Luận văn Chất lượng lao động Thanh Niên dân tộc thiểu số - Trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa - Tỉnh Thanh Hóa
ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
ĐẠI HỌC UPSALA – THỤY ĐIỂN
CHƯƠNG TRÌNH THẠC SỸ QUẢN LÝ CÔNG
-------------------------------------------
LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP
CHUYÊN NGÀNH QUẢN LÝ CÔNG
ĐỀ TÀI
Chất lượng lao động Thanh Niên dân tộc thiểu số
Trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa - tỉnh Thanh Hóa
---------------------
Giảng viên hướng dẫn:
TS. Nguyễn Mạnh Hùng - Viện Kinh tế và Chính trị thế giới
GS.TS Lennart Wikander - Trường ĐH Uppsala Thụy Điển
Nhóm học viên:
Trương Công Điệp
Lý Trường Yên
Hoàng Tùng
Lớp: MPPM – Intake 4A
Hà Nội, tháng 3 năm 2012
MỤC LỤC
1. Mở đầu
1.1.Giới thiệu vấn đề ( bối cảnh chung, tầm quan trọng của vấn đề )
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
1.3. Cấu trúc luận văn
2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu và khung khổ lý thuyết
3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thanh niên DTTS
3.1. Các chủ trương, chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung
3.2. Các chủ trương, chính sách nâng cao chất lượng nguồn lao động là thanh niên
DTTS
4. Tổng quan tình hình lao động là thanh niên DTTS tỉnh Thanh Hóa
4.1.Tình hình dân số, lao động và việc làm tỉnh Thanh Hóa
4.2. Thực trạng học nghề của thanh niên DTTS
4.3. Thực trạng tay nghề qua đào tạo của Thanh niên dân tộc ít người tỉnh Thanh Hóa
4.4. Một số chính sách của tỉnh về nâng cao chất lượng nguồn lao động là thanh niên
DTTS
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp hàm số Mincerian căn bản
5.2. Phương pháp hàm số Mincerian mở rộng
6. Nghiên cứu trường hợp huyện Quan Hóa, tỉnh Thanh Hóa
6.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa
6.2. Phân tích số liệu thống kê về thực trạng chất lượng lao động là thanh niên DTTS
huyện Quan Hóa
6.3. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng lao động là người DTTS
huyện Quan Hóa
7. Kết Luận và giải pháp
8. Hạn chế của luận văn và hướng nghiên cứu tiếp theo
9. Tài liệu tham khảo
1
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT:
Tiến sỹ:
TS.
Giáo sư, tiến sỹ:
Dân tộc thiểu số
Thanh niên
GS.TS.
DTTS
TN
Ủy ban nhân dân:
Quyết định
UBND
QĐ
Chính Phủ
CP
Thủ tướng Chính Phủ
Trung Ương
TTg
TW
Đoàn Thanh Niên cộng sản Hồ Chí Minh
Nhà Xuất bản
ĐTN CS HCM
NXB
Hợp đồng lao động
HĐ LĐ
Trung tâm giáo dục thường xuyên và dạy nghề TT GDTX & DN
2
TÓM TẮT LUẬN VĂN
1. Tiêu đề (Tên đề tài luận văn):
Chất lượng lao động Thanh Niên dân tộc thiểu số, trường hợp nghiên cứu tại
huyện Quan Hóa - tỉnh Thanh Hóa
2. Trình độ: Bài luận văn chương trình Thạc sĩ Quản lý công
3. Nhóm tác giả:
- Trương Công Điệp
- Hoàng Tùng
- Lý Trường Yên
4. Giảng viên hướng dẫn:
TS. Nguyễn Mạnh Hùng - Viện Kinh tế và Chính trị thế giới
GS.TS Lennart Wikander - Trường ĐH Uppsala Thụy Điển
5. Ngày tháng hoàn thành: Tháng 3 năm 2012
6. Mục đích:
Xác định đào tạo nghề và nâng cao chất lượng lao động cho Thanh Niên vùng
DTTS là cần thiết để họ có việc làm hoặc tìm được việc làm cho thu nhập ổn định, góp
phần xóa đói, giảm nghèo.
