Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chiên (Bagarius rutilus) giai đoạn 70-500g nuôi lồng tại vùng hạ lưu sông Lô, tỉnh Phú Thọ
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
ẢNH HƯỞNG CỦA THỨC ĂN ĐẾN SINH TRƯỞNG VÀ TỶ LỆ SỐNG CỦA CÁ
CHIÊN (Bagarius rutilus) GIAI ĐOẠN 70-500g NUÔI LỒNG TẠI VÙNG HẠ LƯU
SÔNG LÔ, TỈNH PHÚ THỌ
EFFECT OF DIFFERENT FEED ON GROWTH AND SURVIVAL RATE OF GOONCH
CATFISH (Bagarius rutilus) OF 70-500g STAGE IN CAGE CULTURE AT THE LOWER LO
RIVER - PHU THO PROVINCE
Triệu Anh Tuấn1, Thái Thanh Bình2
1Trường Đại học Hùng Vương
2Trường Cao đẳng Kinh tế, Kỹ thuật và Thủy sản
Tác giả liên hệ: Triệu Anh Tuấn (Email: tuantrieuanh85@gmail.com)
Ngày nhận bài: 08/06/2020; Ngày phản biện thông qua: 20/10/2020; Ngày duyệt đăng: 23/11/2020
TÓM TẮT
Nghiên cứu này nhằm đánh giá ảnh hưởng của các loại thức ăn khác nhau lên sinh trưởng và tỷ lệ sống của
cá chiên (Bagarius rutilus) giai đoạn 70-500g nuôi lồng tại vùng hạ lưu sông Lô – Phú Thọ. Cá chiên thí nghiệm có
chiều dài ban đầu 22,0-23,5cm/con và khối lượng 70-72,5g/con được nuôi trong các lồng đặt trên sông, mỗi lồng
có thể tích 9,0m3. Thí nghiệm được bố trí với 3 nghiệm thức về thức ăn gồm nghiệm thức 1 (NT1): sử dụng thức ăn
viên công nghiệp dạng viên chìm; NT2: sử dụng 100% thức ăn cá tạp và NT3: sử dụng cá tạp 70% kết hợp giun quế
tươi 30%, mỗi nghiệm thức lặp lại 3 lần. Sau thời gian thí nghiệm 5 tháng, kết quả cho thấy cá chiên sinh trưởng
nhanh và đạt tỷ lệ sống cao nhất ở NT3, tiếp đến là NT2 và thấp nhất ở NT1 (p<0,05). NT3 cá đạt khối lượng trung
bình 542,7 g/con, chiều dài 29,7 cm/con và tỷ lệ sống 81,9% trong khi đó NT1 đạt khối lượng trung bình 456,4 g/
con và tỷ lệ sống đạt 59,7%. Từ kết quả thí nghiệm có thể kết luận hỗn hợp cá tạp kết hợp với giun quế hoặc cá tạp
là thức ăn phù hợp để nuôi cá chiên, thức ăn công nghiệp sử dụng trong nghiên cứu này không thích hợp.
Từ khóa: Cá chiên, sinh trưởng, thức ăn, nuôi lồng.
ABSTRACT
This study aimed to evaluate the effects of different feed on the growth and survival rate of goonch catfish
(Bagarius rutilus) of 70-500g stage in cage culture at the lower Lo River - Phu Tho. The experimental goonch
catfish with initial length of 22.0-23.5cm/individual and weight of 70-72.5g/individual were raised in cages placed
on the river, each cage with a volume of 9.0m3. The experiment was arranged with 3 treatments on different
feed. Treatment 1 (NT1): Using industrial submersible pellet-feed; Treatment 2 (NT2): Using 100% trash fish and
treatment 3 (NT3): Using 70% trash fish and 30% fresh worms, each treatment was triplicated. After 5 months of
experimental period, the results showed that goonch catfish obtained the highest growth and survival rate in NT3,
followe by NT2 and the lowest in NT1 (p <0.05). In NT3, harvested fish had mean weight of 542.7g/individual,
29.7cm/individual in length and 81.9% survival rate, while in NT1 that were 456.4g/individual and 59.7% survival
rate. From the experimental results, it can be concluded that combination of trash fish and earthworms or trash fish
are suitable feed for goonch catfish culture, whilst industrial feed used in this study is not suitable.
