Tóm tắt Luận văn Thực trạng ly hôn và một số giải pháp hạn chế ly hôn tại thành phố Phan Rang - Tháp Chàm

LỜI MỞ ĐẦU  
1. Tính cấp thiết của đtài  
Ly hôn vừa vấn đề mang tính gia đình vừa vấn đề mang tính xã hội sâu sắc.  
Nó là mặt đối lập của việc kết hôn. Nếu kết hôn là việc hình thành quan hệ hôn nhân  
giữa hai người khác giới tính thì ly hôn là việc chấm dứt mối quan hệ đó về mặt pháp  
lý theo luật Hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, hậu quả của việc ly hôn không chỉ là  
chấm dứt mối quan hệ hôn nhân giữa hai người mà nó còn kéo theo cac hậu quả xấu  
khác: gia đình đổ vỡ, những đứa trẻ bị khuyết tật về tình cảm của bố hoặc mẹ, thiếu tự  
tin trong cuộc sống sa vào các tệ nạn hội, nghiện hút cướp giật....  
Ly hôn, một hiện tượng hội phức tạp, nó làm biến đổi hệ giá trị của gia đình,  
làm cho xã hội nảy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết. Hiện tượng ly hôn là mặt trái của  
hôn nhân một khi quan hệ hôn nhân tan vỡ. Tuy vậy, cũng có tính hai mặt: vừa tích  
cực, vừa tiêu cực. Mặt tích cực giải phóng cho mỗi cá nhân khi hôn nhân thật sự tan  
v, là cách giải thoát tốt nhất cho mỗi cá nhân. Nhưng mặt tiêu cực thì lúc nào cũng  
nặng nề để lại di chứng theo thời gian cho cá nhân trong cuộc và quan trọng hơn hết  
sự ảnh hưởng của đối với cả một hội đang phát triển. Gia đình một trong  
những nhân tố quan trọng, quyết định sự bền vững của hội. Xây dựng gia đình Việt  
Nam ít con, no ấm, tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc là động lực của chiến lược phát triển  
kinh tế hội đất nước ta trong giai đoạn mới hiện nay. Bên cạnh đó, hiện tượng ly  
hôn đang một thực trạng bức xúc của hội vì ly hôn là sự chấm dứt quan hệ thân  
nhân vợ chồng, sự phân chia tài sản, nuôi dưỡng con cái,….và một loạt vấn đề xảy ra  
sau ly hôn mà xã hội phải giải quyết cho các thế hệ thứ hai như xu hướng không kết  
hôn của những cá nhân sống trong gia đình đổ vỡ, tình trạng trẻ vị thành niên phạm tội  
trong các gia đình ly hôn tăng nhanh, trẻ bỏ học, nghiện hút,…  
Trong những năm vừa qua cùng với sự thâm nhập của nền kinh tế thị trường đã  
đang đem lại cho chúng ta nhiều thành tựu kinh tế khởi sắc, thì đi cùng với nó còn  
xuất nhiều tệ nạn hội như mặt trái của nó. Có thể nói ly hôn là một trong những  
hệ quả của các tệ nạn đó. Đối với em ly hôn lại là nguyên nhân của nhiều tệ nạn hội.  
Thực trạng ly hôn tại thành phố Phan Rang-Tháp Chàm trong những năm gần đây  
đang vấn đề đáng báo động cả về số lượng các vụ ly hôn và cả hậu quả tiêu cực của  
để lại. Từ đó đặt ra yêu cầu cấp bách là phải nghiên cứu một cách toàn diện các  
2
nguyên nhân của để đề ra giải pháp hữu hiệu nhằm hạn chế tình trạng ly hôn đang  
ngày càng co dấu hiệu gia tăng.  
Xuất phát từ yêu cầu cấp thiết trên đây em đã chọn đề tài Thực trạng ly hôn  
một số giải pháp hạn chế ly hôn tại thành phố Phan Rang-Tháp Chàm” với hy  
vọng góp phần nhỏ của mình vào việc hạn chế ly hôn tại địa phương.  
2. Đối tượng nghiên cứu  
Thực trạng, nguyên nhân dẫn tới ly hôn trong các gia đình  
3. Phạm vi nghiên cứu  
+ Về không gian: Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang-Tháp Chàm  
+ Về thời gian: Qua 2 năm (2016-2017)  
4. Mục đích nghiên cứu  
Tìm hiểu thực trạng, nguyên nhân và hậu quả của hiện tượng ly hôn; trên cơ sở  
đó, nêu lên một số khuyến nghị nhằm củng cố sự bền vững của gia đình, giảm thiểu ly  
hôn thành phố Phan Rang-Tháp Chàm  
5. Phương pháp nghiên cứu  
+ Phương pháp trực tiếp: tham dự phiên toà và cuộc hoà giải  
+ Phương pháp gián tiếp: Nghiên cứu hồ sơ và tài liệu liên quan  
6. Kết cấu các chương  
Ngoài phần mở đầu phần kết luận-kiến nghị đề tài gồm 3 chương:  
Chương 1: Cơ sở luận  
Chương 2: Thực trạng ly hôn tại thành phố Phan Rang-Tháp Chàm  
Chương 3: Một số giải pháp nhằm hạn chế ly hôn tại thành phố Phan Rang-  
Tháp Chàm  
2
3
Chương 1  
CƠ SỞ LUẬN  
1.Các khái niệm công cụ  
1.1 Gia đình  
Gia đình một khái niệm phức hợp gồm các yếu tố sinh học, tâm lý, văn hoá,  
kinh tế,… khiến cho nó không giống với bất kỳ một nhóm xã hội nào. Từ mỗi một góc  
độ nghiên cứu hay mỗi một khoa học khi xem xét về gia đình đều thể đưa ra một  
khái niệm gia đình cụ thể, phù hợp với nội dung nghiên cứu chỉ như vậy mới có  
cách tiếp cận phù hợp đến với gia đình.  
“Gia đình một nhóm người, có quan hệ với nhau bởi hôn nhân, huyết thống  
hoặc quan hệ nghĩa dưỡng, đặc trưng giới tính qua quan hệ hôn nhân, cùng chung  
sống, có ngân sách chung”  
Với những khái niệm trên, ta có thể hình dung được gia đình, nơi mà con người  
sinh ra, lớn lên, là nơi bắt đầu hình thành nhân cách sống trong xã hội. Gia đình mối  
liên hệ giữa vợ chồng, con cái. Nó có quy luật phát triển riêng với tư cách là một thiết  
chế hội đặc thù.  
