướng cho từng lớp xây, được dựng và thay đổi cho  
từng lớp xây và được điều chỉnh theo hệ thống lèo, thước cữ và nivô. Dây xây luôn  
nằm trong mặt phẳng dây lèo dứng và lèo ngang, nhưng do luôn phải thay đổi vị trí  
theo từng lớp xây (lên dây), nên nó phải được căng vào bên trong lèo đứng, nằm cùng  
phía với tường người xây so với hệ lèo, để tránh va chạm làm sai lệch dây lèo đứng  
trong khi lên dây.  
Nếu dùng thước cữ góc hay cột lèo, ta móc mỗi đầu dây xây vào vạch cữ trên thước  
cữ hay thước cữ di động trên cột lèo. Trường hợp chỉ dùng lèo đứng trong phân đoạn  
xây, thì tại hai mỏ góc hai đầu phân đoạn phải định vị trước và xây tạm trước một, hai  
lớp tường tại vị trí này gọi là xây bắt mỏ, để lấy chỗ cắm dây lèo đứng và dây xây.  
Khi xây tường dùng lèo đứng luôn phải xây bắt mỏ góc trước một đến hai lớp trên để  
lấy chỗ ghim dây xây. Sau khi đã căng ngang bằng dây xây vào hai mỏ góc hai đầu,  
8
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
thì phải chỉnh chính xác mép biên các viên mỏ góc trong cùng một lớp xây bắt mỏ  
cho song song với dây xây (bám dây xây).  
Nền nhà thường không bằng, để các lớp xây được ngang bằng, ngay tại lớp xây đầu  
tiên ta dùng ni vô để kiểm tra độ thăng bằng nhau của cả hai mỏ góc hai đầu, điều  
chỉnh chúng bằng độ dầy mỏng của lớp gạch mạch vữa nằm dưới cùng (nếu độ  
chênh lệch giữa hai đầu lớn thì đối với tường dầy 220 có thể dựng bề ngang các  
viên gạch tại đầu thấp trong lớp này lên, gọi là xây vỉa). Các lớp xây bên trên thì có  
thể không cần đánh thăng bằng bằng nivô, nhưng được điều chỉnh độ ngang bằng  
bằng chiều cao như nhau: 75 77 mm, của vạch cữ hay thước cữ di động ở mỏ góc  
hai đầu độ thăng bằng của lớp xây ngay bên dưới.  
Tại các mức độ cao đặc biệt như: bậu cửa sổ, lanh tô cửa, góc tường trần, để  
đảm bảo đngang băng chính xác ta dùng ni vô để kiểm tra.  
3. Giải vữa đặt gạch  
Khi giải vữa cần phải đủ lượng vữa, diện dải ít nhất phải lớn hơn chiều dài viên  
gạch để đảm bảo cho mạch vữa nằm no vữa. Chiều dầy của dải vữa tạo mạch nằm khi  
dải thường khoảng 15 mm. Dùng dao vét gọn hai bên dải vữa để nó có tiết diện hình  
thang, nhằm làm giảm vữa thừa phè sang hai bên tường, khi gõ chỉnh gạch. Để đảm  
bảo no mạch vữa đứng dọc và ngang, cần kết hợp các thao tác sau:  
- Sau khi dải vữa mạch nằm xong, thì dùng dao vét vữa từ mạch này lên đầu viên  
gạch đã xây trước trong hàng, nhằm tạo một phần mạch ngang.  
- Cầm viên gạch dúi mạnh vào dải vữa vừa dải của mạch nằm ngang theo hướng  
dọc theo hàng gạch, với một góc nghiêng 5 10 độ so với mặt bằng, để đẩy vữa từ  
mạch vữa nằm lên mạch vữa đứng ngang giữa viên đang xây và viên đã xây trước.  
- Sau khi đặt, gõ và chỉnh gạch xong vữa thừa từ mạch nằm phè sang hai bên tường  
phải vét gọn đổ vào các mạch vữa ngang và dọc để làm đầy các mạch này.  
