Bài thu hoạch Chuyên đề năm 2019: Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh

LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG HUYỆN TÂY GIANG  
CÔNG ĐOÀN TRƯỜNG TIỂU HỌC ATIÊNG  
BÀI THU HOẠCH  
Chuyên đề năm 2019: “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy  
quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo  
đức, phong cách Hồ Chí Minh.  
Họ và tên: Lê Văn Lượng  
Chức danh, chức vụ: Giáo viên  
Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Atiêng  
Atiêng, tháng 4 năm 2019  
LIÊN ĐOÀN LAO ĐỘNG HUYỆN TÂY GIANG  
CÔNG ĐOÀN TRƯỜNG TIỂU HỌC ATIÊNG  
***  
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM  
Độc lập- Tự do- Hạnh phúc  
Atiêng, ngày 06 tháng 4 năm 2019  
BÀI THU HOẠCH  
Chuyên đề năm 2019: “Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy  
quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo  
đức, phong cách Hồ Chí Minh”  
Họ và tên: Lê Văn Lượng  
Chức vụ: Giáo viên  
Đơn vị Công tác tại: Trường Tiểu học Atiêng  
Qua học tập và nghiên cứu chuyên đề Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân,  
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng,  
đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, tôi xin trình bày những nhận thức, những kết  
quả thực hiện cụ thể của bản thân trong bài thu hoạch chỉ thị 05 năm 2019, bài thu  
hoạch chỉ th05 như sau:  
Xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm lo đời sống  
Nhân dân là nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tạo động lực to lớn cho  
công cuộc đổi mới; đồng thời giải pháp quan trọng, cấp bách trong xây dựng  
Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị giai đoạn hiện nay.  
Năm 2019 là năm chúng ta kỷ niệm 50 năm thực hiện Di chúc của Người  
(1969 - 2019); 70 năm Bác viết tác phẩm Dân vận (1949 - 2019); 50 năm tác phẩm  
“Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân” (1969 - 2019). Thực  
hiện hiệu quả chủ đề xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ,  
chăm lo đời sống Nhân dân trong năm 2019 và các năm tiếp theo là thực hiện tốt  
Chỉ thị 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về đẩy mạnh học tập và làm theo tư  
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.  
I. TƯ TƯỞNG, ĐẠO ĐỨC, PHONG CÁCH HỒ CHÍ MINH VỀ TÔN  
TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI SỐNG  
NHÂN DÂN  
1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ,  
chăm lo đời sống Nhân dân  
1
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân xuất phát từ những bài học  
lớn được rút ra từ chiều sâu của lịch sử như Nguyễn Trãi đã kết luận: Lật thuyền  
mới rõ dân như nước. Đồng thời sự vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết  
Mác-Lênin khi các nhà kinh điển khẳng định cách mạng sự nghiệp của quần  
chúng Nhân dân, Nhân dân đóng vai trò quyết định trong sự nghiệp cách mạng.  
Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng và kháng chiến thành công, đem lại giá trị  
lớn nhất chế độ Dân chủ Cộng hòa. Từ đây, phạm trù “ý thức tôn trọng nhân  
dân” mới thật sự có ý nghĩa khoa học, cách mạng và nhân văn. Theo Hồ Chí Minh,  
người cách mạng “yêu nước” phải “thương dân”, “trung với nước” phải “hiếu  
với dân”.  
Tôn trọng Nhân dân trước hết phải có thái độ đánh giá cao vai trò, vị trí của  
Nhân dân. Theo Hồ Chí Minh, “luận việc đều do người làm ra, từ nhỏ đến to,  
từ gần đến xa đều thế cả”. Người chỉ ra rằng: “Chúng ta phải ghi tạc vào đầu cái  
chân lý này: dân rất tốt. Lúc họ đã hiểu thì việc gì khó khăn mấy họ cũng làm được,  
hy sinh mấy họ cũng không sợ”. Theo Người, “nếu không có nhân dân thì Chính  
phủ không đủ lực lượng… Chúng ta phải yêu dân, kính dân thì dân mới yêu ta,  
kính ta”.  
Bàn về chữ “Nhân”, Hồ Chí Minh cho rằng “Nhân nghĩa là nhân dân. Trong  
bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực  
lượng đoàn kết của nhân dân”. Bàn về chữ “Thiện”, Người cho rằng “Thiện tốt  
đẹp. Trong xã hội không gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ cho lợi ích của nhân  
dân”.  
Muốn thật sự tôn trọng Nhân dân thì phải hiểu dân. Chính tài dân, sức dân,  
của dân, quyền dân, lòng dân, sự khôn khéo, hăng hái, anh hùng đã tạo nên “cái  
gốc” của dân. Kế thừa quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh khẳng định  
“cách mạng sự nghiệp của quần chúng nhân dân” Mặt khác phải thấy rằng dân  
chúng tai mắt họ nhiều, việc họ cũng nghe, cũng thấy. “Dân chúng đồng lòng,  
việc cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”. Hồ  
Chí Minh chỉ rõ: “Kinh nghiệm trong nước và các nước tỏ cho chúng ta biết: có  
lực lượng dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì  
việc gì làm cũng không xong”.  
Cùng với thái độ đánh giá cao vai trò của Nhân dân, ý thức tôn trọng Nhân  
dân còn phải đặc biệt chú ý không xâm phạm đến lợi ích, quyền lợi hợp pháp,  
không xúc phạm Nhân dân. Phải luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công, của  
Nhân dân. Hồ chí Minh chỉ rõ tôn trọng Nhân dân có nhiều cách, “không phải ở  
2
chỗ chào hỏi kính thưa lễ phép mà đủ. Không được phung phí nhân lực vật lực  
của dân, Khi huy động nên vừa phải, không nên nhiều quá lãng phí vô ích. Phải  
khôn khéo tránh điều gì có hại cho đời sống nhân dân. Biết giúp đỡ nhân dân cũng  
biết tôn trọng dân”.  
Trên cơ sở nhận thức “nước lấy dân làm gốc”, ý thức tôn trọng Nhân dân phải  
luôn gắn chặt những “điều không nên” và những “điều nên” làm. Giữa năm 1948,  
Hồ Chí Minh đã chỉ ra 6 điều không nên làm và 6 điều nên làm. Trong 6 điều  
không nên làm có những điều liên quan đến cuộc sống hàng ngày của Nhân dân  
nói chung, đồng bào miền ngược nói riêng như tín ngưỡng phong tục, đáng chú ý  
là “không bao giờ sai lời hứa”, “không nên làm hoặc nói điều gì có thể làm cho  
dân hiểu lầm rằng mình xem khinh họ”. Những điều nên làm cũng liên quan đến  
công việc thực tế hàng ngày, đặc biệt là “làm cho dân nhận thấy mình là người  
đứng đắn, chăm công việc, trọng kỷ luật”. Hồ Chí Minh kết thúc 12 điều đó bằng  
bài thơ cổ động khẳng định đã người yêu nước thì “nhất quyết không quên” và  
ai cũng làm được, phải biến thành thói quen, muôn người như một. Làm được như  
vậy thì dân tin, gốc vững. “Gốc vững cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên  
nền nhân dân”.  
- Phát huy dân chủ một khía cạnh biểu hiện ý thức tôn trọng Nhân dân.  