Lý do:
- Thanh niên DTTS có nhu cầu đào tạo nghề, song chất lượng, số lượng còn hạn
chế;
- Cơ hội tìm việc làm thấp, thu nhập không cao;
- Chất lượng lao động thấp do ảnh hưởng bởi các yếu tố văn hóa, phong tục tập
quán và điều kiện địa lý khó khăn, dân trí thấp.
3
7. Phương pháp nghiên cứu:
- Phương pháp hàm số căn bản và mở rộng
- Phương pháp kế thừa các dữ liệu sẵn có;
- Phương pháp thống kê trên cơ sở các báo cáo số liệu tổng hợp thực hiện dạy nghề
đã được huyện Quan Hóa phê duyệt năm 2011;
- Phương pháp quan sát thực tiễn tại trường dạy nghề của huyện Quan Hóa và tình
hình việc làm của đối tượng nghiên cứu (TN - DTTS).
Nhóm cũng dựa trên một số đề án đã được Ủy ban Nhân dân huyện, Ủy ban Nhân
dân tỉnh và Quyết định của Chính phủ đã phê duyệt.
8. Kết quả và kết luận:
Qua phân tích thực trạng TN DTTS tỉnh Thanh Hóa nói chung và của Huyện Quan
Hóa nói riêng về chất lượng lao động và tìm kiếm việc làm cho thấy có nhiều yếu tố tác
động đến chất lượng lao động, bao gồm cả yếu tố nội tại bản thân TN là người DTTS là
trình độ văn hóa thấp, còn nặng phương thức lao động tự cấp tự túc, thiếu kỹ năng và kỷ
luật lao động, tự ty dân tộc, các yếu tố văn hóa ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và quá
trình học nghề chưa thành công.
Mặt khác các yếu tố về môi trường đào tạo, kinh phí dành cho đào tạo nghề vùng
DTTS còn hạn chế; công tác vận động tuyên truyền chưa sâu rộng tới người lao động, làm
cho họ chưa nhận thức được việc lao động có kỹ năng, được đào tạo cho thu nhập cao hơn
lao động tự do, không có kỹ năng nghề; Nhà nước cần hỗ trợ đầu tư nhiều hơn để khuyến
khích TN tham gia học nghề và tham gia tổ chức Đoàn hội góp phần củng cố và giữ vững,
ổn định hệ thống chính trị, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống người dân vùng dân tộc
thiểu số.
9. Đề xuất cho nghiên cứu tương lai:
Nếu có điều kiện nhóm sẽ tiếp tục tìm tòi, nghiên cứu sâu hơn, trực tiếp hơn để kiến
nghị đề xuất với Nhà nước tăng cường hỗ trợ cho TN DTTS học nghề, nâng cao chất
4
lượng lao động nói chung, kỹ năng nghề cho TN DTTS nói riêng, để họ vươn lên xóa đói
giảm nghèo nhanh, bền vững ở vùng dân tộc miền núi.
10. Đóng góp của luận văn:
Nhóm hy vọng sẽ có nhiều bạn trẻ là TN DTTS quan tâm đến vấn đề nhóm đã
nghiên cứu và chỉ ra nguyên nhân hạn chế về chất lượng lao động là TN DTTS. Từ đó họ
nỗ lực và cố gắng hơn học tập, rèn luyện kỹ năng cho bản thân và tích cực tuyên truyền về
học nghề, thực hiện tốt kỷ luật lao động, xóa bỏ tập tục lạc hậu, tiếp cận học nghề mới đáp
ứng nhu cầu thị trường, tìm được việc làm cho thu nhập ổn định và thoát nghèo nhanh
chóng, bền vững.
11. Ý chính:
Nâng cao chất lượng lao động cho Thanh niên dân tộc thiểu số là vấn đề mà đề
tài hướng vào làm đối tượng nghiên cứu chính.