Trong quá trình xây, sau khi đặt viên gạch vị trí, dùng dao xây gõ trên mặt trên  
viên gạch sao cho mặt trên lớp xây (cũng mặt trên mỗi viên gạch trong lớp) được  
chỉnh ngang bằng độ cao dây xây. Các viên gạch ở hàng biên của mỗi lớp luôn được  
chỉnh mặt bên song song cách đều với dây xây một khoảng hở bằng bề ngang thân  
dây xây (1 mm). Khi chỉnh các viên gạch trong hàng biên bám dây xây cũng chỉ dùng  
dao xây gõ vào mặt trên viên gạch nhưng theo một góc nghiêng hướng vào phía cần  
chỉnh ngang. Không được phép gõ ngang tường làm long mạch vữa, đặc biệt đối  
9
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
với tường 110, vì tường đang xây thường không được chịu lực sô ngang. Các mạch  
vữa nằm, ngang và dọc, sau khi đặt, gõ và chỉnh gạch xong, thường dầy khoảng 8   
12 mm.  
Trong khi xây, để tránh trùng mạch đôi khi cần những mẩu gạch 1/2, 1/4 xây trèn  
trong lớp xây thì dùng dao xây để chặt gạch. Khi bắt mỏ luôn phải dùng thước thợ để  
kiểm tra và điều chỉnh các góc tường. Tại các góc tường mép của góc tường phải luôn  
bám dây lèo đứng, tức là luôn song song cách đều dây lèo đứng một khe hở bằng một  
thân dây, khoảng 1 mm.  
VI. Các kỹ thuật xây tường  
1. Kĩ thuật xây tường gạch chỉ dày 110  
Tường 110, còn cách gọi khác theo bề dầy tường 1/2 gạch, hay tường con kiến.  
Loại tường này khả năng chịu lực thấp nên thường được sử dụng làm vách ngăn chia  
phòng bên trong công trình hay tường bao của các công trình tạm. Các yêu cầu kỹ  
thuật, các bước tiến hành xây tường 110 tuân thủ hoàn toàn mà không có bổ sung  
thêm so với yêu cầu và các bước tiến hành chung đã nêu trên. Trong tường 110 đa  
số các mạch vữa đứng ngang lệch nhau 1/2 viên gạch,trừ trường hợp khoảng cách  
giữa hai góc tường không chẵn với chiều dài viên gạch kèm một mạch ngang, khi đó  
co dãn nhỏ bề ngang mạch ngang để thể trèn các mẩu 1/2, 1/4 vào hàng nhưng vẫn  
phải đảm bảo khoảng cách tối thiểu của mọi mạch ngang là 1/4 viên gạch.  
10  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
Kĩ thuật xây tường gạch chỉ dày 110 bổ trụ liền tường  
Để tăng khả năng chịu lực của tường 110 biến tường này thành tường chịu lực,  
người ta thường xây kèm vào tường 110 các trụ cách nhau 3 m (2,5 3,0 m). Kỹ  
thuật xây loại tường này tuân thủ hoàn toàn các yêu cầu kỹ thuật chung, các bước tiến  
hành cơ bản của công tác xây. Ngoài ra, có thêm một số kỹ thuật bổ sung sau:  
+ Trong tường 110 bổ trụ, để đảm bảo các lớp xây luôn bám dây xây làm cho lớp  
xây được ngang bằng, thì trụ phải xây đồng thời với tường theo từng lớp một.  
+ Tại vị trí trụ, để đảm bảo trụ được thẳng đứng để chịu lực tốt mỹ quan, phải  
cắm thêm ít nhất một dây lèo đứng ở góc trụ, để định hướng trụ.  