1.2 Hôn nhân  
Nhìn nhận từ góc độ hội, hôn nhân là sự tạo lập cuộc sống chung hoàn toàn của một  
người đàn ông và một người đàn bà, sự sống chung hoàn toàn này gồm những thành  
phần vật chất: ở chung cùng một mái nhà, ăn chung cùng một mâm cơm, hưởng chung  
những sung sướng vật chất, cùng đồng lao cộng khổ để đủ mọi nhu cầu của cuộc  
sống đáp ứng cho hạnh phúc hôn nhân. Trong xã hội, hôn nhân được coi như một thiết  
chế hội, một yêu cầu cần phải đối với mỗi cá nhân, hôn nhân như một nếp  
sống cần phải theo, ý thức hôn nhân luôn tồn tại trong đầu óc của từng con người  
thông qua sự hội hoá trong gia đình và ngoài xã hội.  
Từ phía luật pháp hiện nay: Hôn nhân là quan hệ giữa vợ chồng sau khi kết  
hôn. Ở một số nước phương Tây, hôn nhân đồng giới đã được công nhận, nhưng ở  
Việt Nam, vấn đề này còn chịu sự phản đối của rất nhiều người, về phía Luật Hôn  
3
4
nhân và gia đình năm 2014 vẫn quy định “Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa  
những người cùng giới tính” (khoản 2 Điều 8).  
1.3 Kết hôn  
“Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định  
của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng kết hôn”  
Trong Điều 5, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định cấm các hành vi sau đây:  
a) Kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo;  
b)  
Tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, lừa dối kết hôn, cản trở kết hôn;  
c)  
Người đang vợ, chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng  
với người khác hoặc chưa vợ, chưa chồng kết hôn hoặc chung sống như vợ  
chồng với người đang chồng, vợ;  
d) Kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa những người cùng dòng máu  
về trực hệ; giữa những người họ trong phạm vi ba đời; giữa cha, mnuôi với con  
nuôi; giữa những người từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ  
vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;  
đ) Yêu sách của cải trong kết hôn;  
e)  
h)  
Cưỡng ép ly hôn, lừa dối ly hôn, cản trở ly hôn;  
g) Thực hiện sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản mục đích thương mại,  
mang thai hộ mục đích thương mại, lựa chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính;  
Bạo lực gia đình;  
i) Lợi dụng việc thực hiện quyền về hôn nhân và gia đình để mua bán người,  
bóc lột sức lao động, xâm phạm tình dục hoặc có hành vi khác nhằm mục đích trục lợi.  
2. Cơ sở luận về ly hôn và căn cứ ly hôn  
2.1. Khái niệm về ly hôn  
Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt cuộc đời  
con người vì nó được xác lập trên cơ sở tình yêu thương, gắn giữa vợ chồng. Tuy  
nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, những lý do nào đó dẫn tới giữa vợ chồng có mâu  
thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau nữa, vấn đề ly hôn được đặt  
4
5
ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên khác thoát khỏi mâu thuẫn gia đình.  
Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhưng mặt không thể thiếu được khi quan hệ hôn  
nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm vợ chồng đã thực sự tan vỡ.  
Trong xã hội truyền thống Việt Nam, kết hôn hay ly hôn phụ thuộc rất nhiều  
vào gia đình những luật lệ của hội. Còn trong xã hội hiện nay, mỗi cá nhân có  
quyền tự do kết hôn cũng như quyền tự do ly hôn và họ được pháp luật hiện hành bảo  
vệ quyền lợi chính đáng. Điều 54, 55 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 có ghi:  
Sau khi đã thđơn yêu cầu ly hôn, Toà án tiến hành hoà giải theo quy định của  
pháp luật về tố tụng dân sự. Trong trường hợp vợ chồng cùng yêu cầu ly hôn, nếu xét  
thấy hai bên thật sự tự nguyện ly hôn và đã thoả thuận về việc chia tài sản, việc trông  
nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con trên cơ sở bảo đảm quyền lợi chính đáng  
của vợ và con thì Toà án công nhận thuận tình ly hôn; nếu không thoả thuận được hoặc  
thoả thuận nhưng không bảo đảm quyền lợi chính đáng của vợ và con thì Toà án  
giải quyết việc ly hôn.  
2.2. Khái niệm về căn cứ ly hôn  
Ly hôn là hiện tượng hội mang tính giai cấp. Do có quan điểm khác nhau về  
quy định giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn được quy định trong pháp luật  
của Nhà nước hội chủ nghĩa nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly hôn do  
Nhà nước phong kiến, tư bản đặt ra. Pháp luật của nhà nước phong kiến, tư sản quy  
định thể cấm ly hôn (không quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công nhận quyền vợ  
chồng được sống tách biệt nhau (biệt cư) bằng chế định ly thân; bằng hạn chế quyền ly  
hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi của vợ chồng; thường  
quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng hay của cả hai vợ chồng (các  
điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ  
không phải bản chất ly hôn đã tan vỡ).  
3. Các bước thực hiện thủ tục ly hôn  
Thủ tục xin ly hôn được quy định cụ thể tại Bộ luật tố tụng dân sự 2015 và các  
văn bản hướng dẫn thi hành của Tóa án nhân dân tối cao hoặc hội đồng thẩm phán.  
Trong đó, thể khái quát lên các bước sau đây:  
Bước 1: Nộp hồ sơ khởi kiện tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền;  
5
6
Bước 2: Sau khi nhận đơn khởi kiện cùng hồ sơ hợp lệ Tòa án trong thời hạn 05  
ngày làm việc Tòa án kiểm tra đơn và ra thông báo nộp tiền tạm ứng án phí cho Quý  
khách;  
Bước 3: Nộp tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm tại Chi cục thi hành án  
quận/huyện nộp lại biên lai tiền tạm ứng án phí cho Tòa án;  
Bước 4: Trong thời hạn 15 ngày làm việc Tòa án tiến hành mở phiên hòa giải.  
Bước 5: Trong thời hạn 07 ngày kể từ ngày hòa giải không thành không thay  
đổi quyết định về việc ly hôn) nếu các bên không thay đổi ý kiến Tòa án ra quyết định  
công nhận ly hôn.  