Keywords: Bagarius rutilus, growth, food, cage culture.
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
chảy. Cá chiên có màu vàng, kích thước lớn, giá
trị dinh dưỡng [10] và giá trị kinh tế cao [8], thịt
cá không có xương dăm, giá bán trên thị trường
dao động từ 400.000-500.000 đồng/kg.
Ở Việt Nam, cá phân bố trên hệ thống sông
suối ở các tỉnh phía Bắc, nhất là vùng trung
Cá chiên (Bagarius rutilus Ng & Kottelat,
2000) là một trong những loài cá nước ngọt bản
địa, quý hiếm và đang được xếp vào nguy cấp
bậc 2 [1]. Cá ưa sống ở các vùng nước chảy xiết,
chủ yếu ở tầng đáy các thủy vực nơi có khe nước
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 105
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
và thượng lưu sông Lô, sông Gâm, sông Hồng,
sông Đà và sông Chảy [9]. Trên thế giới loài cá
này phân bố ở Ấn Độ, Myanmar, Thái Lan và
Indonesia [14], [15].
ăn phù hợp đối với cá chiên, từ đó góp phần
phát triển bền vững nghề nuôi cá chiên.
II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Cá chiên có chất lượng thực phẩm cao, thịt
cá thơm ngon nên từ lâu đã là mục tiêu đánh
bắt của ngư dân ở các vùng cá phân bố [3].
Việc khai thác quá mức bằng nhiều hình thức
cùng với ô nhiễm môi trường nước đang làm
nguồn lợi cá chiên ngày càng giảm sút cả về
sản lượng và kích thước cá thể. Sản lượng cá
chiên tự nhiên không đủ đáp ứng cho nhu cầu
tiêu thụ ngày càng tăng của thị trường dẫn
tới việc đánh bắt ngày càng ráo riết làm cho
loài này được xếp vào diện báo động, có nguy
cơ tuyệt chủng [3]. Những yêu cầu bức thiết
về bảo tồn nguồn lợi cá chiên tự nhiên đồng
thời để tăng sản lượng cá thịt đáp ứng nhu cầu
thực phẩm ngày càng cao của thị trường đã
đưa loài cá chiên trở thành đối tượng thủy sản
quan trọng cho nghiên cứu và sản xuất trong
những năm gần đây.
Hiện nay, nghề nuôi cá chiên đang phát
triển ở các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Phú
Thọ và Thanh Hóa [4]. Tuy nhiên, quy mô
và hiệu quả nuôi vẫn còn nhiều hạn chế. Bên
cạnh nguồn cung cấp giống hiện chưa chủ
động thì thức ăn phù hợp cho cá chiên là yếu
tố quan trọng để mở rộng phát triển nuôi hiệu
quả và bền vững loài cá này. Cá chiên là loài
cá dữ, ăn động vật và bắt mồi chủ động, trong
điều kiện nuôi chúng có thể ăn lẫn nhau khi
nguồn thức ăn không phù hợp. Do vậy, việc
nghiên cứu để xác định loại thức ăn phù hợp
cho cá chiên giai đoạn nuôi thương phẩm là
rất cần thiết. Trong kỹ thuật nuôi cá nói chung
và cá chiên nói riêng thức ăn luôn là yếu tố
hàng đầu ảnh hưởng đến tỷ lệ sống và sự tăng
trưởng của cá.