Trong chế độ Dân chủ Cộng hòa, dân là chủ, thì Chính phủ, Đảng, cán bộ từ trung  
ương đến địa phương đều phải phụng sự Nhân dân, là công bộc của dân, “sẵn sàng  
vui vẻ làm trâu ngựa, làm tôi tớ trung thành của nhân dân”. Từ chỗ đánh giá cao  
vai trò của dân, Hồ Chí Minh nhấn mạnh trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong  
việc phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, làm sao cho họ năng lực làm chủ,  
biết hưởng, dùng quyền dân chủ, dám nói, dám làm. Dân chủ được Người giải  
thích ngắn gọn, súc tích là dân làm chủ và dân là chủ.  
Hồ Chí Minh kiên trì xây dựng một nhà nước thật sự dân chủ - nhà nước của  
dân, do dân, vì dân. Mối quan tâm hàng đầu của Người là làm cho mọi người dân  
hiểu nhà nước mới, chế độ mới khác nhà nước cũ, chế độ cũ ở điều quan trọng  
nhất là giá trị dân chủ. Dân chủ tức là Nhân dân có quyền lợi làm chủ phải có  
nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Nước dân chủ, chế độ dân chủ thì bao nhiêu  
lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân, công việc đổi mới là trách  
nhiệm của dân, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Trong nước dân chủ thì địa  
vị cao nhất là dân, dân là qnhất, lực lượng Nhân dân là mạnh nhất.  
Phát huy dân chủ là phát huy tài dân. Bởi vì, “dân chúng biết giải quyết nhiều  
vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, những người tài giỏi, những  
3
đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra”. Muốn vậy, thì phải chịu khó nghe dân, gặp  
dân, hiểu dân, học dân, hỏi dân. Học hỏi dân để lãnh đạo dân. Theo Hồ Chí Minh  
“Không học hỏi dân thì không lãnh đạo được dân. biết làm học trò dân, mới  
làm được thầy học dân”.  
Khi người dân chưa hiểu dân chủ là gì thì không thể thực hành dân chủ thật  
sự. vậy phát huy dân chủ phải tìm mọi cách bàn bạc, giải thích cho dân hiều  
rõ. “Được dân chúng đồng ý. Do dân chúng vui lòng ra sức làm”. Phát huy dân chủ  
là tìm đủ cách giải thích cho dân hiểu, ngay cả những việc trực tiếp lợi cho dân,  
như đắp đê, hộ đê, tăng gia sản xuất, bình dân học vụ. Giống như đem một cái  
bánh ngọt ngon lành bắt người ta ăn, nhét vào miệng người ta, thì ai cũng chán.  
Nếu làm theo cách hạ lệnh, cưỡng bức, thì dân không hiểu, dân oán. “Dân oán, dù  
tạm thời may có chút thành công, nhưng về mặt chính trị, thất bại”. Trên cơ sở  
tin vào dân chúng, phát huy dân chủ “nghị quyết gì mà dân chúng cho là không  
hợp thì để họ đề nghị sửa chữa. Dựa vào ý kiến dân chúng mà sửa chữa cán bộ và  
tổ chức của ta”.  
- Về chăm lo đời sống Nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh là vì con người,  
do con người, trước hết là vì dân và do dân. Người nói rằng “tôi chỉ một sự ham  
muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta  
được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng cơm ăn áo mặc, ai cũng được học  
hành”. Từ lúc còn là người thiếu niên mười lăm tuổi, Hồ Chí Minh đã sớm hiểu  
biết rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Người quyết tâm đi ra nước  
ngoài tìm đường cứu nước, cứu dân.  
Cách mạng Tháng Tám thành công, một ngày sau Tuyên ngôn độc lập, Hồ  
Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách giải quyết những vấn đề về đời sống vật  
chất và tinh thần của Nhân dân. Người nhấn mạnh “muốn cho dân yêu, muốn được  
lòng dân, việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết  
sức tránh. Phải chú ý giải quyết hết các vấn đề dầu khó khăn đến đâu mặc lòng,  
những vấn đề quan hệ đến đời sống của dân. Phải chấp đơn, phải xử kiện cho dân  
mỗi khi người ta đem tới. Phải chăm lo việc cứu tế nạn nhân cho chu đáo, phải chú  
ý trừ nạn mũ chữ cho dân. Nói tóm lại hết thảy những việc thể nâng cao đời  
sống vật chất và tinh thần của dân phải được ta đặc biệt chú ý”.  
Sau khi đã tranh được độc lập rồi thì vấn đề kiến quốc hết sức quan trọng.  
Bởi vì, “nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng  
chẳng nghĩa lý gì”. Với nhận thức đó, cùng với chỉ đạo kháng chiến, Hồ Chí  
Minh tập trung vào nhiệm vụ kiến quốc. Kháng chiến kiến quốc gắn chặt chẽ  
4
với nhau. Muốn kháng chiến thành công thì phải sức dân, lòng dân. Muốn có  
sức dân, lòng dân thì phải chăm lo đời sống của dân. Hồ Chí Minh nhấn mạnh:  
“Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc  
lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân  
được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải thực hiện ngay: 1. Làm cho dân có ăn; 2. Làm  
cho dân có mặc; 3. Làm cho dân có chỗ ở; 4. Làm cho dân có học hành. Cái mục  
đích chúng ta đi đến bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng đáng với tự do  
độc lập và giúp sức được cho tự do độc lập”.  
Trước lúc đi xa, Hồ Chí Minh vẫn quan tâm “đầu tiên là công việc đối với  
con người”. Người dặn trong Di chúc “Đảng cần phải kế hoạch thật tốt để phát  
triển kinh tế văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”.  
2. Đạo đức Hồ Chí Minh về tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, chăm  
lo đời sống Nhân dân  
- Đạo đức Hồ Chí Minh về ý thức tôn trọng Nhân dân thể hiện nổi bật ở sự  
thống nhất giữa tư tưởng đạo đức tư tưởng chính trị của Người. Nho giáo nhấn  
mạnh đạo đức, cường điệu tác dụng của đạo đức cốt trừ hại cho giới cầm quyền  
hơn là vì lợi ích của nhân dân. Đó học thuyết để cho phong kiến trị dân. Trung  
thành với chế độ phong kiến đi ngược lại với lẽ tiến hóa tất yếu của con người,  
đi ngược lại với lợi ích của nhân dân. Sự khác nhau căn bản giữa Khổng Tử Hồ  
Chí Minh, giữa học thuyết Nho giáo và tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là ở chỗ:  
nhà vua và chế độ phong kiến - cái mà Nho giáo tôn thờ nhất, chính là cái cách  
mạng lên án và đánh đổ. Hồ Chí Minh không thể chấp nhận lòng trung thành tuyệt  
đối của Nhân dân bị áp bức đối với chính kẻ áp bức mình là nhà vua và chế độ  
phong kiến, mà là trung thành với sự nghiệp cách mạng của Nhân dân, lên án chế  
độ phong kiến. Điều sâu xa trong mối quan hệ đạo đức với chính trị chính là Hồ  
Chí Minh đã lật ngược học thuyết Nho giáo, đưa quần chúng Nhân dân chỉ tầng  
lớp thấp kém đáng khinh rẻ, cần được chăn dắt theo quan niệm của Nho giáo lên  
địa vị người chủ của đất nước, thực hiện quyền dân chủ của quần chúng.  