4. Căn cứ cho giải quyết ly hôn  
Trước hết cũng như theo quy định của pháp luật thì thủ tục hòa giải  
được áp dụng đối với các vụ kiện ly hôn do Tòa án nhân dân tiến hành là thủ tục  
pháp lý bắt buộc, bởi vậy Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang-Tháp Chàm rất coi  
trọng công tác điều tra hòa giải. Mục đích cuối cùng và quan trọng nhất mà cán bộ hòa  
giải hướng tới giúp cho cuộc hôn nhân có nguy tan vỡ tránh được đổ vợ, vợ chồng  
đoàn tụ. Sau mỗi lần hòa giải, tòa án sẽ lập ra biên bản hòa giải, hòa giải thành gia  
đình trở về đoàn tụ, hòa giải không thành tòa án lập bản bản hòa giải không thành và  
5. Thẩm quyền giải quyết thủ tục ly hôn  
- quan duy nhất thẩm quyền giải quyết việc ly hôn ở Việt Nam (Bao gồm cả  
ly hôn thuận tình và ly hôn đơn phương) là Tòa án nhân dân.  
- Về nguyên tắc, thẩm quyền của Tòa án giải quyết vụ án ly hôn sẽ được xác định  
trên cơ sở thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án đối với các vụ án dân sự.  
- Đối với trường hợp ly hôn thuận tình thì tòa án nơi cư trú làm việc của vợ hoặc  
chồng đều thẩm quyền giải quyết vụ việc ly hôn.  
Còn đối với trường hợp ly hôn đơn phương thì tóa án nơi cư trú, làm việc của bị đơn  
(người bị khởi kiện) thẩm quyền giải quyết vụ việc ly hôn.  
Chương 2  
THỰC TRẠNG LY HÔN TẠI THÀNH PHỐ PHAN RANG-THÁP CHÀM  
1. Thực trạng ly hôn tại địa phương  
1.1 Giới thiệu chung  
6
7
- Về điều kiện tự nhiên: Ninh Thuận thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ, phía  
Bắc giáp tỉnh Khánh Hòa, phía Nam giáp tỉnh Bình Thuận, phía Tây giáp tỉnh Lâm  
Đồng và phía Đông giáp Biển Đông. Diện tích tự nhiên 3.358 km2, có 7 đơn vị hành  
chính gồm 1 thành phố và 6 huyện. Tp. Phan Rang-Tháp Chàm là thành phố thuộc  
tỉnh, trung tâm chính trị, kinh tế văn hóa của tỉnh. Phan Rang-Tháp Chàm nằm ở  
của ngõ phí Nam nên mọi giao lưu với các tỉnh phía Nam đều phải qua địa phận của  
thành phố.  
- Về điều kiện kinh tế: Tình hình kinh tế trong những năm gần đây của Tp. Phan  
Rang-Tháp Chàm phát triển không ngừng từ nông nghiệp, công nghiệp đến thủ công  
nghiệp. Góp phần không nhỏ tới nền kinh tế chung của toàn thành phố. Trong hai năm  
trở lại đây các làng nghề thủ công đặc biệt phát triển đã tạo công ăn việc làm cho  
những lao động nhàn rỗi ở nông thôn và từng bước đưa nền kinh tế của thành phố phát  
triển  
1.2 Tình hình ly hôn tại địa phương  
- Lấy số liệu 2 năm (2016-2017) để làm số liệu so sánh  
Bảng 1  
Đơn vị: Vụ án  
Năm  
2016  
2017  
Án hình sự  
Án dân sự  
Án ly hôn  
29  
27  
8
41  
34  
15  
Nguồn: phòng Lưu trữ Toà án  
Qua bảng trên ta có thể thấy số lượng án ly hôn chiếm vị trí rất lớn trong số  
án tại thành phố Phan Rang-Tháp Chàm( số án ly hôn luôn > Số án hình sự và dân sự ).  
Đặc biệt năm 2016 thì số án ly hôn hơn 10 án so với tổng án hình sự và dân sự khác  
Sau đây thống kê các vụ án ly hôn đã thụ lý và đã giải quyết từ năm 2016  
đến năm 2017  
Bảng 2  
Năm  
2016  
Đơn vị: vụ án  
Thụ lý  
41  
Đã giải quyết  
Còn  
08  
33  
28  
2017  
34  
06  
7
8
1.3 Nguyên đơn ly hôn  
Trong xã hội truyền thống nước ta, những tư tưởng, giá trị chuẩn mực hội  
chịu ảnh hưởng rất sâu đậm của tư tưởng nho giáo. Những quy định của hội truyền  
thống đã làm mất đi quyền bình đẳng giữa nam và nữ.  
hội phong kiến với những bất công, khắt khe “Tại gia tòng phụ, xuất giá  
tòng phu, phu tử tòng tử”, quan niệm trọng nam khinh nữ “Nhất nam viết hữu, thập nữ  
viết vô” đã dành mọi ưu tiên, ưu đãi cho người đàn ông và đẩy người phụ nữ xuống  
địa vị thấp kém nhất trong gia đình cũng như hội, người phụ nữ luôn luôn phải phụ  
thuộc vào người đàn ông và vị trí, vai trò của phụ nữ ít được hội coi trọng thừa  
nhận. Nếu trong xã hội phong kiến, nam giới quyền đa thê, phụ nữ chỉ được lấy một  
chồng “Trai khôn năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên chỉ một chồng”. Những quy  
định của hội phong kiến dành cho nữ giới vốn bất bình đẳng, cho nên dù người phụ  
nữ bị chồng hành hạ như thế nào thì họ không có quyền bỏ chồng. Nếu họ bỏ chồng  
thì xã hội sẽ lên án.  
Biểu đồ 1: Nguyên đơn trong hồ sơ ly hôn tại thành phố Phan Rang-Tháp Chàm  
[Nguồn: Toà án nhân dân thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.]  
8
9
Biểu đồ 1 cho chúng ta thấy, trong 75 vụ án ly hôn (năm 2016: 41 vụ, năm  
2017: 34 vụ) ở thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỷ lệ nữ đứng đơn cao hơn nam giới.  
Số nữ đứng đơn là 56 (chiếm 74,6%) và số nam đứng đơn là 19 (chiếm 25,4%).  
Qua phân tích các trường hợp ly hôn thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tôi  
nhận thấy nữ giới đứng đơn cao hơn nam giới thể do những nguyên nhân sau:  
Thứ nhất, phụ nữ nhận thức về quyền lợi của mình.  
Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm từ một vùng nông thôn truyền thống với nền  
văn minh cổ truyền thủ công lạc hậu trong sản xuất nông nghiệp. Cùng với Chính sách  
“Đổi mới” của cả nước vào cuối những năm 80 và nỗ lực phát triển của địa phương,  
những năm gần đây, thành phố Phan Rang-Tháp Chàm đang trên đà hiện đại hoá  
Thành phố với sự phát triển nhanh về kinh tế - xã hội (số hộ nghèo từ 1.399 năm 2016  
giảm xuống còn 313 hộ năm 2017).  