+ Tại vị trí trụ dễ xẩy ra hiện tượng trùng mạch trụ, nên ta phải xử hiện tượng  
này bằng cách xây trèn vào đó các viên 3/4 để khoảng cách giữa các mạch đứng là 1/4  
viên. Trường hợp tường 110 bổ trụ 220x220 có cách xây tại vị trí trụ như sau:  
2.Kỹ thuật xây tường gạch chỉ 220(còn gọi tường đôi hay tường một gạch).  
loại tường chịu lực. Kỹ thuật xây loại tường này cũng tuân thủ hoàn toàn các  
yêu cầu kỹ thuật chung, các bước tiến hành cơ bản của công tác xây. Ngoài ra, có  
thêm một số kỹ thuật bổ sung sau:  
+ Tường 220 bao gồm 2 tường 110 đăt song song liền kề được liên kết lại với  
nhau. Giữa chúng có mạch vữa dọc liên kết chúng. Tuy nhiên để tránh trùng mạch  
đứng dọc này, cần phải có các lớp ngang chỉ gồm một hàng ngang để khoá mạch này  
và liên kết hai phần tường 110 với nhau. Thường có 3 cách để các lớp ngang này  
trong khối xây:  
11  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
- Cách để một lớp dọc kèm một lớp ngang. Cách này chất lượng tường tốt nhất  
(coi là chất lượng đạt 100%), nhưng năng xuất xây thấp (coi là đạt 100%).  
- Cách xây 3 lớp dọc liên tiêp phải đến một lớp quay ngang liền kề. Cách xây này  
chất lượng khối xây tường giảm (khoảng 95%), nhưng năng xuất thì tăng (đạt  
khoảng 110%).  
- Cách xây thứ 3, năm dọc một ngang, cách này tạm chấp nhận năng xuất cao  
(tới 115 120%), nhưng chất lượng khối xây kém nhất (khoảng 90%). Trong thực tế  
hai cách sau được áp dụng phổ biến do năng tăng mạnh chất lượng vẫn chấp nhận  
được.  
+ Tại góc tường 220 dễ xảy ra hiện tượng trùng các mạch ngang và dọc. Để xử lý  
hiện tượng này tại góc tường 220 ta xử dụng các viên gạch 3/4 để xây góc. Cách xây  
như sau:  
+ Tường 220 có hai mặt bên không liên quan chặt chẽ với nhau, để đảm bảo bề  
dầy tường đồng nhất, hai mặt bên tường đều phẳng, độ dày mạch dọc đồng đều, khi  
xây các lớp dọc ta phải căng thêm một hay một hệ dây xây phía mặt tường trong. Do  
bề dầy tường đủ lớn, nên từ tường 220 trở lên có thể dải vữa bằng xẻng, làm tăng  
năng xuất xây, và căng thêm dây xây trong mà không bị vướng víu.  
Tường 220 các mạch đứng ngang thường cách nhau 1/4 viên gạch.  
12  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
VII. An toàn lao động trong công tác xây  
1. Trước khi xây tường phải xem xét tình trạng của móng hoặc phần tường đã xây  
cũng như tình trạng của đà giáo và giá đỡ, đồng thời kiểm tra lại việc sắp xếp bố trí  
vật liệu vị trí công nhân đứng làm việc trên sàn công tác theo sự huớng dẫn của cán  
bộ kỹ thuật hoặc đội trưởng.  
2. Khi xây tới độ cao cách mặt sàn 1,5m phải bắc đà giáo hoặc giá đỡ.  
Khi xây tường 330mm trở lên (ba hàng gạch) phải bắc đà giáo cả hai bên.  
3. Chuyển vật liệu (gạch, vữa ... ) lên sàn công tác ở độ cao từ 2m trở lên phải dùng  
các thiết bị cẩu chuyển. Bàn nâng gạch phải có thành chắn bảo đảm không bị rơi, đổ  
khi nâng. Cấm chuyển gạch bằng cách tung gạch lên cao quá 2m.  
4. Khi làm sàn công tác bên trong nhà để xây, thì bên ngoài nhà phải đặt rào ngăn  
hoặc biển cấm cách chân tường 1,5m khi xây ở độ cao không lớn hơn 7m, hoặc cách  
chân tường 2m khi xây ở độ cao lớn hơn 7m.  
Những lỗ tường từ tầng hai trở lên nếu hai người thể lọt qua phải cho chắn lại  
5. Cấm không được :  
- Đứng trên mặt tường để xây.  