Thắng lợi của cách mạng Việt Nam được tạo nên bởi một tư tưởng lớn, đồng  
thời đạo đức lớn. Nhiều luận điểm, mệnh đề trong di sản Hồ Chí Minh vừa là  
chính trị vừa đạo đức, như “nước lấy dân làm gốc”; “chúng ta thà hy sinh tất cả  
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”; “không có  
việc gì khó, chỉ sợ lòng không bền, đào núi và lấp biển, quyết chí ắt làm nên”, v.v..  
Ý thức tôn trọng Nhân dân khía cạnh đạo đức cần phải khai thác ở việc coi  
trọng, đề cao nhân dân như Hồ Chí Minh đã chỉ ra: “Ý dân là ý trời. Làm đúng ý  
5
nguyện của dân thì ắt thành. Làm trái ý nguyện của dân thì ắt bại”. Tôn trọng Nhân  
dân trong đạo đức Hồ Chí Minh là đề cao ý dân, sức dân, bởi “dễ mười lần không  
dân cũng chịu. Khó trăm lần dân liệu cũng xong”. Vì vậy, “đối với dân ta đừng có  
làm điều gì trái ý dân. Dân muốn gì, ta phải làm nấy”. Người yêu cầu cán bộ, đảng  
viên hết lòng, hết sức phục vụ Nhân dân, yêu kính Nhân dân, thật sự tôn trọng  
Nhân dân.  
Đạo đức nói chung, liên quan đến tôn trọng Nhân dân nói riêng thì phải nêu  
gương về trong sạch, đề cao chữ Liêm. Theo Hồ Chí Minh, đạo đức về tôn trọng  
Nhân dân là không xâm phạm đến Nhân dân, một trong những biểu hiện nhất là  
thực hành chữ Liêm. Liêm là trong sạch, không tham lam, tham ô, tham nhũng. Hồ  
Chí Minh chỉ ra rằng “những người ở các công sở, từ làng cho đến Chính phủ  
Trung ương, đều dễ tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc khoét đục  
nhân dân… Vì vậy, những người trong công sở phải lấy chữ Liêm làm đầu”. Liêm  
thì phải đi với Kiệm, kiệm mới liêm được, vì xa xỉ mà sinh ra tham lam. Tôn  
trọng Nhân dân là trách nhiệm của Đảng, Chính phủ, cán bộ, đảng viên, công chức,  
viên chức, những người “ăn lương của dân, làm việc cho dân, phải được dân tin  
cậy”. vậy, những người làm trong các công sở phải làm gương cho dân bắt  
chước. “Những người trong các công sở đều nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu  
không giữ đúng Cần, Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt  
của dân”.  
Đã là sâu mọt, khoét đục - nhất là “có quyền thiếu lương tâm là có dịp đục  
khoét, có dịp ăn của đút, dịp “dĩ công vi tư” - thì không thể gọi trọng dân. Vì  
vậy, “cán bộ phải thực hành chữ LIÊM trước, để làm kiểu mẫu cho dân”.  
- Đạo đức Hồ Chí Minh về phát huy dân chủ. Dân chủ như đã bàn đến,  
được hiểu ngắn gọn: dân là chủ và dân làm chủ. Từ chỗ nâng cao dân trí, bồi  
dưỡng ý thức, năng lực làm chủ, phát triển văn hóa chính trị và tính tích cực công  
dân, khuyến khích Nhân dân tham gia vào công việc của Đảng, Chính phủ, thì một  
điều  
quan trọng tạo điều kiện cho dân “dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám  
làm”.  
Nhận thức khoa học giải quyết tốt mối quan hệ giữa cán bộ và lãnh đạo với  
Nhân dân trong chế độ dân chủ một nội dung trọng yếu của đạo đức trong phát  
huy dân chủ. Sự vi phạm đạo đức về mặt dân chủ nhiều nguyên nhân, trong đó  
nổi lên là nhận thức không đúng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của cán bộ và  
lãnh đạo, dẫn đến độc quyền, mệnh lệnh, áp đặt kiểu “quan chủ”. Người yêu cầu  
6
cán bộ, đảng viên nắm chắc quan điểm giai cấp, đi đúng đường lối quần chúng,  
thành tâm học hỏi quần chúng, kiên quyết dựa vào quần chúng, phát động quần  
chúng thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước. Phải khiêm tốn, gần  
gũi quần chúng, không được kiêu ngạo; phải thực sự cầu thị, không được chủ  
quan.  
Hồ Chí Minh nhiều lần chỉ rõ “làm cán bộ tức suốt đời làm đày tớ trung  
thành của nhân dân. Mấy chữ a,b,c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học  
mãi, học suốt đời mới thuộc được”. Về tư cách người đảng viên, lãnh đạo, Người  
nói: “Mỗi người đảng viên, mỗi người cán bộ từ trên xuống dưới đều phải hiểu  
rằng: Mình vào Đảng để làm đày tớ cho nhân dân. Bác nhấn mạnh: Làm đày tớ  
nhân dân chứ không phải làm “quan”nhân dân, không ra lệnh, ra oai, không làm  
quan cách mạng. Quan điểm “mỗi đảng viên và cán bộ phải xứng đáng người  
lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân” cần được hiểu đích cuối  
cùng là phục vụ nhân dân. Bởi vì, “lãnh đạo là làm đày tớ nhân dân và phải làm  
cho tốt”. Hồ Chí Minh giải thích chế độ dân chủ Đảng lãnh đạo rất rõ ràng:  
“Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh  
đạo, nghĩa tất cả các cán bộ, từ trung ương, đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến  
xã, bất kỳ ở cấp nào và ngành nào - đều phải người đày tớ trung thành của nhân  
dân”.  
Trong khi đề cao đạo đức vý thức tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ, Hồ  
Chí Minh nhấn mạnh cần tẩy sạch bệnh quan liêu mệnh lệnh. Bởi vì nguyên nhân  
của bệnh ấy là do nhiều cán bộ ta xa nhân dân, nên không hiểu biết tâm lý, nguyện  
vọng của nhân dân. Khinh nhân dân, cho là “dân ngu khu đen”, bảo sao làm vậy,  
không hiểu được chính trị, luận cao xa như mình”; “cho dân là dốt không biết gì,  
mình là thông thái tài giỏi”.  
Phát huy quyền làm chủ của Nhân dân là phát huy quyền của người dân về  
mọi mặt chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục, chăm sóc sức khỏe...; phải quan tâm  
phát triển năng lực, tiềm năng của mọi người dân.  
Sợ Nhân dân, khi có sai lầm, khuyết điểm thì sợ Nhân dân phê bình mình.  
Không tin cậy Nhân dân, họ quên rằng không có lực lượng Nhân dân, thì việc nhỏ  
mấy, dễ mấy làm cũng không xong, có lực lượng Nhân dân, thì việc to mấy, khó  
mấy làm cũng được. Không hiểu biết Nhân dân, họ quên rằng Nhân dân cần trông  
thấy lợi ích thiết thực, không thể luận suông, chính trị suông. Không yêu thương  
Nhân dân, họ chỉ biết đòi hỏi Nhân dân, không thiết thực giúp đỡ Nhân dân,  
thậm chí có nơi cán bộ lừa phỉnh dân, dọa nạt dân.  