Phụ nữ tại thành phố Phan Rang-Tháp Chàm cũng vậy, họ cũng đang sống  
trong một thành phố đang phát triển, họ cũng nhận được sự quan tâm, bảo vệ của Nhà  
nước và xã hội họ đầy đủ quyền lợi để đấu tranh bảo vệ cho chính bản thân họ.  
Trong gia đình, sự độc đoán, gia trưởng như thời phong kiến khiến người phụ nữ  
không thể chịu đựng nổi.  
Ngày nay, phụ nữ đều mong muốn một gia đình hạnh phúc, vợ chồng bình  
đẳng, cảnh phụ nữ nhẫn nhục, chịu đựng bạo lực thường xuyên của người chồng như  
thời phong kiến cũng không còn nữa. hội đô thị hiện đại, mỗi cá nhân là một  
cái tôi riêng và họ được pháp luật bảo vệ. Họ quyền đấu tranh để giành lấy hạnh  
phúc của mình nếu cuộc hôn nhân đó bất hạnh.  
Thứ hai, phụ nữ độc lập về mặt kinh tế.  
Trước khi nước ta bước vào giai đoạn phát triển đất nước, phụ nữ chủ yếu làm  
nông nghiệp, nhưng ngày nay, khi đất nước bước vào quá trình công nghiệp hoá, hiện  
đại hoá thì phụ nữ đã mặt ở nhiều ngành nghề khác nhau trong xã hội, họ điều  
kiện làm việc và thu nhập không kém gì nam giới.  
Tại thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, kinh tế - xã hội phát triển, nhiều khu  
công nghiệp ra đời thu hút lao động, đặc biệt ở thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, các  
nghề kinh doanh, buôn bán, dịch vụ đang mở ruộng, thu hút rất nhiều lao động. Vì  
9
10  
vậy, người phụ nữ thành phố Phan Rang-Tháp Chàm cũng độc lập về mặt kinh tế, họ  
cơ hội tìm kiếm việc làm, tăng thu nhập cho bản thân, gia đình họ cũng tiếng  
nói nhiều hơn trong gia đình họ đóng góp cho gia đình không kém gì nam giới. Vậy  
nên, khi gia đình xảy ra xung đột, hay khi người phụ nữ bị bạo hành thì họ dám đứng  
lên để giải quyết những xung đột đó. Thậm chí họ thể phá vỡ những quan hệ hội  
được xem là thiêng liêng như quan hệ hôn nhân gia đình.  
Sự độc lập về mặt kinh tế cũng khiến người phụ nữ ở thành phố Phan Rang-  
Tháp Chàm chủ động hơn trong việc giải quyết các xung đột gia đình.  
Thứ ba, sự thay đổi trong thái độ của dư luận hội  
Nếu trong xã hội phong kiến ở nước ta, ly hôn không được mọi người chấp  
nhận thì ngày nay, mọi người không còn quá định kiến với những trường hợp ly hôn.  
Trao đổi với cán bộ toà án thành phố Phan Rang-Tháp Chàm và nói chuyện với người  
thân trong gia đình của những cặp vợ chồng ly hôn, tôi càng nhận thấy sự thông  
cảm thay vì lên án mạnh mẽ hay kỳ thị với những người ly hôn.  
Tiếp xúc trực tiếp với người thân trong vụ xét xử ly hôn, tôi thấy được sự thông  
cảm của họ đối với con cái và họ tôn trọng sự lựa chọn của con cái.  
Người dân cũng thông cảm với những người ly hôn, họ không lên án mạnh mẽ  
hay kỳ thị những người ly hôn.  
Rõ ràng có thể thấy, dư luận hội vô hình chung đã tạo ra một chuẩn mực  
trong xã hội. Khi dư luận hội xem ly hôn là hiện tượng lệch chuẩn đánh giá về  
đạo đức và uy tín của cá nhân nếu họ ly hôn, thì khi trong gia đình xảy ra những xung  
đột, mâu thuẫn, các cá nhân cố gắng thích nghi hoặc chấp nhận để gia đình yên ấm,  
không xảy ra ly hôn. Khi dư luận hội không lên án gay gắt hiện tượng ly hôn, các cá  
nhân kém thích ứng và không biết cách giải quyết sự xung đột như thế nào thì ly hôn  
rất dễ xảy ra. Chỉ khi nào họ tìm ra giải pháp để giải quyết xung đột thì xung đột mới  
giải quyết được.  
Tuy nhiên, có những trường hợp ly hôn thành phố Phan Rang-Tháp Chàm,  
phụ nữ đứng đơn không phải họ tự nguyện, mà do hành vi ép buộc của người chồng,  
nên họ phải viết đơn ly hôn. Bản thân những người chồng đó muốn ly hôn, tuy nhiên  
10  
11  
họ dùng nhiều hình thức khác nhau để làm cho người vợ phải làm đơn ly hôn. Họ  
không muốn dư luận hội lên án họ như người chồng ruồng bỏ vợ con.  
1.4 Tuổi ly hôn của phụ nữ và nam giới  
Qua phân tích hồ sơ ly hôn, tôi thấy rằng, các trường hợp ly hôn tập trung chủ  
yếu ở ba nhóm tuổi là 25 - 30, 31 - 35 và 36 - 40.  
Bảng 3: Tuổi ly hôn của vợ chồng 75 vụ năm 2016-2017(%).  
Chồng  
Vợ  
Nhóm tuổi  
Tần suất  
%
Tần suất  
%
Dưới 25  
25 – 30  
5
4,9  
14  
28  
15  
10  
8
17,3  
32,2  
19,7  
13,7  
9,5  
19  
16  
12  
10  
7
26,0  
25,9  
18,1  
12,8  
6,9  
31 – 35  
36 – 40  
41 – 45  
46 – 50  
6
4,9  
Trên 50  
Tổng cộng  
6
5,4  
3
2,7  
75  
100  
1.880  
100  
[Nguồn: Toà án nhân dân thành phố Phan Rang-Tháp Chàm.]  
Từ số liệu thống kê các trường hợp ly hôn thành phố Phan Rang-Tháp Chàm,  
tôi thấy rằng: nhóm tuổi ly hôn phổ biến nhất là 25 - 30, trong đó có 28 trường hợp đối  
với vợ (chiếm tỷ lệ 32,2%) và 19 trường hợp đối với chồng (chiếm tỷ lệ 26,0%). Tuổi  
ly hôn trung bình của vợ là 32, của chồng là 35. Tuổi ly hôn thấp nhất của vợ là 18,  
của chồng là 20. Tuổi ly hôn cao nhất của vợ là 67, của chồng là 76.  