- Đi lại trên mặt tường.  
- Đứng trên mái để xây.  
- Dựa thang vào tường mới xây để lên xuống.  
6. Cấm xây tường quá hai tầng khi các tầng giữa chưa gác dầm sàn hoặc sàn tạm.  
7. Khi xây tường bằng đá nếu ngừng xây phải siết mạch cẩn thận các viên đá ở hai  
đầu và trên mặt.  
8. Khi xây nếu mưa to, giông hoặc gió cấp 6 trở lên phải che đậy, chống đỡ khối  
xây cẩn thận để giữ cho khối xây khỏi bị xói lở hoặc bị sập đổ và công nhân phải đến  
nơi ẩn nấp an toàn.  
9. Khi xây dựng xong trụ độc lập hoặc tường đầu hồi, về mùa mưa bão phải làm  
mái che.  
10. Không để bất cứ một vật gì trên mặt tường đang xây.  
11. Đặt cố định linteau hoặc các cấu kiện đúc sẵn khác phảl đúng thiết kế thi  
công.  
12. Khi vừa xây vừa cố định các tấm ốp, chỉ được ngừng xây khi đã xây quá độ cao  
mép trên của các tấm ốp đó.  
13  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
13. Xây các mái hất nhô ra khỏi tường quá 20cm phải có giá đỡ console. Chiều  
rộng của giá đỡ console phải lớn hơn chiều rộng của mái hất.  
Chỉ được tháo giá đỡ console khi kết cấu mái hất đã đạt cường độ thiết kế.  
14. Xây vòm cuốn hoặc vỏ mỏng phải thiết kế thi công riêng.  
15. Tháo ván khuôn vòm phải tuân theo sự hướng dẫn trực tiếp của cán bộ kỹ thuật  
chỉ huy thi công.  
16. Trát bên trong và bên ngoài nhà cũng như các bộ phận chi tiết kết cấu khác của  
công trình phải dùng đà giáo hoặc giá đỡ theo "qui định về an toàn sử dụng lắp dựng  
và tháo dỡ đà giáo, giá đỡ".  
17. Cấm dùng các chất màu độc hại như : minimum chì, bột crôm chì, ... để làm  
vữa trát màu.  
18. Khi đưa vữa lên mặt sàn công tác cao không quá 5m, phải dùng các thiết bị cơ  
giới nhỏ hoặc công cụ cải tiến.  
Khi đưa vữa lên mặt sàn công tác cao hơn 5m phải dùng máy nâng hoặc phương  
tiện cẩu chuyển khác.  
Không với tay đưa các thùng xô đựng vữa lên mặt sàn công tác cao quá 2m.  
19. Trát các cuộn vòm, gò cửa sổ ở trên cao, phải dùng, các kiểu, loại đà giáo hoặc  
giá đỡ theo "Qui đinh về an toàn sử dụng, lắp dựng và tháo dỡ đà giáo, giá đỡ".  
Cấm đứng trên bệ cửa sổ đlàm các víệc đâ nêu trên.  
20. Thùng, xô đựng vữa cung như các dụng cụ đồ nghề khác phải để ở vị trí chắc  
chắn để tránh rơi, trượt đổ.  
Khi ngừng việc phải thu dọn vật liệu đồ nghề vào một chỗ.  
Sau mỗi ca phải rữa sạch vữa bám dính vào các dụng cụ đồ nghề.  
Cấm vứt vật liệu đồ nghề từ trên cao xuống.  
21. Công nhân điều khiển máy phun vữa phải ủng, găng tay, kính bảo vệ mất.  
22. Điện dùng cho công tác trát trong bể hầm kín phải điện áp không lớn hơn  
36 vôn.  
23. Sấy khô vữa trát trong nhà bằng máy sấy dùng hơi đốt hoặc dầu phải do công  
nhân chuyên môn điều khiển. Máy sấy phải được cố định chấc chắn. Công nhân điều  
khiển máy sấy ở trong phòng không được làm việc liên tục quá 3 giờ.  