1. Vật liệu nghiên cứu
Cá chiên được thu từ sông Lô có kích thước
đồng đều, khoẻ mạnh, không bị xây xát, dị tật
và được nuôi thuần dưỡng trước khi tiến hành
thí nghiệm. Cá thí nghiệm có khối lượng 70-
72g/con và chiều dài 22,0 – 23,5 cm/con.
2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Từ 04/2019 đến
8/2019.
- Địa điểm nghiên cứu: Tại vùng hạ lưu
song Lô, thuộc huyện Phù Ninh, tỉnh Phú Thọ.
3. Bố trí thí nghiệm
Cá chiên được nuôi trong các lồng nổi
(kích thước: 3 x 1,5 x 2 m
3). Khung lồng được
làm từ ống thép, đường kính 27mm, lưới lồng
được làm từ lưới sợi tổng hợp (a = 2mm).
Lồng lưới luôn được giữ căng bảo đảm thể
tích thực của lồng nuôi và mắt lưới mở rộng
làm tăng sự lưu thông nước với môi trường
bên ngoài. Các lồng được đặt ở nơi có độ sâu
trung bình 8m và lưu tốc dòng chảy trung bình
0,38 ± 0,054 m/s.
Thí nghiệm được bố trí với 3 nghiệm thức
(NT) khác nhau về thức ăn gồm: NT1 sử dụng
thức ăn công nghiệp dùng cho cá da trơn của
công ty Dehues, dạng viên chìm, kích cỡ 2,0 -
6,0mm, chứa 35% hàm lượng đạm thô; NT2:
thức ăn cá tạp (tép dầu) tươi sạch (100%),
được khai thác trực tiếp trên sông, thái nhỏ
vừa cỡ miệng cá trước khi cho ăn; NT3: thức
ăn gồm cá tạp (70%) kết hợp giun quế tươi
(30%), được thái nhỏ và trộn đều trước khi
cho cá ăn [5], [7]. Giun quế còn tươi được thu
mua tại các nông hộ, cá tạp và giun quế được
đưa vào máy thái nhỏ vừa miệng cá, trộn đều
trước khi cho ăn.
Xác định được loại thức ăn phù hợp sẽ đảm
bảo cá tăng trưởng tốt, rút ngắn thời gian nuôi,
tăng tỷ lệ sống và nâng cao năng suất và hiệu
quả kinh tế. Từ những lý do trên nghiên cứu
này được thực hiện nhằm xác định loại thức
Mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần.
Cá sau khi thuần dưỡng được thả ngẫu
nhiên vào lồng nuôi ở các nghiệm thức với
106 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
mật độ 16 con/m3. Điều kiện chăm sóc ở các
lồng nuôi như nhau. Cá được cho ăn với khẩu
phần bằng 5-6% khối lượng thân cá/ngày, 2
lần/ngày vào lúc 7:30 và 17:30. Khi cá đạt
đến khối lượng 200g cho ăn 1 lần/ngày vào
lúc 17:30.
Thường xuyên kiểm tra môi trường nước
trong các lồng nuôi. Nhiệt độ được xác định
bằng nhiệt kế bách phân và độ trong được đo
bằng đĩa Secchi. Các chỉ tiêu pH, hàm lượng oxi
hòa tan (DO) và tổng lượng amoni (TAN) được
xác định bằng các bộ test kit Sera của Đức theo
hướng dẫn của nhà sản xuất. Các yếu tố môi
trường được đo 2lần/ngày vào 8:00 và 16:00,
mỗi lần 2 mẫu. Lưu tốc nước (v) được xác định
theo thời gian dòng chảy đi qua khoảng cách
(S) điểm đầu và điểm cuối của lồng nuôi v=S/t
(t- thời gian tính bằng giây).
JaraJara et al., 1997, Caofujun et al., 2009 và
Lijimin et al., 2010 [12].
+ Tốc độ tăng trưởng chiều dài tuyệt đối
(mm/ngày)
ADGL = (L2 – L1)/(t2 – t1)
+ Tốc độ tăng trưởng chiều dài đặc trưng
(%/ngày)
SGRL (%) = (lnL2 - ln L1).100/ (t2 - t1).