Nhóm tuổi 25 - 30: đây là nhóm tuổi đang dần thích ứng với cuộc sống hôn  
nhân gia đình. Kết hôn là sự chung sống giữa người đàn ông và người phụ nữ, họ phải  
dung hoà những khác biệt về văn hoá, quan niệm sống và các giá trị khác nhau từ hai  
phía. Trong cuộc sống hàng ngày, việc dung hoà hai tiểu văn hoá gia đình và quan  
niệm giá trị rất khó khăn rất dễ gây xung đột. Điều đó đòi hỏi cả hai người phải biết  
thích ứng với cuộc sống gia đình mới, phải chia sẻ cho nhau về những giá trị phải  
công khai chia sẻ với nhau những xung đột gia đình để cùng nhau giải quyết.  
11  
12  
Nhóm tuổi 31 - 35 và 36 - 40: ly hôn hai nhóm tuổi này do hai yếu tố độ  
dài của hôn nhân và kinh tế khá giả.  
Một độ dài của hôn nhân: qua trục thời gian của hôn nhân thì thấy rằng, ở  
hai nhóm tuổi này cả nam và nữ phần lớn đã kết hôn được một thời gian từ 5 đến 10  
năm. Đây khoảng thời gian mà cả hai vợ chồng bộc lộ ra những thói quen, khuyết  
điểm của bản thân mà trước thời kỳ hôn nhân họ không có hoặc không biết.  
Cùng với thời gian, những yếu tố khách quan từ bên ngoài xã hội tác động đến  
gia đình làm nảy sinh những xung đột liên quan đến công việc làm ăn, con cái, quan hệ  
hội,..., rất nhiều lý do đó khiến không ít gia đình phải ly hôn. Bên cạnh đó cũng có  
yếu tố chủ quan từ người trong cuộc. Ở độ tuổi từ 30 - 40, một số phụ nữ mặc cảm về  
bản thân, họ không tự tin vào bản thân mình, thấy mình xấu và già đi. vậy, họ tỏ ra  
cáu gắt, xét nét người bạn đời và hay ghen tuông vô cớ khiến không khí gia đình nặng  
nề, người bạn đời cảm thấy khó chịu, nghẹt thở những tra hỏi cớ.  
Hai là kinh tế khá giả: ở độ tuổi 30 - 40, người đàn ông có công việc và thu  
nhập ổn định, vị trí trong xã hội. Người đàn ông với địa vị và thu nhập cao, ổn định,  
cơ hội tiếp xúc với nhiều người trong xã hội. Kết hợp với yếu tố các mâu thuẫn  
trong gia đình sau một thời gian dài chung sống khiến người đàn ông có nguy cơ ngoại  
tình cao. Còn người phụ nữ thì ngược lại, họ mặc cảm vì mình ngày càng một già đi.  
Phần lớn cuộc sống của họ chăm lo cho gia đình.  
Nhóm tuổi dưới 25: là nhóm tuổi mới xây dựng gia đình riêng và sinh con đầu  
lòng. Đây là giai đoạn đầu khó khăn nhất dễ gây xung đột vợ chồng nhất trong các  
giai đoạn phát triển của hôn nhân. Khi có con, hai vợ chồng thường xuyên phải đối  
mặt với những khó khăn, vất vả trong cuộc sống hàng ngày. Nhất là khi có con đầu  
lòng, hai vợ chồng thường xảy ra xung đột nhiều nhất. trước khi có con, hai vợ  
chồng chưa lường được hết những vất vả, khó khăn. Những khoảng thời gian hai vợ  
chồng chăm sóc cho nhau không có nhiều như lúc mới cưới vì khi có con họ phải  
giành phần lớn thời gian, công sức để chăm sóc con, họ phải trích một khoản tiền lớn  
để nuôi con. Điều này nhiều khi tạo ra những bất đồng trong gia đình trẻ.  
Nhóm tuổi trên 50: ly hôn nhóm tuổi này chiếm tỷ lệ không cao, chỉ có 101  
trường hợp đối với nam và 51 trường hợp đối với nữ. Ly hôn nhóm tuổi này thường  
12  
13  
ít xảy ra hơn với các nhóm tuổi khác. Bởi các cá nhân nhóm tuổi này thường đã có  
con cháu, nhiều khi có những bất đồng nhưng họ bỏ qua cho nhau. Vì họ sợ sự đánh  
giá không tốt từ phía con cháu trong gia đình họ cũng muốn giữ không khí gia đình  
yên ấm khi về già.  
1.5 Nghề nghiệp học vấn của người ly hôn  
Tuy qua phân tích hồ sơ ly hôn thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tôi không  
thể thống được số liệu chính xác về nghề nghiệp học vấn của người ly hôn vì  
trong Đơn xin ly hôn không yêu cầu khai phần này. Nhưng qua đọc nội dung các hồ sơ  
ly hôn, trong đơn ly hôn, biên bản hoà giải của toà án, bản tường trình của các bị đơn  
và qua trao đổi với các cán bộ trong ngành Toà án, tôi được biết đối tượng ly hôn  
thuộc các ngành nghề khác nhau: dịch vụ, thương mại, làm thuê, làm ruộng, tạp vụ,  
công nhân, lực lượng vũ trang, công an, công chức, viên chức. Trong đó, tỷ lệ ly hôn ở  
những người làm việc trong nhà nước đang có xu hướng tăng lên. Về học vấn của  
những người ly hôn cũng đa dạng: học hết cấp 2, học hết cấp 3, trung cấp, cao đẳng,  
đại học, thạc sỹ.  
1.6 Độ dài của hôn nhân  
Ly hôn hiện nay đang chịu sự tác động mạnh mẽ từ những biến đổi trong đời  
sống hội. Trong bối cảnh hội của nước ta hiện nay, cả giá trị truyền thống và giá  
trị hiện đại đang song hành cùng tồn tại. Hai hệ giá trị đôi khi tác động trái chiều nhau  
tới lối sống của mỗi gia đình. Một mặt, người đàn ông vẫn muốn người quyền  
quyết định trong gia đình, hội. Mặt khác, phụ nữ ngày nay đã nhận thức được vị  
thế và vai trò của mình. Họ được pháp luật thừa nhận quyền bình đẳng được pháp  
luật bảo vệ. vậy, một khi trong mối quan hệ gia đình họ không nhận được sự  
bình đẳng thì họ sẽ đứng lên để bảo vệ quyền lợi của mình. Từ hai mặt của quan điểm  
và giá trị trái ngược nhau như vậy, bất đồng quan điểm và xung đột trong gia đình rất  
dễ xảy ra.  