7
-
Đạo đức Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống Nhân dân. Hồ Chí Minh quan  
tâm hàng đầu, một cách rất nhất quán về đạo đức. Người để lại cho chúng ta nhiều  
phẩm chất đạo đức quý báu, cao nhất, cốt lõi là chí công vô tư, tức là nêu cao chủ  
nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Điểm xuất phát tiến đến chí công vô là  
“lòng mình chỉ biết Đảng, Tổ quốc, đồng bào”, làm cán bộ, đảng viên là  
phải “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”.  
Đạo đức Hồ Chí Minh về chăm lo đời sống Nhân dân thể hiện rất quan  
điểm khi Người nói về một trong những điều tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là:  
“Đặt lợi ích của Đảng của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của  
cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Hồ Chí Minh quan niệm phẩm  
chất cao đẹp nhất của người cách mạng là “yêu nước, thương dân”, thương nhân  
loại bị áp bức, bóc lột, lấy điều đó động cơ để làm cách mạng giải phóng dân  
tộc, giải phóng giai cấp. Đảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu  
trong mọi việc”. Theo Hồ Chí Minh, người cách mạng phải đứng vững trên lập  
trường của giai cấp công nhân, để hết lòng hết sức đấu tranh cho chủ nghĩa hội,  
Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, Đảng ta không có lợi  
ích gì khác. Theo Hồ Chí Minh, phận sự của đảng viên và cán bộ phải tổ chức  
Nhân dân, lãnh đạo Nhân dân để giải phóng Nhân dân và và nâng cao sinh hoạt,  
đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa cho Nhân dân. Chăm lo đời sống nhân dân là  
sứ mệnh của Đảng ngay từ khi ra đời. “Đảng không phải một tổ chức để làm  
quan phát tài. phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu  
mạnh, đồng bào sung sướng”.  
Đạo đức một nét đặc trưng bản chất của chủ nghĩa hội. vậy, thể hiện  
nhất về đạo đức chăm lo đời sống nhân dân là trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa  
hội. Chủ nghĩa hội trước hết nhằm làm cho Nhân dân lao động thoát nạn bần  
cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh  
phúc. Mục tiêu của chủ nghĩa hội giải phóng Nhân dân lao động khỏi nghèo  
nàn, lạc hậu. Nêu câu hỏi mục đích của chủ nghĩa hội là gì?, Hồ Chí Minh trả  
lời: “Nói một cách giản đơn dễ hiểu là: Không ngừng nâng cao đời sống vật  
chất và tinh thần của nhân dân, trước hết là nhân dân lao động”. Từ mục tiêu tổng  
quát, Hồ Chí Minh diễn đạt thành những tiêu chí cụ thể: “Chủ nghĩa hội là làm  
sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm  
đau thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không  
tốt dần dần được xóa bỏ… Tóm lại, hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,  
tinh thần ngày càng tốt, đó chủ nghĩa hội”  
8
Cả cuộc đời mình, Hồ Chí Minh không chỉ ra vào chốn tội, xông pha hiểm  
nghèo, ẩn nấp nơi núi non vì mục đích phấn đấu cho quyền lợi của Tổ quốc và  
hạnh phúc của Nhân dân, mà Người còn lo toan đến tương, cà, mắm, muối cho  
dân. Hồ Chí Minh dạy cán bộ, đảng viên tu dưỡng đạo đức không chỉ ở những việc  
lớn, phải quan tâm đến cuộc sống hằng ngày của Nhân dân, từ cái ăn, cái mặc,  
đi lại, học hành, chữa bệnh. Phải biết tiết kiệm từng đồng tiền, hạt gạo của dân.  
Người cho rằng khi đất nước còn khó khăn, nhân dân còn thiếu thốn thì Chủ tịch  
nước mặc áo vá là có phúc cho dân tộc. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đất  
nước phải trải qua nạn đói khủng khiếp, Hồ Chí Minh chủ trương tăng gia sản  
xuất, mỗi người mười ngày nhịn ăn một bữa để góp gạo cứu đói Người cũng đổ  
lon gạo của mình vào hũ tiết kiệm như mọi người dân.  
Trăn trở về đời sống Nhân dân, trong Di chúc, Người không quên nhắc nhở  
Đảng, Nhà nước “chnên tổ chức điếu phúng linh đình, để khỏi lãng phí thì giờ và  
tiền bạc của nhân dân”.  
3. Phong cách Hồ Chí Minh tôn trọng Nhân dân, phát huy dân chủ,  
chăm lo đời sống Nhân dân  
- Phong cách Hồ Chí Minh tôn trọng Nhân dân xuất phát một cách tự nhiên  
từ nhân cách, cuộc đời, cái tâm, cái đức nước, vì dân của Người. Hồ Chí Minh  
là con người sinh ra từ Nhân dân, sống giữa lòng dân và cuối đời lại muốn trở về  
với Nhân dân, làm một cái nhà nho nhỏ, nơi có non xanh nước biếc, câu cá trồng  
hoa, sớm chiều làm bạn với các cụ già hái củi, trẻ em, chăn trâu, không dính líu gì  
với vòng danh lợi. Người thường nói không có Nhân dân thì không có Bác. Hồ Chí  
Minh có trái tim đập cùng nhịp, có tâm hồn biết xót xa đến thân phận của những  
người cùng khổ, của Nhân dân. Chính nhân cách lớn cuộc đời oanh liệt của Hồ  
Chí Minh đã tạo ra phong cách tôn trọng Nhân dân ở Người.  
Đứng ở đỉnh cao quyền lực 24 năm từ năm 1945 đến năm 1969 nhưng Hồ Chí  
Minh không bao giờ hành xử như một người quyền. Người luôn luôn coi Nhân  
dân là chủ, giữ địa vị cao nhất, còn mình chỉ người đày tớ trung thành của dân,  
phục vụ Nhân dân. Khi được Quốc hội giao giữ vị trí Chủ tịch Chính phủ, Người  
coi việc “phải gánh chức Chủ tịch là do đồng bào ủy thác”, đảm trách nhiệm vụ  
Chủ tịch thực hiện mệnh lệnh của Tổ quốc và Nhân dân. Vì vậy, khi nào “đồng  
bào cho tôi lui, thì tôi rất vui lòng lui”. Đọc bản Tuyên ngôn độc lập đến giữa  
chừng, Người dừng lại hỏi: “Tôi nói đồng bào nghe rõ không?”” thật bất ngờ  
nhưng cũng thật dễ hiểu, đó bản tính bình dị, hồn nhiên của Người luôn đề  
cao đồng bào, không đặt mình đứng trên Nhân dân. Về thăm lại Pác Bó, Cao Bằng  
9
năm 1961, thấy đồng bào tổ chức đón tiếp, Người nói: “Tôi về thăm nhà mà sao lại  
phải đón tôi!”. Kêu gọi kháng chiến, kiến quốc, xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh  
thường đặt “đồng bào” lên vị trí hàng đầu. Người yêu cầu cán bộ, đảng viên phải  
“từ trong quần chúng, trở lại nơi quần chúng”, và phải “theo đúng đường lối nhân  
dân”.  