24. Công nhân làm các công việc tiếp xúc với vữa pha chlore phải được trang bị  
đầy đủ các phương tiện bảo vệ cá nhân và được bồi dưỡng độc hại theo chế độ hiện  
hành.  
14  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
B.CÔNG TÁC VÁN KHUÔN, ĐÀ NGANG VÀ GIÁO CHỐNG  
I.Các khái niệm chung  
Hkhuôn bê tông và bê tông cốt thép hệ kết cấu độ cứng lớn làm từ các loại  
vật liệu chịu lực tốt, bao chứa vữa bê tông lỏng theo hình dạng như ý được thiết kế  
trước, định hình nên kết cấu bê tông sau khi vữa bê tông chứa trong nó tự ninh kết và  
đông cứng. Sau khi bê tông ninh kết đông cứng thể tháo dỡ hệ khuôn đem đi  
đúc kết cấu công trình bê tông khác, kết cấu bê tông vừa đúc mang hình dạng và kích  
thước vừa được tạo bởi hệ khuôn cho đến hết tuổi thọ của chúng.  
Công tác khuôn đúc bê tông bao gồm các công đoạn thành phần: gia công, lắp  
dựng, dịch chuyển và tháo dỡ hệ khuôn.  
Hệ khuôn bê tông và bê tông cốt thép thường cấu tạo từ một số trong các hệ thống  
thành phần sau:  
Hệ ván khuôn, hệ đà giáo (hệ đà ngang: hệ dầm đván khuôn dầm và sàn, hệ giáo  
chống: hệ cột chống đứng kết hợp giằng), hệ văng chống định vị (văng ngang, chống  
xiên, khung định vị chân, cho các loại khuôn dạng thành đứng: khuôn cột, móng,  
tường, thành dầm…), hệ gông (cột), hệ (bánh xe) di chuyển ngang, hệ khung giá đỡ  
(ván khuôn trợt), hệ sàn công tác, hệ kích nâng theo phương đứng (ván khuôn trợt),  
v.v…  
Giáo PAL (giáo tam giác, cột chống tổ hợp)  
một loại hệ thống giáo chống, đỡ ván khuôn dầm và sàn (những hệ khuôn chịu  
lực).  
Hệ thống giáo tam giác thường được lắp ghép thành các cột chống tổ hợp nhiều  
tầng, mỗi tầng một hệ bất biến hình có bộ phận chủ yếu là ba hay bốn khung  
giáo. Các đơn vị cột chống này có thể làm việc với chiều cao tầng nhà rất lớn.  
II.Thành phần cấu tạo  
Khung giáo làm bằng thép ống hàn thành khung phẳng hình tam giác vuông. Kích  
thước khung giáo như sau: chiều rộng 1,2 m, chiều cao 1,5 m (tiêu chuẩn), 1,0 m và  
0,75 m (dẫn xuất bsung).  
Giằng giáo liên kết các khung thành hệ kết cấu không gian bất biến hình. Chúng  
phân làm hai loại: giằng ngang dài 1,2 m và giằng chéo dài 1,45 m.  
Chốt liên kết đầu các khung giáo ở với nhau.  
15  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
Khoá chốt liên kết giữa khung giáo với chốt để chống tuột chốt khỏi khung, khi  
khung giáo chịu kéo do ván khuôn đặt lệch tâm quá lớn gây ra.  
Kích giáo để điều chỉnh độ cao và độ thăng bằng của toàn bộ hệ giáo.  
Chúng gồm hai loại:kích đầu còn để đỡ hệ thống ván khuôn và tải trọng thi công  
chuyền xuốngkhung giáo, kích chân còn chịu toàn bộ tải trọng từ khung giáo chuyền  
xuống đất.  
Tổng cộng phạm vi điều chỉnh của cả hai loại kích đầu và chân có thể trong khoảng  
từ 0 0,6 m (mỗi loại kích từ 0 0,3 m), tuy nhiên để thể tháo dỡ hệ khuôn khi hệ  
khuôn nằm giữa hai tầng sàn bê tông đông cứng (có khe hở tháo kích), thì tổng phạm  
vi điều chỉnh của cả hai loại kích chỉ là 0,05 0,6 m. Tổng chiều cao của kích đầu và  
chân, kể cả các phần cố định của kích, là 0,2 0,75 m.  
