Bài tập Xây dựng Đảng
XÂY DỰNG ĐẢNG
Câu 1: Phân tích thực trạng và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng công
tác kiểm tra, giám sát Đảng hiện nay. Liên hệ ở Đảng bộ đồng chí.
Trả lời:
Kế thừa các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
Ðảng Cộng sản Việt Nam trong quá trình phát triển luôn chú trọng công tác kiểm tra,
giám sát của Ðảng. Điều này trở thành tất yếu khách quan giúp cho Ðảng nâng cao năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu góp phần hoàn thành vai trò lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Ðể bảo đảm cho tổ chức Ðảng thật sự trong sạch, vững mạnh trong tình hình hiện nay,
không thể thiếu hoạt động kiểm tra, giám sát của Ðảng. Ðặc biệt trong gần 30 năm đổi
mới, công tác kiểm tra của Ðảng đã góp phần quan trọng vào việc bảo vệ đường lối,
quan điểm, các nguyên tắc của Ðảng; thúc đẩy thực hiện các nhiệm vụ chính trị; xây
dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên; nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức đảng; góp phần tăng cường, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Ðảng...
1. Công tác Kiểm tra của Đảng là việc các tổ chức đảng xem xét, đánh giá, kết
luận về ưu điểm, khuyết điểm hoặc vi phạm của đối tượng kiểm tra trong việc chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của
Nhà nước.
Công tác Giám sát của Đảng là việc các tổ chức đảng theo dõi, xem xét, đánh giá
hoạt động nhằm kịp thời tác động để đối tượng giám sát chấp hành nghiêm Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, pháp luật của Nhà
nước.
Giữa kiểm tra và giám sát của Đảng về cơ bản có nhiều điểm giống nhau và có
mối liên hệ tác động qua lại lẫn nhau. Do đó, muốn thực hiện tốt việc giám sát thì phải
có theo dõi, xem xét tình hình hoạt động thực tế của đối tượng bị giám sát. Ngược lại,
muốn thực hiện tốt việc kiểm tra thì phải giám sát. Càng làm tốt việc giám sát, thì giúp
cho việc kiểm tra càng trúng, càng đúng và chất lượng, hiệu quả của kiểm tra càng cao.
2. Trong điều kiện đảng cầm quyền, cùng với công tác cán bộ, công tác kiểm tra,
giám sát trở thành công việc then chốt, trọng tâm nhất. V.I.Lênin đã viết: “Theo ý tôi,
điều chủ yếu là chuyển trọng tâm từ việc soạn thảo các sắc lệnh và mệnh lệnh (đấy là
chúng ta u mê đến ngu xuẩn) sang việc lựa chọn người và kiểm tra sự thực hiện. Đó là
vấn đề then chốt”. “Tìm người, kiểm tra công việc - tất cả là ở đó”. Nếu không làm như
thế, “tất cả mọi mệnh lệnh và quyết định sẽ chỉ là mớ giấy lộn”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đánh giá rất cao vai trò của công tác kiểm tra, giám sát, coi
đây là công tác không thể thiếu và có tính quyết định đối với hiệu quả lãnh đạo. Người
khẳng định: “Khi đã có chính sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách
đó là do nơi cách tổ chức công việc, nơi lựa chọn cán bộ và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều
ấy sơ sài, thì chính sách đúng mấy cũng vô ích”.
Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo chủ yếu của Đảng. Lãnh đạo cũng có
nghĩa là kiểm tra, giám sát. Nếu buông lỏng việc kiểm tra, giám sát thì cũng bằng không,
coi như không có lãnh đạo. Báo cáo sửa đổi Điều lệ Đảng tại Đại hội Đảng toàn quốc
lần thứ III (1960) đã xác định: “Phải tăng cường kiểm tra và giám sát của Đảng đối với
cán bộ và cơ quan Nhà nước, giữ gìn kỷ luật nghiêm minh, xử lý thích đáng đối với
những phần tử quan liêu, gây tác hại nghiêm trọng cho Đảng và Nhà nước”. Văn kiện
Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII cũng xác định: “Công tác kiểm tra có vị trí cực kỳ
quan trọng trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Kiểm tra và giữ gìn kỷ luật của
Đảng là nhiệm vụ của toàn Đảng”.