+ Tốc độ tăng trưởng khối lượng tuyệt đối
(g/ngày)
ADGW (g/ngày) = (W2 - W1) / (t2 - t1).
+ Tốc độ tăng trưởng khối lượng đặc trưng
(%/ngày)
SGRW (%/ngày) = (lnW2 - lnW1).100/ (t2 - t1).
Trong đó: L2, L1 , W2, W1 là chiều dài và
khối lượng tương ứng của cá chiên tại các thời
gian t2, t1 (t1: thời gian ban đầu; t2: thời gian sau
thí nghiệm).
Cá chiên là đối tượng dễ mẫn cảm về bệnh,
do đó công tác quản lý đàn cá và phòng trị bệnh
cho cá cần được thực hiện tốt để hạn chế dịch
bệnh xảy ra đối với đàn cá nuôi. Cá dễ bị bệnh
nấm thân do vi khuẩn Aeromonas hydrophyla
gây nên, triệu trứng xuất hiện các đốm đỏ trên
vây. Trị bệnh bằng cách sử dụng kháng sinh
(Rifamycine 90-120 ppm và Cipro Floxaxim
15-20 ppm) tắm cho cá trong thời gian 12-15
phút, đồng thời tách riêng ra một lồng để theo
dõi, chăm sóc và thực hiện tắm lại kháng sinh
cho đến khi khỏi hẳn. Kết hợp dùng vitamin C
lượng 3g/kg thức ăn và thuốc bổ gan (Boganic)
liều lượng 5 ml/kg thức ăn, trộn vào thức ăn
cho cá ăn liên tục từ 5-7 ngày.
+ Hệ số phân đàn (Coeffi-cient Variation):
CV = δ/ x100(%) (δ: độ lệch chuẩn; : giá trị
trung bình)
+ Tỷ lệ sống (%)
SR (%) = (Số cá thu hoạch/ Số cá thả ban
đầu).100 (%)
5. Xử lý số liệu
Các số liệu về tỷ lệ sống, tăng trưởng khối
lượng, chiều dài cá tuyệt đối và đặc trưng
được tính toán giá trị trung bình, độ lệch
chuẩn và phân tích one-way ANOVA, tìm sự
khác biệt giữa các giá trị trung bình bằng so
sánh LSD với phần mềm Excel. Các giá trị số
liệu được xử lý thống kê với độ tin cậy 95%
(α=0,05).
4. Xác định các thông số sinh trưởng
Khối lượng và chiều dài của cá được xác
định vào thời điểm trước, trong quá trình
thí nghiệm theo định kỳ 1 tháng/lần và sau
khi kết thúc thí nghiệm. Số lượng 30 cá thể/
nghiệm thức.
Chiều dài của cá được đo bằng thước kẹp
panmer hiệu Mitutoyo của Nhật, độ chính xác
0,01mm. Khối lượng được xác định bằng cân
phân tích có độ nhảy 0,01g.
III. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
1. Biến động một số yếu tố môi trường
Trong quá trình thí nghiệm các yếu tố môi
trường đều nằm trong khoảng thích hợp cho
sự sinh trưởng và phát triển của cá chiên. Hàm
lượng DO, TAN và nhiệt độ tương tự nhau
giữa các nghiệm thức và đều nằm trong khoảng
thích nghi đối với cá chiên [2] (Bảng 1).
Trong quá trình thí nghiệm pH ổn định
và không khác biệt giữa các nghiệm thức.