Kích đầu và kích chân giáo PAL  
II. Hình thức lắp dựng  
1. Hệ cột chống tổ hợp độc lập  
Mạng hình vuông (dạng điển hình)  
Là cách tổ hợp thông thờng. Mỗi cột chống tổ hợp tiết diện ngang dạng hình  
vuông cạnh 1,2 m. Trong cách này, khoảng cách giữa hai hàng đà ngang chính, trên  
hai hành kích đầu của một hàng cột chống tổ hợp, là không đổi bằng 1,2 m. Nhưng  
16  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
khoảng cách của hàng đà ngang chính trên hai hàng cột chống tổ hợp liền kề, thay đổi  
tuỳ theo tính toán thiết kế hệ khuôn, trung bình khoảng 1,2 m.  
2. Mạng tam giác đều so le  
Cách này áp dụng cho các mặt bằng công trình nhỏ hẹp, dụ áp dụng cho hàng cột  
chống dầm. Về khả năng chịu lực gần tương đương với cách trên, do số chân chống  
trong một cột chống giảm (từ 4 xuống 3) nhưng diện nhận tải lại cũng giảm (kích  
thước thu gọn).  
Mỗi cột chống tổ hợp tiết diện ngang dạng hình tam giác đều cạnh 1,2 m.Nhưng  
phải sắp xếp các cột chống tổ hợp sao cho tất cả các kích đầu, của các cột chống trong  
một hàng, nằm trên hai tuyến song song theo một hớng, để thể đặt hai hàng đà  
ngang chính lên trên. Cách này, khoảng cách giữa hai hàng đà ngang chính, trên hai  
hành kích đầu của một hàng cột chống tổ hợp, là không đổi bằng 1,0 m. Nhưng  
khoảng cách của hàng đà ngang chính trên hai hàng cột chống tổ hợp liền kề, thay đổi  
tuỳ theo tính toán thiết kế hệ khuôn, trung bình khoảng 1,2 m.  
Hệ cột chống tổ hợp liên hoàn  
Khi tầng nhà có chiều cao lớn, lúc đó chỉ hệ cột chống tổ hợp mới đáp ứng đ-  
ược, nhưng chúng sẽ trở nên mảnh hơn chiều cao tính toán lớn. Để làm giảm chiều  
cao tính toán của cột chống tổ hợp, từ mặt trên tầng giáo thứ hai trở lên, có thể bố trí  
bổ sung một hay một số mặt phẳng giằng, tuỳ theo chiều cao tầng nhà, để liên kết các  
cột chống tổ hợp độc lập với nhau. Khi đó hệ cột chống tổ hợp liên hoàn. Khoảng  
không gian dưới hai tầng giáo dới cùng, ở giữa các cột chống tổ hợp, để dành cho  
giao thông trong tầng vào giai đoạn hệ khuôn dầm sàn đang làm việc.  
3. Mạng hình vuông liên hoàn  
mạng vuông nhưng có liên kết giằng ngang giữa các cột chống tổ hợp, để tăng  
khả năng chịu lực khi làm việc với đcao tầng lớn, tải trọng nặng.  
4. Mạng tam giác đều so le liên hoàn  
mạng tam giác nhưng có liên kết giằng ngang giữa các cột chống tổ hợp, để tăng  
khả năng chịu lực khi làm việc với đcao tầng lớn, tải trọng nặng.  
Hệ đà ngang  
Lớp đà ngang chịu lực (lớp chính). Đợc đặt trên các kích đầu của các cột chống tổ  
hợp.  
Lớp đà ngang đỡ ván (lớp phụ),  
17  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
Bộ ván khuôn bao gồm:  
Các tấm khuôn (tấm chính)  
Các tấm góc vuông: góc trong và góc ngoài, để lắp dựng tạo khuôn tại góc cạch  
vuông của cột, tường, dầm dầm liền sàn.  