Phong cách tôn trọng Nhân dân của Hồ Chí Minh thể hiện nhiều cách. Người  
chú ý lắng nghe ý kiến giải quyết những kiến nghị chính đáng của quần chúng,  
sẵn sàng tiếp thu phê bình của quần chúng và hoan nghênh quần chúng phê bình  
mình. Theo Hồ Chí Minh, lãnh đạo quần chúng, đồng thời không ngừng học hỏi  
quần chúng, vì “quần chúng chính là những người chịu đựng cái kết quả của sự  
lãnh đạo của ta”; tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng theo tinh thần lãnh đạo  
đày tớ, quần chúng là chủ. Người không bao giờ tự đặt mình cao hơn người khác  
để đòi hỏi một sự tâng bốc, suy tôn; không bao giờ tỏ ra vĩ đại để đòi hỏi Nhân dân  
thừa nhận mình là vĩ đại. Hồ Chí Minh có cách giao tiếp hoàn toàn mới giữa lãnh  
tụ quần chúng Nhân dân, thể hiện thái độ yêu thương, quý mến, trân trọng con  
người. Người sự độ lượng, khoan dung, nâng con người lên, chứ không phải hạ  
thấp, vùi dập con người.  
Hồ Chí Minh yêu trẻ, kính già, trọng phụ nữ. Đón các cháu thiếu niên, nhi  
đồng, Người nói với các đồng chí phục vụ rằng “ở nhà các cháu là con, là cháu của  
các chú, nhưng vào đây các cháu là khách của Bác”. Nhiều chuyện kể cho ta biết  
về phong cách Hồ Chí Minh tôn trọng phụ nữ như việc Người quan tâm một tỷ lệ  
nữ thích đáng trong lãnh đạo, số lượng phụ nữ dự các hội nghị và bao giờ Người  
cũng mời đại biểu phụ nữ lên ngồi những hàng ghế trên. Trong Di chúc, Người dặn  
Đảng và Chính phủ cần phải kế hoạch thiết thực bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ  
để ngày thêm nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc kể cả công việc lãnh đạo.  
Những điều đó toát lên một tư tưởng lớn về một cuộc cách mạng đưa đến quyền  
bình đẳng thật sự cho phụ nữ. Hồ Chí Minh kính trọng người già với một thái độ  
khiêm nhường thật sự, “vô tiền khoáng hậu”, thể hiện một nhân cách văn hóa. Là  
một lãnh tụ được tôn vinh là “cha già dân tộc”, được các tầng lớp nhân dân, cả bè  
bạn thế giới gọi là Bác Hồ, nhưng Hồ Chí Minh vẫn xưng hô mình là cháu đối với  
cụ Phùng Lục 90 tuổi, một phụ lão cứu quốc ở huyện Ứng Hòa, Hà Đông (nay  
thuộc thành phố Nội) đã đem món tiền 500 đồng kính dâng Chủ tịch để sung  
vào Quỹ kháng chiến kiến quốc vào hồi tháng 2-1948.  
-
Phong cách Hồ Chí Minh phát huy dân chủ xuất phát từ chỗ tôn trọng  
Nhân dân, đề cao vai trò, vị trí của Nhân dân. Dù bận rất nhiều công việc đối nội,  
10  
đối ngoại, nhưng về với dân, đến với quần chúng, những người “không quan  
trọng” để học dân, hỏi dân, hiểu dân, nghe dân nói, thấy dân làm, để nắm vững dân  
tình, dân tâm, dân ý là nhu cầu thường trực của Bác. Người ra thao trường cùng bộ  
đội, “chống gậy lên non xem trận địa”, đến nhà máy, công trường, hầm mỏ, nông  
trường, hợp tác xã, trường học, bệnh viện. Người đến nhà giữ trẻ, lớp mẫu giáo, ra  
đồng ruộng, thăm nhà công nhân, cán bộ bình thường v.v.. Hàng trăm lần Hồ Chí  
Minh đi về cơ sở không đơn thuần chỉ là tác phong quần chúng, mà chứa đựng  
trong đó là phong cách phát huy dân chủ. Bởi Người đến với quần chúng là để  
lắng nghe và thấu hiểu, thấu cảm cuộc sống của mọi tầng lớp Nhân dân miền  
ngược, miền xuôi, nông thôn, thành thị. Người muốn nghe được tiếng dân, đi vào  
lòng Nhân dân, hiểu được nhịp đập của cuộc sống xung quanh.  
Phong cách ấy làm cho lãnh tụ quần chúng hòa nhập với nhau trong sự  
đồng cảm sâu sắc nhất. Từ đó mọi người thể nói hết những suy nghĩ trăn trở của  
mình, còn Người cơ sở để giải quyết nguyện vọng, kiến nghị chính đáng của  
Nhân dân . Người nói: “Cán bộ đi về hợp tác xã không phải chỉ đi vào nhà chủ  
nhiệm để chỗ ở sạch sẽ và có cơm nước đàng hoàng mà phải đi vào nhân dân”,  
phải “ba cùng”. Phê bình thói “quan trên về làng”, Hồ Chí Minh yêu cầu “phải làm  
sao cho mỗi khi cán bộ về làng, nhân dân niềm nở vỗ vai, mời “anh” uống nước  
mới tốt. Nếu cán bộ về mà dân trải chiếu hoa, bắt gà làm cơm là không được. Bao  
giờ dân coi cán bộ người của dân, đối với cán bộ không còn “lạy cụ ạ” thì dân  
mới dám nói, dám phê bình”.  
Cùng với thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy dân chủ trong nội  
bộ Đảng với cách làm việc tập thể, dân chủ, tôn trọng tập thể, phát huy sức mạnh,  
cái thông minh của tập thể, phong cách phát huy ý thức dân chủ của Hồ Chí Minh  
còn thể hiện rất đối với quần chúng, phát huy tinh thần làm chủ tập thể của mọi  
người. Khi bàn cách làm và xuất bản loại sách “Người tốt việc tốt” với một số cán  
bộ, Người nói: “Bác muốn bàn luận dân chủ, các chú có ý kiến gì trái với Bác thì  
cứ cãi, nhất trí rồi về làm mới tốt được. Không nên: Bác nói gì, các chú cũng cứ  
ghi vào sổ mà trong bụng thì chưa thật rõ, rồi các chú không làm, hay làm một  
cách qua loa”.  
Trên cơ sở nhận thức dân chúng khôn khéo, hăng hái, anh hùng, Hồ Chí Minh  
căn dặn mỗi cán bộ khi thực hiện phong cách phát huy dân chủ phải bắt đầu từ mỗi  
một khẩu hiệu, mỗi một công việc, mỗi một chính sách của chúng ta, đều phải dựa  
vào ý kiến và kinh nghiệm của dân chúng, phải nghe theo nguyện vọng của dân  
11  
chúng. Muốn hiểu biết, học hỏi dân chúng thì phong cách của người cán bộ phải  
thể hiện sự nhiệt thành, quyết tâm, khiêm tốn, chịu khó.  