Bảng 3: Độ dài của hôn nhân (%).  
Độ dài của hôn nhân  
Số trường hợp  
Phần trăm  
(năm)  
(%)  
Dưới 5  
20  
31,2  
13  
14  
5 - 10  
11 – 15  
16 – 20  
21 – 25  
26 – 30  
Trên 30  
Tổng  
22  
15  
7
35,7  
14,1  
8,9  
6
5,7  
3
2,6  
2
1,8  
75  
100  
[Nguồn: Toà án nhân dân thành phố Phan Rang-Tháp Chàm.]  
Khi nhìn vào bảng 3, ta thấy rằng số năm chung sống trong các trường hợp ly  
hôn thành phố Phan Rang-Tháp Chàm cao nhất từ 5 – 10 năm. Qua số liệu phân  
tích các trường hợp ly hôn thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tôi tập trung phân tích  
số yếu tố ảnh hưởng lớn tới số năm chung sống trong các trường hợp ly hôn, đó là:  
khoảng cách tuổi của vợ chồng; nghề nghiệp giữa vợ chồng học vấn của vợ  
chồng.  
Khoảng cách tuổi của vợ chồng  
Trong giá trị hôn nhân truyền thống của người Việt Nam, hợp tuổi một tiêu  
chí quan trọng. Theo quan niệm dân gian, hợp tuổi không những mang lại cho gia đình  
hạnh phúc, mà còn tránh được những điều không may cho cả vợ chồng. Khoảng  
cách tuổi giữa vợ chồng có ý nghĩa tới độ bền vững của hôn nhân. Trong mỗi nhóm  
tuổi những đặc điểm tâm sinh lý khác nhau. Những khác biệt này cũng thể là  
những nguyên nhân gây ra xung đột gia đình.  
Khác biệt nghề nghiệp giữa vợ chồng  
Bên cạnh yếu tố tuổi, yếu tố khác biệt nghề nghiệp giữa vợ chồng cũng ảnh  
hưởng tới hạnh phúc của gia đình.  
Học vấn của người ly hôn  
Qua phân tích hồ sơ ly hôn, tôi nhận thấy độ dài của hôn nhân cũng mối  
quan hệ với trình độ học vấn của người ly hôn. Người có trình độ học vấn thấp ly hôn  
nhiều hơn người có trình độ học vấn cao.  
1.7 Đường lối giải quyết  
14  
15  
Từ khi Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 có hiệu lực thì trong công tác xét xử  
của Tòa án thành phố Phan Rang-Tháp Chàm cũng nhiều thuận lợi từ đó giảm được  
nhiều án tồn đọng trong những năm trước khi có luật mới. từ khi có luật mới thì  
những sai sót để sữa chữa không nhiều, giảm đáng kể so với trước đây  
a) Về hôn nhân:  
Sau khi nhận đơn Tòa án xem xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền của mình thì Tòa  
án tiến hành thụ lý và đưa án ra giải quyết theo đúng trình tự thủ tục quy định. Tòa án  
sẽ xem xét thấy cuộc hôn nhân này không vi phạm điều kiện thủ tục quy định tại điều  
8,9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì Tòa án tiến hành điều tra hòa giải. Trong  
vụ án hôn nhân hòa giải một thủ tục bắt buộc trong quá trình tố tụng. Nếu sau khi  
hòa giải mà các đương sự vẫn không thể cải thiện đời sống tình cảm, không thể kéo dài  
đời sống chung, mục đích hôn nhân khoogn đạt được thì Tòa án xử cho ly hôn. Nếu  
sau khi nhận đơn mà Tòa án xét thấy hôn nhân đó là không hợp pháp thì Tòa án ra  
quyết định hủy kết hôn trái pháp luật theo điều 11 Luật này và buộc hai bên nam nữ  
phải chấm dứt quan hệ vợ chồng.  
b) Về con cái  
Dù hôn nhân của cha mẹ không được công nhận hợp pháp nhưng quyền lợi  
của con cái vẫn được giải quyết như trường hợp cha mẹ xin ly hôn, hôn nhân hợp pháp  
(khoản 2 điều 12 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014). Vì thế, Việc trông nom, chăm  
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con sau khi ly hôn được áp dụng theo quy định tại các điều  
81, 82,83,84 của Luật này với nội dung sau:  
Sau khi ly hôn, cha mẹ vẫn quyền, nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng,  
giáo dục con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc  
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình theo quy định của  
Luật này, Bộ luật dân sự và các luật khác có liên quan.  
Vợ, chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên  
sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định  
giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con  
từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con.  
15  
16  
Con dưới 36 tháng tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, trừ trường hợp người  
mẹ không đủ điều kiện để trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con  
hoặc cha mẹ thỏa thuận khác phù hợp với lợi ích của con…….”  
c) Về tài sản  
Dựa trên các căn cứ theo điều 16 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 được quy  
định như sau: “Quan hệ tài sản, nghĩa vụ hợp đồng của nam, nữ chung sống với  
nhau như vợ chồng mà không đăng kết hôn được giải quyết theo thỏa thuận giữa  
các bên; trong trường hợp không có thỏa thuận thì giải quyết theo quy định của Bộ  
luật dân sự và các quy định khác của pháp luật có liên quan.  
Việc giải quyết quan hệ tài sản phải bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của phụ  
nữ và con; công việc nội trợ và công việc khác có liên quan để duy trì đời sống chung  
được coi như lao động có thu nhập”  
2. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên  
Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm trong những năm gần đây số lượng án hôn  
nhân nhân được thụ lý khá nhiều. Điều đó được tạo thành bởi số các nguyên nhân  
khác nhau trong cuộc sống, và có thể kể đến một loạt những nguyên nhân sau:  
Bảng số liệu minh họa một số nguyên nhân tiêu biểu  
Bảng 2  
Đơn vị: vụ án  
Mâu  
Ngoại  
Không  
con  
Nghiện  
Đang thi  
Năm  
thuẫn gia  
đình  
bỏ nhà đi  
tình  
ma túy  
hành án  
2016  
2017  
33  
22  
6
7
1
1
1
1
0
2
0
1
Mâu thuẫn gia đình  
-Do đánh đập ngược đãi: Gia đình tế bào của hội, gia đình ấm no  
hạnh  
phúc thì xã hội mới phát triển được, thế nhưng không phải bất cứ gia đình nào cũng  
hạnh phúc mà trong cuộc sống phát sinh nhiều mâu thuẩn. Những vụ án năm 2016-  
2017 mà Tòa án đã thụ lý và giả quyết mâu thuẫn chủ yếu là do mâu thuân gia đình  
chiếm hơn 80% các vụ án về ly hôn. Năm 2016 số vụ án ly hôn do mâu thuẫn gia đình,  
16  
17  
đánh đập, ngược đãi là 33 vụ chiếm 84%. Mâu thuẫn gia đình chủ yếu phát sinh do bất  
đồng quan điểm sống, cách suy nghĩ, sự khó khăn về kinh tế trong gia đình cũng như  
các hành vi ứng xử trong gia đình. Mâu thuẫn gia đình cũng thể xuất phát từ những  
xích mích, hiểu lầm, ghen tuông, sự đố kỵ nhau trong cuộc sống, từ sự thiếu hiểu biết  
của một bên hoặc cả hai bên về quyền nghĩa vụ của mình đối với gia đình.  