Các tấm góc vát, tròn: góc trong và góc ngoài, để lắp dựng tạo khuôn tại góc cạch  
vát hoặc tròn.  
Tấm góc ngoài vuông 3 mặt, để lắp dựng tạo khuôn tại góc lõm 3 mặt: giao giữa hệ  
tường hay dầm, trực giao, với sàn.  
Tấm điều chỉnh  
Tấm để xuyên thanh giằng  
Chốt kẹp ván (khoá ván) chữ L  
III.Trình từ lắp dựng  
1. Đặt bệ kích chân (Gồm đế và kích), thành từng cụm 4 kích chân (mạng vuông)  
hay 3 kích chân (mạng tam giác đều so le), khoảng cách giữa các kích chân trong mỗi  
cụm là 1,2 m. Các cụm kích chân (mỗi cụm sau này sẽ dựng thành một cột chống tổ  
hợp) phải đợc đặt sơ bộ thành các hàng. Khoảng cách giữa các cột chống tổ hợp trong  
hàng và khoảng cách giữa các hàng cột chống tổ hợp đợc xác định theo thiết kế hệ  
khuôn (gồm: ván, đà ngang và giáo chống cột chốngtổ hợp), nhng trung bình  
khoảng 1,2m.  
2. Liên kết các bệ kích chân trong mỗi cụm kích chân với nhau bằng các giằng  
ngang, thành những hình vuông hoặc hình tam giác đều, giằng chéo, sao cho các  
thanh giằng của mỗi cụm tạo thành một miếng cứng (phát triển bộ đôi), nằm trong  
mặt phẳng nằm ngang giằng chân các cột chống tổ hợp.  
3. Dùng dây căng (hoặc máy ngắm như máy kinh ...v..v) để gióng thẳng hàng  
các kích chân của các cột chống tổ hợp trong một hàng cột chống tổ hợp, sao cho mỗi  
kích chân của một cụm (một cột chống tổ hợp) trong hàng buộc phải nằm ở một trong  
hai hàng kích chân của hàng cột chống tổ hợp, việc này nhằm để sau này các đà ngang  
(xà gồ) chính nối tiếp nhau thành hai hàng, song song, gối đúng vào hai hàng kích  
đầucủa hàng cột chống tổ hợp. Như vậy, phương của đà ngang chính, quyết định (và  
chính là) phương của hàng cột chống tổ hợp (mỗi hàng cột chống tổ hợp đỡ hai hàng  
đà ngang chính).  
4. Lắp tầng thứ nhất của các cột chống tổ hợp gồm các thao tác sau:  
18  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
- Lắp 3 hay 4 khung tam giác vào từng bệ kích trong mỗi cụm kích chân, điều chỉnh  
các bộ phận cuối của khung tam giác tiếp xúc với đai ốc cánh.  
- Lồng khớp nối vào mối nối hai khung liền kề và làm chặt bằng chốt giữ khớp nối.  
- Lắp các thanh giằng chéo, trong trường hợp mạng vuông, để mặt nằm ngang bên  
trên tầng khung này của mỗi cột chống tổ hợp tạo thành một mảng cứng bất biến hình.  
5. Dùng ống nivô hoặc máy thủy bình, kết hợp điều chỉnh độ cao đai ốc kích chân  
để cân bằng sơ bộ mặt trên tầng khung thứ nhất điều chỉnh lấy ngay phần độ cao  
của toàn hệ khuôn mà do hệ thống kích chân đảm nhiệm điều chỉnh. Làm bớc này để  
mỗi cột chống tổ hợp cũng như toàn hệ giáo chống đợc đứng thẳng một cách cân bằng  
ổn định, để dễ dàng điều chỉnh đợc các kích chân, khi cha có nhiều tải trọng tác  
dụng lên các kích này.  