Trong xây dựng nội bộ đảng, cùng với công tác tư tưởng và công tác tổ chức,
công tác kiểm tra, giám sát có vai trò và ý nghĩa to lớn. Kiểm tra, giám sát được tiến
hành thường xuyên, đúng nguyên tắc sẽ góp phần bảo vệ Cương lĩnh chính trị, đường
lối, chiến lược, các nghị quyết, chỉ thị của Đảng được xác định đúng, quán triệt đầy đủ
và được tổ chức thực hiện tốt. Kiểm tra, giám sát vùa góp phần nâng cao chất lượng lãnh
đạo, vừa làm cho sự lãnh đạo của Đảng gắn với thực tiễn hơn; đảm bảo tính thống nhất
tuyệt đối giữa nghị quyết và sự chấp hành, giữa lời nói và việc làm, giúp cho các cấp
lãnh đạo của Đảng khắc phục có hiệu quả bệnh quan liêu, chủ quan, duy ý chí, thiếu
trách nhiệm… Đồng thời công tác kiểm tra, giám sát được tiến hành có nền nếp, đúng
quy trình sẽ góp phần ngăn ngừa các biểu hiện mất đoàn kết, vô kỷ luật, đảm bảo cho
nguyên tắc tập trung dân chủ được thực hiện nghiêm túc, khắc phục tình trạng suy thoái
về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên.
Hiện nay, Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng duy nhất cầm quyền, nắm giữ vận
mệnh của đất nước, dân tộc. Nhưng ở trong Đảng và bộ máy nhà nước “tình trạng suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân và tệ quan
liêu, tham nhũng, lãnh phí trong một bộ phận cán bộ, công chức diễn ra nghiêm trọng.
Nhiều tổ chức cơ sở đảng thiếu tính chiến đấu và không đủ năng lực giải quyết những
vấn đề phức tạp nảy sinh”. Nguyên tắc tập trung dân chủ của Đảng bị vi phạm nghiêm
trọng; tự phê bình và phê bình yếu kém, hình thức; quan hệ nội bộ có lúc bị đồng tiền và
quyền lực chi phối.
Một Đảng lãnh đạo cả hệ thống chính trị nếu không được kiểm tra, giám sát chặt
chẽ rất dễ lộng quyền, lạm quyền, quan liêu, tham nhũng. Đây cũng là một trong những
nguyên nhân chủ yếu làm suy yếu và tan rã Đảng. Vì vậy, tăng cường kiểm tra, giám sát
hoạt động của tổ chức đảng và đảng viên hiện nay trở nên vô cùng bức thiết, nó xuất
phát từ đòi hỏi khách quan của công tác xây dựng Đảng và yêu cầu của giai đoạn cách
mạng mới, từ vị trí, vai trò của Đảng ta trước dân tộc và tiến bộ xã hội.
3. Công tác kiểm tra, giám sát luôn được Đảng ta coi trọng trong suốt quá trình
lãnh đạo cách mạng từ khi thành lập cho đến nay. Đảng đã xác định: kiểm tra, giám sát
là những chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan trọng trong toàn bộ công tác
xây dựng Đảng; tổ chức đảng phải tiến hành công tác kiểm tra, giám sát; tổ chức đảng
và đảng viên phải chịu sự kiểm tra, giám sát của Đảng; không kiểm tra coi như không
lãnh đạo. Từ sau Đại hội VIII của Đảng tới nay, công tác này có những thành tựu, hạn
chế sau:
* Thành tựu
Đảng ta đã có nhiều nỗ lực trong việc bổ sung, phát triển, hoàn thiện các quan
điểm, nguyên tắc và phương pháp của công tác này. Đồng thời đã tăng cường chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của uỷ ban kiểm tra các cấp để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
trong giai đoạn cách mạng hiên nay. Tính riêng trong nhiệm kỳ khoá X, Trung ương, Bộ
Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 34 văn bản, hình thành một hệ thống tương đối đồng
bộ các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật trong Đảng. Đặc biệt,
Ban Chấp hành Trung ương khoá X đã ra Nghị quyết về “Tăng cường công tác kiểm tra,
giám sát của Đảng” và Bộ Chính trị ban hành Kết luận về “Chiến lược công tác kiểm
tra, giám sát của Đảng đến năm 2020”để giải quyết những vấn đề vừa trước mắt, vừa
lâu dài trong công tác này của toàn Đảng. Mới đây, Ban Chấp hành Trung ương khoá XI
tiếp tục ra Quyết định 46-QĐ/TW, ngày 1/11/2011 về “Ban hành hướng dẫn thực hiện
các quy định về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng trong Chương VII,
Chương VIII Điều lệ Đảng” và Bộ Chính trị tiếp tục ra Quyết định số 68-QĐ/TW về “Ban
hành Quy chế giám sát trong Đảng”.