Để thực hiện phong cách dân chủ, cần phải hiểu “nếu quần chúng nói mười  
điều chỉ một vài điều xây dựng, như thế vẫn là quý báu và bổ ích. Uy tín của  
người lãnh đạo ở chỗ mạnh dạn thực hiện tự phê bình và phê bình, biết học hỏi  
quần chúng, sửa chữa khuyết điểm, để đưa công việc ngày càng tiến bộ chứ không  
phải ở chỗ giấu giếm khuyết điểm và e sợ quần chúng phê bình”. Một trong những  
kinh nghiệm quý trong thực hiện phong cách phát huy dân chủ “cơ quan nào mà  
trong lúc khai hội, cấp trên để cho mọi người nói hết, cái đúng thì nghe, cái không  
đúng thì giải thích, sửa chữa, ở những cơ quan đó mọi người đều hoạt bát mà bệnh  
“thì thầm thì thào” cũng hết”. Người chỉ rõ: “để phát huy ưu điểm, điều quan trọng  
nhất để cho dân nói. Dân biết nhiều việc mà các cấp lãnh đạo không biết. Việc  
cũng phải bàn với dân; dân sẽ có ý kiến hay”.  
Theo Hồ Chí Minh, dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với  
nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng  
kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái và người khác  
cũng học theo.  
- Phong cách Hồ Chí Minh chăm lo đời sống cho Nhân dân: trên cơ sở nhận  
thức “dân dĩ thực vi thiên”, nghĩa là dân lấy ăn làm trời, và “có thực mới vực được  
đạo”, nghĩa là không có ăn thì chẳng làm được việc cả, tư tưởng và phong cách  
Hồ Chí Minh thể hiện đậm nét việc chăm lo đời sống Nhân dân. Trong sự nghiệp  
kiến thiết chủ nghĩa hội, Người cho rằng “hễ còn có một người Việt Nam bị bóc  
lột, bị nghèo nàn, tĐảng vẫn đau thương, cho đó là vì mình chưa làm tròn nhiệm  
vụ”. Người nói: “một ngày mà Tổ quốc chưa thống nhất, đồng bào còn chịu cực  
khổ một ngày tôi ăn không ngon, ngủ không yên”, Người biến tình thương thành  
trách nhiệm của bản thân.  
Theo Người, Đảng mỗi cán bộ, đảng viên phải gần gũi Nhân dân, quan  
tâm đến những việc nhỏ cho đời sống hằng ngày của Nhân dân. “Chính sách của  
Đảng và Chính phủ phải hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân  
đói, Đảng và Chính phủ lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ lỗi; nếu dân  
dốt Đảng và Chính phủ lỗi; nếu dân ốm Đảng và Chính phủ lỗi. vậy,  
cán bộ Đảng và chính quyền từ trên xuống dưới, đều phải hết sức quan tâm đến đời  
sống của nhân dân. Phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và  
tiết kiệm. Dân đủ ăn đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa ra  
12  
sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay  
mấy cũng không thực hiện được”.  
Hồ Chí Minh luôn luôn gương mẫu, thực hiện nói đi đôi với làm, “gần dân”  
thì phải tăng cường tiếp xúc với dân. Khi đi thăm dân, Người không muốn tiệc  
tùng tốn kém theo kiểu “khách ba, chủ nhà bảy” để mang tiếng với dân, Người  
cũng phê bình việc liên hoan chè chén, lu bù còn phổ biến ở nhiều địa phương, như  
bắt đầu cấy cũng liên hoan, cấy xong cũng liên hoan, rồi huyện về điều tra cũng  
liên hoan, tiễn cán bộ huyện đi cũng liên hoan, cải tiến cũng liên hoan, nghe nói  
họp bàn về tiết kiệm cũng liên hoan mấy con lợn… Bác thường kể câu chuyện “có  
nơi Bác về thăm, cán bộ làm thịt cả một con bò và bảo rằng “để chiêu đãi Hồ Chủ  
tịch”; thế họ “ăn” cả Hồ Chủ tịch. Phải tích cực sửa chữa”.  
Sau hơn 30 năm đổi mới, nhiều vấn đề nhức nhối như “ăn không thiếu một  
cái gì của dân” chúng ta đang chứng kiến hiện nay, đã được Hồ Chí Minh chỉ ra  
một cách cụ thể từ những năm năm mươi của thế kỷ trước. Nói chuyện tại hội nghị  
sản xuất cứu đói, Người chỉ rõ: “Khi thiếu gạo, cán bộ không biết tổ chức sản xuất  
tự cứu, không biết tổ chức nhân dân giúp đỡ nhau. Không biết tổ chức trưng vay.  
Khi nhận được gạo, lại còn cấp phát tràn lan, chậm chạp, gạo đến người đói chậm,  
người không đói cũng nhận được gạo. Quá tệ hơn nữa gạo của Chính phủ giúp  
dân, chừng một nửa đến tay dân đói, còn một nửa bị tham ô, lãng phí”. Theo Hồ  
Chí Minh, tham nhũng tội ác với dân, cần nghiêm trị tất cả những kẻ bất liêm,  
bất kể chúng là ai, ở cương vị nào.  
II. CHỦ TRƯƠNG, NHIỆM VỤ GIẢI PHÁP VỀ XÂY DỰNG Ý  
THỨC TÔN TRỌNG NHÂN DÂN, PHÁT HUY DÂN CHỦ, CHĂM LO ĐỜI  
SỐNG NHÂN DÂN TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY  
1. Chủ tương của Đảng  
a) Về xây dựng ý thức tôn trọng Nhân dân:  
- Quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lực lượng của  
dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc cũng kém. Dân  
vận khéo thì việc cũng thành công". Cách mạng sự nghiệp của nhân dân, do  
nhân dân, vì Nhân dân; Nhân dân là chủ, Nhân dân làm chủ; tin tưởng ở trí tuệ của  
Nhân dân, tin vào sức mạnh lực lượng của Nhân dân để làm cách mạng.  
- Đẩy mạnh đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, hách  
dịch, cửa quyền trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.  
- Xây dựng tổ chức thực hiện hiệu quả cơ chế phát huy vai trò của  
Nhân dân tham gia xây dựng Đảng.  
13  
- Xây dựng đội ngũ đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, trọng dân, gần  
dân, hiểu dân, học dân, có trách nhiệm cao trong công việc, bản lĩnh chính trị,  
phẩm chất đạo đức cách mạng, ý thức tổ chức kỷ luật năng lực hoàn thành  
nhiệm vụ, vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức, phấn đấu cho mục tiêu, lý  
tưởng của Đảng.  
- Tiếp tục đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác dân vận, tăng cường quan hệ  
mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; có kế hoạch thường xuyên tìm hiểu tình hình  
đời sống, tâm tư, nguyện vọng của Nhân dân để chủ trương, biện pháp xử lý  
đúng đắn, kịp thời.  
- Củng cố vững chắc niềm tin của Nhân dân đối với Đảng, tăng cường khối  
đại đoàn kết toàn dân tộc mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với Nhân dân; tập  
hợp, vận động Nhân dân thực hiện tốt các chủ trương của Đảng và chính sách,  
pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to lớn của Nhân dân, tạo thành phong  
trào cách mạng rộng lớn xây dựng bảo vệ Tổ quốc.  
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận trong điều  
kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa hội nhập quốc tế.  
Đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thật sự tin dân, trọng dân, gần dân, hiểu dân, học  
dân, dựa vào dân, có trách nhiệm với dân. Giải quyết kịp thời, hiệu quả những  
bức xúc, những kiến nghị chính đáng của Nhân dân và khiếu nại, tố cáo của công  
dân.  
b) Về phát huy dân chủ:  
- Tiếp tục phát huy dân chủ hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước  
thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của  
Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền lợi ích chính đáng của nhân  
dân, được nhân dân tham gia ý kiến. Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm  
túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống hội. Bảo đảm để nhân dân tham gia ở  
tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc  
sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát  
quá trình thực hiện. Tập trung xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực  
tiếp đến quyền làm chủ của Nhân dân.  
- Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và  
dân chủ đại diện. Thực hiện quyền con người, quyền nghĩa vụ cơ bản của công  
dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ,  
đề cao đạo đức hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống  
14  
pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền nghĩa vụ của  
công dân.  
- Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ  
trong Đảng hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội. Đẩy mạnh dân  
chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai tchủ động, sáng tạo  
của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt Quy chế  
giám sát và phản biện hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã  
hội; Quy định về việc Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân  
góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Quy định về giám sát đảng viên là  
cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và các quy định, quy chế khác.  
- Các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức xúc,  
nguyện vọng chính đáng của Nhân dân, nhất những vấn đề liên quan trực tiếp  
đến đời sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn hội.  
Trong xây dựng thể chế, chính sách, cần quán triệt thực hiện nghiêm nguyên  
tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải thuận với  
lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của Nhân dân. Ctrọng  
cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của Nhân dân, nhất điều kiện sống, lao  
động, học tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe.  
- Quan tâm điều chỉnh hài hòa lợi ích giữa các giai tầng hội, các vùng miền, các  
lĩnh vực; gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích cá nhân với  
lợi ích tập thể cộng đồng, hội.  
- Xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết dứt điểm  
những vụ việc khiếu kiện đông người phức tạp, kéo dài.  
- Phát huy dân chủ phải đi liền với tăng cường pháp chế, đề cao trách nhiệm công  
dân, giữ vững kỷ luật, kỷ cương đề cao đạo đức hội. Phê phán những biểu  
hiện dân chủ cực đoan, dân chủ hình thức. Xử lý nghiêm những hành vi lợi dụng  
dân chủ để làm mất an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội những hành vi vi  
phạm quyền dân chủ quyền làm chủ của Nhân dân.  
c) Chăm lo đời sống cho Nhân dân:  
- Động lực thúc đẩy phong trào Nhân dân là phát huy quyền làm chủ, đáp ứng lợi  
ích thiết thực của Nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi phải đi đôi với  
nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy động sức dân  
phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết sức làm, những  
gì có hại cho dân thì hết sức tránh.  
15  
- Tiếp tục hoàn thiện chính sách an sinh xã hội phù hợp với quá trình phát triển  
kinh tế - xã hội. Mở rộng đối tượng và nâng cao hiệu quả của hệ thống an sinh xã  
hội đến mọi người dân; tạo điều kiện để trợ giúp có hiệu quả cho tầng lớp yếu thế,  
dễ tổn thương hoặc những người gặp rủi ro trong cuộc sống.  
- Phát triển thực hiện tốt các chính sách bảo hiểm hội, bảo hiểm thất nghiệp,  
bảo hiểm tai nạn lao động,... Chuyển từ hỗ trợ nhân đạo sang bảo đảm quyền an  
sinh xã hội của công dân.  
- Đổi mới chính sách giảm nghèo theo hướng tập trung, hiệu quả tiếp cận  
phương pháp đo lường nghèo đa chiều nhằm bảo đảm an sinh xã hội cơ bản tiếp  
cận các dịch vụ hội cơ bản.  
- Tổ chức tốt hơn việc cung cấp các dịch vụ hội cơ bản thiết yếu.  
- Thực hiện tốt các chính sách hỗ trợ nhà cho các đối tượng chính sách, người  
nghèo, Nhân dân sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; phát triển nhà hội  
cho người thu nhập thấp, công nhân khu công nghiệp, khu chế xuất và sinh viên,...  
- Phát triển đa dạng các hình thức từ thiện, đẩy mạnh phong trào toàn dân tham gia  
giúp đỡ những người yếu thế.  
- Coi trọng chăm sóc sức khoẻ Nhân dân, công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình,  
bảo vệ chăm sóc sức khoẻ mẹ, trẻ em; xây dựng gia đình hạnh phúc.  
2. Tiếp tục bsung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật  
- Kịp thời thể chế hóa đường lối, chủ trương của Đảng thành chính sách, pháp luật  
phù hợp với thực tiễn đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của nhân dân.  
Tiếp tục thể chế hóa, cụ thể hóa mối quan hệ "Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý,  
Nhân dân làm chủ", nhất nội dung Nhân dân làm chủ phương châm "Dân  
biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra".  
- Đảng và Nhà nước tiếp tục quan tâm bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách,  
pháp luật, quy chế bảo đảm phát huy dân chủ, quyền làm chủ của Nhân dân, tôn  
trọng Nhân dân, chăm lo đời sống của Nhân dân.  
- Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số  
vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” và Nghị quyết Trung ương 4 khóa  
XII về “tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về  
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến" "tự chuyển  
hóa" trong nội bộ”. Trong đó, quan tâm thực hiện tốt nhiều nội dung sau đây:  
“Tăng cường công tác dân vận của Đảng của chính quyền; phát huy vai trò  
giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội, của nhân dân, báo  
chí và công luận trong đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi suy thoái, "tự diễn biến", "tự  
16  
chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên. Thực hiện nghiêm túc, có hiệu quả phương  
châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Trước mắt, tập trung giải quyết kịp  
thời, dứt điểm những vấn đề bức xúc của nhân dân. Nâng cao chất lượng, hiệu quả  
hoạt động của Quốc hội Hội đồng nhân dân các cấp, bảo đảm mọi chính sách,  
pháp luật của Nhà nước phải theo đúng Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của  
Đảng phải xuất phát từ nguyện vọng chính đáng, quyền lợi ích hợp pháp của  
nhân dân. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm túc  
việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực  
tiếp xử những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất những biểu hiện suy  
thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng thực  
hiện Quy định về việc lấy ý kiến đánh giá sự hài lòng của người dân đối với cơ  
quan, cán bộ, công chức trực tiếp giải quyết công việc của người dân và doanh  
nghiệp; có hình thức xử đối với những tổ chức, cá nhân có chỉ số hài lòng thấp.  
Xây dựng thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và  
tích cực đấu tranh phòng, chống suy thoái, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa".  