Tính toán các thông số tăng trưởng dựa theo
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 107
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
Bảng 1. Biến động một số yếu tố môi trường
Nghiệm thức thí nghiệm
NT2
Chỉ tiêu
NT1
NT3
Nhiệt độ oC
DO (mg/l)
pH
26,15 ± 0,85a
5,80 ± 0,25a
7,80 ± 0,28a
35,20 ± 0,20a
0,30 ± 0,015a
0,32 ± 0,25a
26,15 ± 0,85a
5,90 ± 0,32a
7,80 ± 0,30a
36,42 ± 0,22a
0,30 ± 0,015a
0,32 ± 0,25a
26,15 ± 0,85a
5,95 ± 0,28a
7,80 ± 0,25a
34,65 ± 0,18a
0,30 ± 0,015a
0,30 ± 0,25a
Độ trong (cm)
V (m/s)
TAN (mg/l)
Ghi chú: Số liệu biểu diễn ở dạng trung bình ± độ lệch chuẩn.
2. Sinh trưởng của cá chiên cho ăn thức ăn
khác nhau
2.1 Tăng trưởng khối lượng của cá chiên
Kết quả theo dõi tăng trưởng khối lượng
của cá chiên trong các nghiệm thức được trình
bày trong Bảng 2,
Hàm lượng ammonia tổng số ổn định và nằm
trong giới hạn cho phép nuôi cá nước ngọt
0,32 mg/l.
Lưu tốc dòng chảy ngoài lồng trung bình 0,38
m/s và giảm ở phía trong lồng nuôi 0,30 m/s.
Lưu tốc nước tương đối ổn định qua các tháng
thí nghiệm và phù hợp với điều kiện nuôi cá lồng.
Từ cỡ cá giống thả có khối lượng trung
Bảng 2. Sinh trưởng, tỷ lệ sống của cá chiên khi cho ăn thức ăn khác nhau
Nghiệm thức thức ăn
Chỉ tiêu
NT1
NT2
NT3
Khối lượng ban đầu (g)
Khối lượng cuối (g)
ADGW (g/ngày)
SGRW (%/ngày)
Chiều dài ban đầu (cm)
Chiều dài cuối (g)
ADGL (g/ngày)
SGRL (%/ngày)
CVW
71,20 ± 0,25a
456,38 ± 22,2a
3,20 ± 0,05a
1,54 ± 0,032a
22,75 ± 0,15a
33,82 ± 0,24a
0,07 ± 0,01a
0,26 ± 0,035a
4,42
71,15 ± 0,30b
525,12 ± 16,35b
3,78 ± 0,06b
1,67 ± 0,036b
22,78 ± 0,2b
35,42 ± 0,22b
0,08 ± 0,05b
0,29 ± 0,030b
3,11
71,25 ± 0,25b
542,68 ± 12,0b
3,92 ± 0,04b
1,69 ± 0,035b
22,64 ± 0,20b
36,28 ± 0,21b
0,09 ± 0,05b
0,31 ± 0,032b
2,21
CVL
0,73
0,62
0,57
Tỷ lệ sống (%)
59,7 ± 0,12a
76,4 ± 0,25b
81,9 ± 0,20b
Ghi chú: Số liệu biểu diễn ở dạng giá trị trung bình ± độ lệch chuẩn. Các số liệu trong cùng hàng có chỉ số chữ cái trên giống
nhau thì khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
bình là 71g/con. Trong quá trình nuôi cá chiên
có sự tăng trưởng khác nhau đối với từng loại
thức ăn khác nhau. Sau 150 ngày nuôi, khối
lượng cá lớn nhất ở NT3 khi cho ăn thức ăn
gồm 30% giun quế kết hợp 70% cá tạp (542,7
g/con), tiếp đến ở NT2 khi cho ăn thức ăn
108 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
100% cá tạp (525,1 g/con) và thấp nhất ở NT1
khi cho ăn thức ăn công nghiệp (456,4 g/con).
Sự khác biệt khối lượng cá thu hoạch giữa
NT2 &NT3 so với NT1 có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) (Bảng 2). Từ kết quả ở Bảng 2 cũng
cho thấy tốc độ tăng trưởng ADG và SGR đạt
giá trị cao nhất ở NT3 lần lượt là (3,92 ± 0,04
g/ngày) và (1,69 ± 0,035 %/ngày), các giá trị
này đạt thấp nhất ở NT1 (3,20 ± 0,05 g/ngày)
và (1,54 ± 0,032 %/ngày), sự khác biệt có
nghĩa thống kê (p< 0,05).