Thực hiện các quan điểm, chủ trương chiến lược và chương trình kiểm tra, giám
sát đã đề ra, công tác kiểm tra, giám sát của cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra các
cấp đã có những chuyển biến tích cực, khá toàn diện. Ủy ban Kiểm tra Trung ương và
ủy ban kiểm tra các cấp đã chủ động, tích cực thực hiện kiểm tra các lĩnh vực quan trọng
như: phòng chống tham nhũng, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, về Chiến lược cán
bộ, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, cải cách hành chính… Quá trình thực hiện
luôn chú trọng những nơi phức tạp, nhạy cảm, những vụ việc bức xúc, nổi cộm. Tính
chất, mức độ các cuộc kiểm tra sâu sát, quyết liệt hơn so với trước kia. Giám sát là một
nhiệm vụ mới, nhưng quá trình thực hiện đã có kết quả và tác dụng bước đầu trong việc
hạn chế và phòng ngừa vi phạm, tiêu cực của tổ chức đảng và đảng viên. Bộ máy tổ
chức của uỷ ban kiểm tra các cấp được quan tâm kiện toàn; đội ngũ cán bộ kiểm tra
được tăng cường về số lượng và nâng cao chất lượng; chế độ, chính sách đối với cán bộ
kiểm tra được xem xét, bổ sung đã tạo được động lực mới cho tính tích cực trong thi
hành công vụ.
Thực tế cho thấy, qua kiểm tra, giám sát đã phát hiện nhiều sơ hở, bất cập trong
quản lý kinh tế - xã hội mà người thực thi công vụ lợi dụng để trục lợi, gây thiệt hại lợi
ích của Nhà nước, lợi ích chính đáng của người dân; phát hiện những cơ chế, chính sách
không phù hợp với thực tế cuộc sống để từ đó làm cơ sở kiến nghị với các cơ quan chức
năng sửa đổi, bổ sung, từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách thúc đẩy phát triển kinh
tế - xã hội.
* Hạn chế
Nhận thức của một số cấp uỷ, tổ chức đảng, đảng viên về vị trí, vai trò công tác
kiểm tra, giám sát của Đảng chưa đầy đủ. Việc thực hiện một số nhiệm vụ, quy định mới
của Đảng còn lúng túng, hiệu quả chưa cao như việc thực hiện chất vấn trong Đảng,
thực hiện chức năng giám sát của Đảng… Số đảng viên bị kỷ luật không giảm, xử lý kỷ
luật có trường hợp chưa nghiêm, chưa kịp thời. Công tác giám sát chưa có nhiều chuyển
biến; việc giám sát thường xuyên, nắm tình hình, phát hiện dấu hiệu vi phạm và những
vấn đề nổi cộm ở một số địa phương, đơn vị chưa kịp thời nên ít tác dụng phòng ngừa vi
phạm hoặc phát hiện vi phạm ngay từ khi mới manh nha… Trong nhiệm kỳ Đại hội X,
số đảng viên bị thi hành kỷ luật (do mắc phải những khuyết điểm tham nhũng, suy thoái
về chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống) chiếm 14,4% tổng số đảng viên bị thi hành kỷ
luật, năm 2011 là 13,8%, năm 2012 là 14%. Đặc biệt trong năm 2014, tình hình vi phạm
kỷ luật Đảng trong thời gian qua còn tiếp tục diễn biến phức tạp, tỷ lệ đảng viên bị kỷ
luật là cấp ủy viên các cấp còn cao (30,7%) cho thấy việc tu dưỡng, rèn luyện và chấp
hành kỷ luật đảng của một số đảng viên có chức vụ còn nhiều hạn chế, kỷ luật do vi
phạm chính sách dân số, kế hoạch hóa gia đình có chiều hướng gia tăng, tỷ lệ đảng viên
có vi phạm bị khai trừ chiếm 12%, bị phạt tù chiếm 1,4% so với số bị thi hành kỷ luật
cho thấy tình hình vi phạm trong Đảng thời gian qua vẫn còn nghiêm trọng, chưa được
kiềm chế. Một số trường hợp giải quyết khiếu nại, tố cáo còn chậm thời gian so với quy
định, tỷ lệ thay đổi hình thức kỷ luật qua giải quyết khiếu nại, tố cáo còn cao…
Uỷ ban kiểm tra và cán bộ kiểm tra một số nơi chưa đủ mạnh, chưa ngang tầm với
nhiệm vụ, chưa bám sát cơ sở, địa bàn, lĩnh vực đã dẫn đến để vi phạm xảy ra kéo dài,
làm cho tình hình trở nên phức tạp, gây hậu quả nghiêm trọng.