Theo quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì mâu thuẫn gia đình dẫn  
tới cuộc sống chung không thể kéo dài được, mục đích hôn nhân không đạt được, đó là  
một căn cứ để Tòa án quyết định cho ly hôn.  
Trong năm 2017 trong số các vụ án ly hôn thì có 22 vụ là do mâu thuẫn gia đình  
chiếm 64%. Qua số liệu trên cho thấy rằng mâu thuẫn gia đình chính là nguyên nhân  
chính dẫn đến tình trạng ly hôn ngày càng nhiều ở thành phố Phan Rang-Tháp Chàm  
Do mâu thuẩn trong quan hệ mẹ chồng - nàng dâu: Mẹ chồng và nàng dâu vốn là  
hai người ở hai thế hệ khác nên sẽ rất khó để dung hòa trong cách sống, lối suy nghĩ.  
thế mà trong mối quan hệ giữa hai người luôn tồn tại những mâu thuẫn muôn thủa,  
như bất đồng quan điểm trong cách chăm sóc và nuôi dạy trẻ, mẹ chồng ghen vì nghĩ  
con trai mình yêu vợ hơn mẹ hoặc con dâu cảm thấy không thoải mái khi mẹ chồng  
can thiệp vào việc riêng… và một khi mâu thuẩn ngày càng nhiều, người chồng không  
thể hoá giải được những mâu thuẩn giữa mẹ-vợ cũng sẽ dẫn đến ly hôn  
Ngoại tình  
Đây cũng chính là nguyên nhân dẫn đến số lượng các gia đình tan vỡ, phải giả  
quyết bằng con đường ly hôn khá lớn. Tốc độ đô thị hóa nông thôn diễn ra nhanh  
chóng nên ảnh hưởng không nhỏ tới nền kinh tế, văn hóa xã hội trên địa bàn thành phố  
Phan Rang-Tháp Chàm. Vì vậy quan điểm hôn nhân gia đình của mỗi cá nhân rất khác  
nhau. Có trường hợp con trai hoặc con gái có chút tài sắc từ nông thôn ra ngoài thành  
phố buôn bán làm ăn, họ không muốn quay về lại chốn cũ muốn ở lại thành phố  
nên tìm cách kết hôn với người thành phố để có nhà cửa họ không yêu. Sau một  
thời gian, khi đã chỗ đứng cho mình thì họ mới đi tìm hạnh phúc thực sự nên cả vợ  
hoặc chồng không chung thủy điều rất phổ biến.  
Ngày xưa, người phụ nữ luôn coi trọng danh dự, nhân phẩm của mình bằng sự  
thủy chung son sắc, họ coi việc vụng trộm tình ái là hành vi xấu xa, phản bội thiếu  
17  
18  
đạo đức. Nhưng ngày nay, quan niệm “ông ăn chả, ăn nem” trở thành mốt trong  
một số gia đình.  
Mâu thuẫn do tính tình không hợp  
Phan Rang-Tháp Chàm là một thành phố thuần nông, trong vùng nam nữ kết hôn  
sớm, thời gian tìm hiểu ngắn ngủi, quan niệm về gia đình mang tính giản đơn, sau khi  
về sinh sống mới phát sinh mâu thuẫn thế trong gia điình luôn cãi cọ. Hơn nữa có  
một số trường hơp do ý thức nhất thời của một số các chàng trai cô gái mới lơn lên nên  
họ chưa ý thức được trách nhiệm của mình cho gia đình, mà con mang nặng tính trẻ  
con  
Tình trạng lấy trước yêu sau cũng rất phổ biến nhiều gia đình mối quan hệ  
qua lại với nhau, có con cái lớn họ thường gán ghép cho nhau. Vì họ nghĩ rằng đó là  
gia đình tốt, gửi con cái vào đó sẽ cuộc sống sung sướng. Nhưng họ không biết rằng  
con cái khoogn thích hoặc đã người khác, nên cứ áp đặt cứ nghĩ rẳng cứ về sống  
với nhau sinh con đẻ cái là sẽ có tình yêu như trường hợp ở lứa tuổi mình hồi trước.  
Nên sau khi kết hôn những cặp vợ chồng chung sống được một thời gian ngắn ngủi lại  
phát sinh mâu thuẫn, do những bất đồng trong lối sống, suy nghĩ trong sinh hoạt hằng  
ngày. Cứ thế khoảng cách giữa hai vợ chồng ngày một xa hơn đã đến tình trạng vợ  
chồng chán nản, thậm chí không muốn nhìn mặt nhau, rồi cuối cùng cả hai cùng đưa  
nhau ra tòa để giải quyết tình trạng trên.  
Điều kiện kinh tế gia đình:  
Các cặp vợ chồng sau khi lập gia đình phải tự lo cho mái ấm của mình, điều kiện  
kinh tế chưa đảm bảo cho cuộc sống riêng hoặc chưa nghề nghiệp ổn định cùng với  
đó là sinh con sớm, nên kinh tế gia đình gặp nhiều khó khăn. Nỗi khốn khó đeo bám  
triền miên khiến vợ chồng sinh ra mâu thuẫn không thể tháo gỡ kết cục là xin ly  
hôn. Nhiều gia đình vợ chồng nghề nghiệp ổn định, điều kiện kinh tế khá giả,  
nhưng do mải theo làm ăn kinh tế, thiếu quan tâm đến tình cảm vợ chồng, dần phai  
nhạt rồi xảy ra “chiến tranh lạnh”, trường hợp khi người chồng địa vị chỗ  
đứng trong xã hội, hoặc điều kiện kiếm ra tiền tự cho mình “cái quyền” làm gì  
tùy thích theo thú vui của riêng mình, thiếu quan tâm đến gia đình, vợ con. Người vợ ở  
18  
19  
nhà thiếu thốn tình cảm, vợ chồng sinh ra nghi kỵ ghen tuông và vợ chồng phát sinh  
mâu thuẫn dẫn đến ly hôn.  