Sự tăng trưởng khối lượng của cá chiên
trong quá trình nuôi được mô tả ở Hình 1.
Tăng trưởng của cá chiên trong nghiên cứu
Hình 1. Tăng trưởng về trọng lượng của cá chiên ở 3 nghiệm thức thí nghiệm.
này cao hơn so với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Văn Bình và ctv (2014), cá chiên được
nuôi trong ao đất và cho ăn là cá mè xay nhỏ và
cũng cao hơn kết quả nghiên cứu của Ngô Sĩ
Hiệp (2015) (3,73 g/ngày).
trưởng chiều dài của cá chiên có sự khác nhau
khi cho ăn các loại thức ăn khác nhau. Sau 5
tháng nuôi cá đạt chiều dài thấp nhất ở NT1,
33,8 cm/con và cao nhất ở NT3, 36,3 cm/con
(Bảng 2).
Hệ số phân đàn CVW về khối lượng của cá
cao nhất ở NT1 và giảm dần qua NT2 và NT3
(Bảng 2). Từ kết quả trên có thể thấy hỗn hợp
phối trộn cá tạp và giun quế phù hợp cho cá
chiên giai đoạn nuôi lớn. Trong khi đó thức
ăn công nghiên cho khối lượng cá thu hoạch
thấp và sự phân đàn lớn. Có thể thấy cá chiên
hấp thụ tốt thức ăn là cá tạp kết hợp giun quế,
khi sử dụng nguồn thức ăn này cá phát triển
đồng đều, ít cạnh tranh nên hệ số phân đàn
thấp (Bảng 2). Từ sự tăng trưởng khối lượng
cá chiên cho thấy hỗn hợp cá tạp xay nhỏ trộn
với giun quế là thức ăn phù hợp nhất đối với
cá chiên và thức ăn công nghiệp chưa thật sự
thích hợp.
Tốc độ tăng trưởng chiều dài tuyệt đối và
đặc trưng của cá chiên lớn nhất ở NT3 (0,09
cm/ngày và 0,31%/ngày) và thấp nhất ở NT1
(0,07 cm/ngày và 0,26%/ngày). Sự khác biệt
giữa hai nghiệm thức có ý nghĩa thống kê
(p<0,05) (Bảng 2). Trong khi đó ở các NT2
và NT3 sự sai khác không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05).
Tốc độ tăng trưởng về khối lượng và chiều
dài cá chiên có sự khác biệt giữa nghiệm
thức NT1 so với NT2 và NT3. Ở NT1 cá sinh
trưởng chậm, điều này có thể lý giải cá chiên
có tập tính sống đáy, là loài cá dữ, ăn động vật
nên khi sử dụng nguồn thức ăn công nghiệp
dạng viên chìm là không thích hợp với cá nên
đã làm cá sinh trưởng chậm, cạnh tranh lớn
dẫn tới hệ số phân đàn cao (Bảng 2). Ở NT3
2.2 Tăng trưởng chiều dài của cá chiên
Tương tự như tăng trưởng khối lượng, tăng
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 109
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
sự tăng trưởng đặng trưng về chiều dài của
cá là cao nhất, hệ số phân đàn thấp chứng
tỏ khả năng tiêu hóa tốt nguồn thức ăn thí
nghiệm. Các giá trị này sinh trưởng của cá
chiên trong thí nghiệm này cao hơn so với
kết quả nghiên cứu của Lê Minh Hải (2012)
khi nuôi trong ao đất [6]. Kết quả hoàn toàn
phù hợp với tăng trưởng của một số loài cá
da trơn đã được nghiên cứu trước đó như cá
ngạnh [12]. Qua kết quả nghiên cứu về tăng
trưởng chiều dài có thể thấy rằng thức ăn đã
ảnh hưởng tới sinh trưởng của cá chiên và
hỗn hợp giữa cá tạp với giun quế là thức ăn
phù hợp với cá chiên nuôi lồng trong nghiên
cứu này.