6. Sau đó, tiếp tục chồng các khung tam giác thành từng tầng, tương tự tầng thứ  
nhất, cho đến khi đạt độ cao yêu cầu. Riêng tầng cuối cùng, thay vì lắp khớp nối, thì  
lắp các bệ kích trên đỡ đà ngang (kích đầu), ở góc nối hai khung liền kề trong tầng  
này của cột chống tổ hợp.  
Trong trường hợp độ cao tầng nhà lớn (6 m), để hạn chế chiều cao tính toán của  
các cột chống tổ hợp độc lập, từ mặt trên tầng khung thứ hai trở lên của mỗi cột  
chống, ta liên kết các cột chống này thành hệ cột chống tổ hợp liên hoàn, bằng một  
hoặc một số mặt phẳng giằng. Mỗi mặt phẳng giằng này, được phát triển từ các mặt  
trên (là mảng cứng) của tầng khung trung gian nào đó của các cột chống tổ hợp, bằng  
các thanh giằng ngang và chéo nối liền các mảng này. Số lượng các mặt phẳng giằng  
này phụ thuộc vào độ cao của tầng nhà. Riêng mặt trên và dới tầng khung thứ nhất  
không giằng giữa các cột chống để lấy lối đi lại, cao khoảng từ 1,8 m 3,35m, giữa  
các cột chống trong tầng nhà.  
7. Sau khi lắp xong cột chống tổ hợp, tiến hành lắp đặt đà ngang và ván khuôn  
xong, thì mới hoàn thành lắp dựng hệ khuôn dầm, sàn. Toàn bộ hệ thống của giá đỡ  
khung tam giác có thể điều chỉnh chiều cao nhờ các kích chân, trong khi dựng lắp, và  
các kích đầu, sau khi dựng lắp xong cột chống tổ hợp.  
Trong khi dựng lắp chân chống của giáo PAL, cần chú ý những điểm sau:  
-Lắp các thanh giằng nằm ngang theo 2 phương vuông góc và chống chuyển vị  
bằng giằng chéo. Trong khi dựng lắp, không được thay thế các bộ phận phụ kiện  
của chân chống bằng đồ vật khác.  
19  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Trường Đại Học Vinh – Khoa Xây Dựng  
- Toàn bộ hệ thống chân chống phải đợc liên kết vững chắc điều chỉnh cao thấp  
bằng các đai ốc cánh của các bệ kích.  
- Phải điều chỉnh khớp nối đúng vị trí để lắp đợc chốt giữ khớp nối.Trong trường  
hợp khung tam giác chịu tải trọng nén mà không chịu tải trọng kéo thì không cần lắp  
chốt giữ khớp nối.  
Khoá ván của bộ ván khuôn thép định hình  
IV. Ván khuôn cột  
Ván khuôn cho cột hình chữ nhật gồm hai tấm trong và hai tấm ngoài, liên kết giữa  
chúng bằng đỉnh.Khi lắp ván khuôn, chân hộp khuôn đặt lên khung định vị; khung  
định vị liên kết với móng hoặc sàn bê tông. khung định vị phải đặt đúng toạ độ và cao  
độ quy định để lắp ván khuôn cột được chính xác. Áp lực ngang của bê tông mới đổ  
do gông cột chịu. Gông cột làm bằng gỗ hoặc kim loại. Để làm vệ sinh, tại chân hộp  
ván khuôn bố trí một cửa cửa này được lắp kín lại trước khi đổ bê tông.  
Khoảng cách giữa các gông và kích thước gông nêu ở bảng sau:  
Chú ý: - Ván khuôn cột trong bảng này làm bằng ván dầy 25mm  
- Khi kích thước cột lớn hơn 1m, khoảng cách giữa các gông và tiết diện gông được  
xác định theo tính toán.  
Với nhà nhiều tầng, kích thước của cột thường được giảm đi từ tầng dưới lên tầng  
trên.  
20  
Báo CáoThực Tập Công Nhân  
GVHD: Nguyễn Duy Khánh  
Tải về để xem bản đầy đủ
docx 28 trang yennguyen 01/04/2022 5220
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo Thực tập công nhân - Phan Văn Thông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxbao_cao_thuc_tap_cong_nhan_phan_van_thong.docx