Do sinh con một bề  
Ngày nay tư tưởng “trọng nam khinh nữ không còn nặng nề như xưa” nhưng  
vẫn có không ít trường hợp vợ chồng sinh con một bề, làm cho người chồng chán nản  
bỏ bê công việc gia đình, đi theo con đường bài bạc rồi dần dần của cải trong gia đình  
“đội nón ra đi”; hoặc rủ bạn đi nhậu hết ngày này sang ngày khác, khi tàn cuộc về  
nhà tìm trăm ngàn lý do để chửi bới, hành hạ đánh đập vợ con gây thương tích hoặc  
tìm đến “người thứ 3” để có con trai cũng dẫn đến việc ly hôn  
Những vấn đề trên là một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hiện tượng ly hôn ở  
Thành phố Phan Rang-Tháp Chàm. Từ những nguyên nhân ấy, đặt ra một câu hỏi lớn  
cho chúng ta. Chúng ta phải làm gì và có các gải pháp nào để thúc đây sự phát triển  
kinh tế hội tại nơi đây một cách toàn diện hơn nữa.  
3 . Hậu quả pháp lý của ly hôn  
Khi ly hôn, các chức năng của gia đình bị phá vỡ, gây ra không ít khó khăn cho  
con người và xã hội.  
Trong xã hội cũ, việc ly hôn là vô cùng hạn chế, điều này lại cũng gây không ít  
sự đau khổ cho những con người không thể sống với nhau mà vẫn cứ phải sống với  
nhau. Xã hội cũ thường không coi trọng cá nhân mà coi trọng sự ổn định của gia đình.  
Con người trong xã hội cũ phải lệ thuộc vào xã hội. Nhất ở Việt Nam, nơi chịu ảnh  
hưởng của nho giáo. hội cũ, gia đình rất quan trọng, sự kết cấu gia đình như  
hôn nhân là sự kết hợp giữa hai dòng họ chứ không phải sự kết hợp hai cá nhân. Cá  
nhân dường như hoà tan trong gia đình và dòng họ. Chính vì vậy sự ly hôn là vô  
cùng hiếm hoi. Sắc thái của các cuộc ly hôn cũng khác với ngày nay. Ngày xưa, ly hôn  
dựa trên 7 điều thực tế dựa trên lợi ích của gia đình chứ không phải của cá nhân,  
như: không con, hỗn láo với bố mẹ chồng, lắm điều,… Người đàn xưa kia hoàn  
toàn lệ thuộc vào gia đình, không có quyền riêng, khi họ ly hôn thì toàn bộ của cải  
thuộc nhà chồng và con cái. Người đàn bà khi ly hôn thì ra khỏi gia đình nhà chồng  
với hai bàn tay trắng và quan trọng hơn nữa họ mất hết danh tiếng, cái mà đôi khi  
19  
20  
sức mạnh hơn cả tiền bạc. Hơn nữa, khi họ ở gia đình nhà chồng, rằng chồng đối  
xử với họ không còn tình cảm thì họ vẫn quyền hưởng tài sản và danh tiếng của nhà  
chồng. Điều này làm cho người phụ nữ xưa thường ít khi nghĩ tới việc ly hôn.  
Ngày nay, khi ly hôn, người ta tính đến tình cảm của hai cá nhân riêng biệt, chứ  
không để ý tới yếu tố dòng họ. Nhìn từ góc độ các quyền cơ bản của con người, ly hôn  
đảm bảo cho các cá nhân quyền tự định đoạt giải pháp khi hôn nhân không còn giữ  
được các giá trị ban đầu. Nhìn từ góc độ giá trị hội, ly hôn là sự tan vỡ của một cơ  
cấu kinh tế hội quan trọng, ly hôn để lại những hậu quả cho các cá nhân có liên  
quan và cho xã hội.  
Ở đề tài này, do sử dụng phương pháp phân tích số liệu trên hồ sơ ly hôn nên  
việc thu thập thông tin sau ly hôn để phân tích sâu mục này là không có. Ở đây, tôi chỉ  
dựa trên thông tin từ việc phân tích tài liệu phỏng vấn sâu để bàn luận về những vấn  
đề thể đặt ra sau ly hôn về mặt tích cực và tiêu cực đang sẽ diễn ra tại thành phố  
Tây Ninh để có cái nhìn tương đối về hậu quả sau ly hôn.  
3.1 Xét về mặt tích cực  
Ly hôn là sự giải thoát cho những con người đang sống trong cảnh bất hạnh vì  
sự xung đột, sự bất đồng, sự dối trá, sự hành hạ kéo dài của cuộc hôn nhân.  
Như vậy, ly hôn tại thành phố Phan Rang-Tháp Chàm được các cặp vợ chồng  
không hạnh phúc xem như một lối thoát cho bản thân. Thoát ra khỏi cuộc hôn nhân  
không hạnh phúc như được thoát ra khỏi nhà tù, con người sẽ được tự do, tương lai sẽ  
bớt u ám, sẽ không còn phải tức giận, sẽ không nơm lớp lo sợ sẽ không phải rơi  
nước mắt nữa.  
3.2 Xét về mặt tiêu cực  
Bất kể một sự việc đều có tính hai mặt của nó, ly hôn cũng vậy, bên cạnh mặt  
tích cực của ly hôn thì song song nó cũng diễn ra những tiêu cực của ly hôn ảnh hưởng  
đến cá nhân và xã hội rất nhiều.  
Qua phân tích hồ sơ ly hôn tại thành phố Tây Ninh, tôi thấy có hai dạng hậu quả  
ảnh hưởng đến cá nhân và xã hội sau ly hôn: thứ nhất hậu quả về mặt pháp lý và thứ  
hai là hậu quả về cá nhân và xã hội.  
3.3 Hậu quả về mặt pháp lý  
20  
Tải về để xem bản đầy đủ
doc 27 trang yennguyen 31/03/2022 4740
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tóm tắt Luận văn Thực trạng ly hôn và một số giải pháp hạn chế ly hôn tại thành phố Phan Rang - Tháp Chàm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

File đính kèm:

  • doctom_tat_luan_van_thuc_trang_ly_hon_va_mot_so_giai_phap_han_c.doc