- Tập trung lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện kết quả Chỉ thị 05-CT/TW của  
Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong  
cách Hồ Chí Minh”. Trong đó, quyết tâm thực hiện tốt nội dung: “Đề cao trách  
nhiệm nêu gương, tự giác học trước, làm theo trước để nêu gương của người đứng  
đầu và cán bộ chủ chốt các cấp, của cán bộ, đảng viên trong học tập và làm theo tư  
tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Tăng cường công tác kiểm tra, đôn đốc  
việc thực hiện học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh,  
gắn với đánh giá, nhận xét cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức hằng năm và  
cả nhiệm kỳ. Tiếp tục xây dựng, hoàn thiện chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp, đạo  
đức công vụ ở từng địa phương, cơ quan, đơn vị với phương châm "sát chức năng,  
nhiệm vụ, ngắn gọn, dễ nhớ, dễ thực hiện đánh giá việc thực hiện”. Hoàn thiện  
chính sách, pháp luật liên quan đến đạo đức công vụ”.  
- Tổ chức thực hiện Quy định 109-QĐ/TW, ngày 03/01/2018 của Ban Bí thư khóa  
XII về “công tác kiểm tra của tổ chức đảng đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo  
đức của cán bộ, đảng viên” (thay thế Quy định cùng tên số 55-QĐ/TW, ngày  
10/01/2012 của Ban Bí thư khóa XI). Trong đó, có riêng một nội dung kiểm tra “về  
ý thức trách nhiệm phục vụ Nhân dân bằng những việc làm thiết thực, cụ thể; việc  
giải quyết các khiếu nại, tố cáo chính đáng của Nhân dân; chống biểu hiện về sự vô  
cảm, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, nhũng nhiễu, gây phiền hà cho Nhân dân”.  
17  
- Triển khai thực hiện hiệu quả Nghị quyết số 20-NQ/TW của Ban Chấp hành  
Trung ương khóa XII về “tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức  
khỏe nhân dân trong tình hình mới”. Nghị quyết xác định rõ các quan điểm: “Bảo  
vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nghĩa vụ, trách nhiệm của mỗi người dân,  
của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đòi hỏi sự tham gia tích cực của các cấp  
ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể, các ngành, trong đó ngành Y tế  
là nòng cốt”; “Đầu tư cho bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân là đầu  
cho phát triển. Nhà nước ưu tiên đầu tư ngân sách và có cơ chế, chính sách huy  
động, sử dụng hiệu quả các nguồn lực để bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe  
nhân dân; tổ chức cung cấp dịch vụ công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, đồng thời  
khuyến khích hợp tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ theo yêu cầu;  
“mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe; được bảo đảm bình đẳng về  
quyền nghĩa vụ trong tham gia bảo hiểm y tế thụ hưởng các dịch vụ y tế”.  
Một số đối tượng phải quan tâm chú trọng là: “bà mẹ, trẻ em, đặc biệt ở  
khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, biên giới, hải đảo. Quan tâm  
chăm sóc sức khỏe người cao tuổi, người khuyết tật, người bị ảnh hưởng bởi hậu  
quả của chiến tranh và các đối tượng ưu tiên; phát triển các mô hình chăm sóc  
người cao tuổi phù hợp”. Các cấp, các ngành có liên quan tăng cường quản lý nhà  
nước, xây dựng thực hiện các giải pháp đồng bộ nhằm phòng, chống, ngăn chặn  
chấm dứt tình trạng lợi dụng chủ trương hội hoá để lạm dụng các nguồn lực  
công phục vụ các "nhóm lợi ích", tạo ra bất bình đẳng trong tiếp cận dịch vụ y tế.  
3. Một số nhiệm vụ, giải pháp cụ thể  
a) Đối với tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính  
trị - xã hội:  
- Quán triệt đầy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan điểm của Đảng, pháp  
luật của Nhà nước, về "dân làm gốc"; xây dựng chương trình, kế hoạch xây dựng ý  
thức tôn trọng nhân dân, phát huy dân chủ của Nhân dân, chăm lo đời sống Nhân  
dân trong các ngành, địa phương, cơ quan đơn vị, coi đây nhiệm vụ quan trọng  
hàng đầu, nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ xây dựng bảo vệ Tổ quốc.  
- Tập trung chỉ đạo thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, cải cách hành chính, tạo  
điều kiện thuận lợi nhất cho nhân dân tự do sản xuất, kinh doanh theo pháp luật,  
góp phần phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, không ngừng nâng cao đời sống Nhân  
dân.  
- Nghiêm túc triển khai thực hiện Quyết định số 217-QĐ/TW, ngày  
12/12/2013 của Bộ Chính trị khóa XI về việc ban hành Quy chế giám sát và phản  
18  
biện hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.  
Trong Quy chế nêu rõ mục đích: phát huy quyền làm chủ của nhân dân, góp phần  
xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh; bảo đảm quyền lợi ích hợp  
pháp của nhân dân; phát huy dân chủ, tăng cường đồng thuận hội. Giám sát và  
phản biện hội phải mang tính nhân dân, tính dân chủ hội chủ nghĩa, tính xây  
dựng, tính khoa học thực tiễn.  
- Nhận thức sâu sắc, quán triệt thực hiện nghiêm Quyết định số 218-QĐ/TW,  
ngày 12-12-2013 của Bộ Chính trị quy định về việc Mặt trận Tổ quốc và các đoàn  
thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính  
quyền .  
- Triển khai thực hiện hiệu quả Quy định 124-QĐ/TW, ngày 02/02/2018 của  
Ban Bí thư khóa XII về “giám sát của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức  
chính trị - xã hội và nhân dân đối với việc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống  
của người đứng đầu, cán bộ chủ chốt và cán bộ, đảng viên”. Quy định xác định rõ,  
chủ thể giám sát không chỉ Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị  
hội từ Trung ương đến cơ sở, mà còn là Nhân dân và Nhân dân thực hiện quyền  
giám sát thông qua Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội;  
phản ảnh, kiến nghị đến cấp ủy, tổ chức đảng, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ  
chức chính trị - xã hội quan có thẩm quyền về những biểu hiện suy thoái về  
đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.  
b) Đối với cán bộ lãnh đạo, người đứng đầu:  
- Chủ động, tích cực trong thực hiện các chương trình, kế hoạch, mục tiêu phát  
triển kinh tế, hội, văn hóa, bảo vệ môi trường; phát huy sức dân, huy động Nhân  
dân tham gia thực hiện các mục tiêu đề ra vì lợi ích của Nhân dân. Nói đi đôi với  
làm, tạo uy tín tốt nhất trong nhân dân, làm gương để Nhân dân noi theo; tiền  
phong, gương mẫu, có trách nhiệm chịu trách nhiệm cao nhất.  
- Thực hiện nghiêm Quy định 08-Qđi/TW, ngày 25/10/2018 của Ban Chấp hành  
Trung ương khóa XII về “trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết  
Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung  
ương”. Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân  
dân, của quốc gia - dân tộc mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Không làm  
bất cứ việc gì có hại cho Đảng, cho đất nước và nhân dân. Lấy ấm no, hạnh phúc  
sự hài lòng của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.  
- Thực hành phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, hiệu quả.  
- Tích cực giải quyết dứt điểm các vấn đề phức tạp, bức xúc, tồn đọng kéo dài.  
19  
Tải về để xem bản đầy đủ
docx 22 trang yennguyen 31/03/2022 5620
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Bài thu hoạch Chuyên đề năm 2019: Xây dựng ý thức tôn trọng nhân dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chăm lo đời sống Nhân dân theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • docxbai_thu_hoach_chuyen_de_nam_2019_xay_dung_y_thuc_ton_trong_n.docx