3. Tỷ lệ sống của cá chiên cho ăn thức ăn
khác nhau
Tỷ lệ sống của cá chiên được trình bày ở
Bảng 2. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ sống
của cá chiên có sự chênh lệch nhau từ 59,7-
81,9% (Bảng 2). Cá sử dụng thức ăn cá tạp kết
Hình 2. Tăng trưởng về kích thước chiều dài của cá chiên ở 3 nghiệm thức thí nghiệm
hợp với giun quế (NT3) đạt tỷ lệ sống cao nhất
81,9%, cá ăn thức ăn cá tạp (NT2) tỷ lệ sống
đạt 76,4%, và cá ăn thức ăn viên công nghiệp
(NT1) đạt tỷ lệ sống thấp nhất 59,7% (Hình 3),
sự sai khác giữa các nghiệm thức có ý nghĩa
thống kê (p< 0,05). Kết quả về tỷ lệ sống có
sự khác nhau như vậy có thể do tập tính sống
và bắt mồi của cá chiên nên khi sử dụng thức
Hình 3. Tỷ lệ sống của cá chiên ở 3 nghiệm thức thí nghiệm
110 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
ăn khác nhau sẽ ảnh hưởng đến tỷ lệ sống. Khi
cho ăn thức ăn công nghiệp có tỷ lệ sống thấp
hơn (59,7%) không phù hợp với tập tính của
cá, làm nhu cầu thức ăn tăng cao, có sự phân
đàn lớn dẫn tới sự canh tranh trong đàn tăng lên
làm tỷ lệ sống của cá giảm.
Mặt khác, khi sử dụng hai loại thức ăn còn
lại cho tỷ lệ sống cao hơn. Điều này có thể lý
giải rằng, khi sử dụng các loại thức ăn này là
tương đối phù hợp nên cá sinh trưởng đồng
đều, sự cạnh tranh ít nên tỷ lệ sống tăng.
Tỷ lệ sống của cá chiên trong nghiên cứu
này cao hơn so với một số kết quả nghiên
cứu của Võ Văn Bình (2014), cá chiên nuôi
trong ao nước chảy đạt tỷ lệ sống (77,0%)
và Lê Minh Hải (2012), cá chiên được nuôi
trong ao đất đạt 58,6% [6]. Hồ Sĩ Hiệp
(2015) nuôi cá chiên thương phẩm ở cùng
giai đoạn sử dụng thức ăn là cá tạp đạt
64,7% [7].
IV. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
Thức ăn là cá tạp (70%) kết hợp với giun
quế (30%) được sử dụng làm thức ăn cho cá
chiên đạt sinh trưởng cao nhất về khối lượng
(542,7 g/con) và chiều dài (29,68 cm/con)
đồng thời cho tỷ lệ sống cao nhất 81,9%.
Cần tiếp tục có những nghiên cứu sâu hơn về
nhu cầu dinh dưỡng, mật độ, phòng trị bệnh, các
giải pháp kỹ thuật và thị trường nhằm nâng cao
hiệu quả nuôi thương phẩm cá chiên trong điều
kiện nhân tạo từ đó có khuyến cáo tới người nuôi.
Lời cảm ơn: Cảm ơn Sở Khoa học và Công
nghệ tỉnh Phú Thọ, Trường Đại học Hùng
Vương, đề tài 01/2019/HĐKH-HV01.2019 đã
hỗ trợ kinh phí thực hiện nội dung nghiên cứu
được trình bày trong bài báo này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bộ Khoa học – Công nghệ, 2000. Sách đỏ Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội.