* Nguyên nhân của những hạn chế trên một phần do các cấp ủy quan tâm chưa
đúng mức, nhận thức chưa đầy đủ, chưa sâu sắc về nội dung, ý nghĩa và tác dụng của
công tác kiểm tra, giám sát của đảng, có nơi đề ra được chương trình, kế hoạch nhưng
chưa sát với tình hình thực tế ở địa phương, đơn vị; việc tổ chức thực hiện còn lúng
túng, chưa kịp thời.
Một số cấp ủy chưa thật sự chủ động trong việc xác định cụ thể nội dung, tiêu chí
đánh giá việc triển khai, thực hiện nghị quyết của Đảng; chưa quan tâm đúng mức trong
lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm tra, giám sát đối với ủy ban kiểm tra cùng cấp, các cơ
quan tham mưu giúp việc và cấp ủy cấp dưới.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, năng lực công tác của một số cán bộ kiểm tra
chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, tình hình mới.
Một bộ phận cán bộ đảng viên tính gương mẫu chưa cao, sống thực dụng, ngại rèn
luyện phấn đấu; chế độ tự phê bình và phê bình chưa được thực hiện nghiêm chỉnh; chế
độ giám sát cán bộ, quản lý đảng viên chưa được chặt chẽ. Trong xem xét, góp ý đánh
giá cán bộ, đảng còn có biểu hiện né tránh, nể nang.
4. Đại hội XI của Đảng xác định đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát là một trong những nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm của công tác xẫy dựng
Đảng, đặc biệt nhấn mạnh: các cấp ủy, tổ chức đảng phải nâng cao tinh thần trách
nhiệm, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ kiểm tra, giám sát theo Điều lệ Đảng. Tập trung kiểm
tra, giám sát việc chấp hành Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, luật pháp,
chính sách của Nhà nước… Trong thời gian tới, cần thực hiện tốt các biện pháp cơ bản
và cấp bách sau:
Một là, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức của các cấp ủy, tổ chức
đảng, Ủy ban kiểm tra, trước hết là người đứng đầu cấp ủy về công tác kiểm tra, giám
sát Đảng.
Hai là, xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước
phục vụ công tác kiểm tra, giám sát Đảng.
Ba là, đổi mới tăng cường công tác kiểm tra, giám sát Đảng của cấp ủy, tổ chức
đảng, Ủy ban kiểm tra các cấp và chi bộ, bảo đảm hiệu lực, hiệu quả.
Bốn là, hoàn chỉnh quy trình, phương pháp kiểm tra, giám sát Đảng.
Năm là, kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan Ủy ban kiểm tra và tăng cường cán bộ
các cấp bảo đảm tương xứng với chức năng, quyền hạn và nhiệm vụ được giao.
Sáu là, tăng cường đầu tư, hiện đại hóa cơ sở vật chất, kỹ thuật, phương tiện làm
việc cho công tác kiểm tra, giám sát của Đảng.
Bảy là, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn về
công tác kiểm tra, giám sát Đảng.
5. Liên hệ ở Đảng bộ đồng chí ( tự liên hệ)
Bạn đang xem tài liệu "Bài tập Xây dựng Đảng", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- bai_tap_xay_dung_dang.doc