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường, 2007. Phú Thọ: Nhiều loài cá tự nhiên quý hiếm có nguy cơ bị suy kiệt. www.
monre.gov.vn/monreNet/default.aspx? Fabid=210 & idmid=&ItemID=27816.
3. Phạm Báu, 2000. Điều tra nghiên cứu hiện trạng và biện pháp bảo vệ, phục hồi một số loài cá hoang dã quí
hiếm có nguy cơ tuyệt chủng trên hệ thống sông Hồng: Cá Anh vũ Semilabeo notabilis (Peters, 1880); Cá Bỗng
Spinibarbus denticulatus (oshima,1926); Cá Lăng chấm Hemibagrusguttatus (Lacépède, 1803); Cá ChiênBagarius
yarrelli (Sykes, 1841). Báo cáo tổng kết đề tài. Báo cáo kết quả đề tài cấp nhà nước. Viện nghiên cứu nuôi trồng
thủy sản 1.
4. Võ Văn Bình, 2014. Nghiên cứu nuôi cá chiên trong ao nước chảy và trên lồng trên sông. Báo cáo kết quả
đề tài cấp nhà nước. Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1.
5. Nguyễn Văn Chung, 2017. Kỹ thuật nuôi thương phẩm cá chiên trong lồng. Báo cáo tổng kết đề tài. Trung
tâm giống thủy sản miền Bắc, Viện nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 1.
6. Lê Minh Hải, 2012. Nuôi thương phẩm cá chiên trong ao đất. Báo cáo kết quả đề tài, Khoa Thủy sản, Trường
Đại học Vinh.
7. Ngô Sĩ Hiệp và công tác viên, 2015. Mô hình nuôi thương phẩm cá Chiên trong lồng bè trên thủy vực lớn.
Tạp chí Khoa học& Công nghệ, Nghệ An. Số 1, tr.24-28.
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 111
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản
Số 4/2020
8. Trần Thị Thanh Hiền, 2004. Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản. Nhà xuất bản Cần Thơ.
9. Ngô Trọng Lư và Thái Bá Hồ (2001). Kỹ thuật nuôi thủy đặc sản nước ngọt, tập 1. Nhà xuất bản Nông nghiệp.
10. Mai Đình Yên, 1978. Định loại cá nước ngọt các tỉnh phía Bắc Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ
thuật, Hà Nội.
11. Mai Đình Yên, 1983. Các loài cá kinh tế miền Bắc Việt Nam. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
12. Nguyễn Đình Vinh, Nguyễn Hữu Dực, Nguyễn Kiêm Sơn, Tạ Thị Bình, Trần Thị Kim Ngân (2017), Ảnh
hưởng của thức ăn đến tỷ lệ sống và sinh trưởng của cá Ngạnh - Cranoglanis bouderius (Richardson, 1846) nuôi
tại Nghệ An. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Vinh, Tập 46, Số 1A, tr70-77.
Tiếng Anh
13. Cao fujun, Liu zhigang, Luo zheng jie., 2009. Effects of sea water temperature and salinity on the growth
and survival of juvenile Meretrix meretrix Linnaeus. Journal of Applied Ecology, 20(10): 2545-2550.
15. H. H. Ng and M. Kottelat, 2000. Descriptions of three new species of catfishes (Teleostei: Akysidae and
Sisoridae) from Lao and Viet Nam. J. South Asian nat. Hist.., ISSN 1002 – 0828. Vol. 5, No.1, pp. 7 – 15,4.
16. Nelson, Joseph S., 2006. Fishes of the World. John Wiley & Sons, Inc. ISBN 0-471-25031-7.
112 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG
Bạn đang xem tài liệu "Ảnh hưởng của thức ăn đến sinh trưởng và tỷ lệ sống của cá chiên (Bagarius rutilus) giai đoạn 70-500g nuôi lồng tại vùng hạ lưu sông Lô, tỉnh Phú Thọ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- anh_huong_cua_thuc_an_den_sinh_truong_va_ty_le_song_cua_ca_c.pdf