5
1. Mở đầu
1.1. Giới thiệu vấn đề
Trong quá trình thực hiện chính sách xóa đói giảm nghèo vùng dân tộc thiếu số
(DTTS) và miền núi những năm qua cơ bản đã từng bước được cải thiện. Đối với vùng
đồng bào miền núi tỉnh Thanh Hóa tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 70% năm 2005 - xuống còn
42,73% năm 2011 (7 huyện nghèo vẫn ở mức cao 50,67%). Tuy nhiên, trước thách thức có
nguy cơ tái nghèo ở 7 huyện thuộc Nghị quyết 30a về đầu tư cho 62 huyện nghèo nhất
nước; Thanh Hóa có 7 huyện đều thuộc vùng dân tộc miền núi, trong đó huyện Quan Hóa
là một trong huyện nghèo có tỷ lệ hộ nghèo cao 51,01% năm 2011. Nguyên nhân là người
dân chủ yếu sinh sống bằng nghề trồng trọt và chăn nuôi, dân trí thấp, lao động không có
tay nghề và thiếu việc làm vào những tháng nhàn rỗi mùa vụ hoặc có việc làm nhưng thu
nhập thấp... Đặc biệt là Thanh Niên, tuy có sức lao động nhưng lại không có công việc
thường xuyên để tạo ra thu nhập cho gia đình và bản thân, trình độ học vấn đa số hết tiểu
học, họ có nhu cầu học nghề nhưng chưa biết về trường lớp đào tạo nghề hoặc chưa có sự
quan tâm đúng mức của các cấp chính quyền.
Xác định đào tạo nghề cho Thanh Niên vùng DTTS là cần thiết để họ có việc làm
hoặc tìm được việc làm cho thu nhập ổn định, góp phần xóa đói, giảm nghèo. Chúng tôi
thấy rằng cần thiết phải chọn đề tài nghiên cứu "Chất lượng lao động Thanh Niên dân tộc
thiểu số, trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa - tỉnh Thanh Hóa".
1.2. Mục tiêu nghiên cứu và câu hỏi nghiên cứu
Câu hỏi nghiên cứu
Các yếu tố quan trọng quyết định chất lượng của lao động trẻ trong các nhóm dân
tộc thiểu số là gì?
Mục tiêu nghiên cứu
Luận văn này là để khám phá những yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến chất lượng
lao động trẻ trong các nhóm dân tộc thiểu số từ các nghiên cứu trường hợp của Quan Hóa,
6
tỉnh Thanh Hóa. Đặc biệt, nó là để kiểm tra vai trò của đào tạo nghề nâng cao chất lượng
lao động trẻ trong các nhóm dân tộc thiểu số.
1.3. Cấu trúc luận văn
Được chia làm 5 phần chính và 7 tiểu mục, phần mở đầu gồm các nội dung: lý do
chọn đề tài, câu hỏi nghiên cứu, mục đích nghiên cứu;
Phần thứ hai là khung khổ lý thuyết, tổng quan tài liệu nghiên cứu, tổng quan về lao
động, việc làm tỉnh Thanh Hóa, những chính sách của Đảng và Nhà nước nâng cao chất
lượng lao động nói chung và chất lượng lao động là Thanh Niên dân tộc thiểu số nói riêng;
Phần thứ ba là trường hợp nghiên cứu chất lượng lao động là Thanh niên DTTS tại
huyện Quan Hóa tỉnh Thanh Hóa: thực trạng, những nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng lao
động và chính sách của Nhà nước dành cho Thanh niên DTTS;
Phần thứ tư là phương pháp nghiên cứu;
Cuối cùng là kết luận và một số kiến nghị về giải pháp nâng cao chất lượng lao
động Thanh Niên dân tộc thiểu số.
2. Tổng quan tài liệu nghiên cứu và khung khổ lý thuyết
Lý thuyết về chất lượng lao động
Vốn con người
Adam Smith có thể là nhà kinh tế học đầu tiên phát triển khái niệm về vốn con
người là đạt được những khả năng hữu ích của người dân hoặc thành viên trong xã hội.
Việc đạt được những tài năng thông qua giáo dục, học tập hoặc học nghề, thường mất một
khoản chi phí thực thế, là vốn cố định và được thực hiện trong cá nhân đó. Tay nghề của
công nhân được nâng cao có thể được xem như một máy móc hoặc công cụ trong nghề tạo
điều kiện dễ dàng và giảm bớt sức lao động. Và thông qua đó nó có giá là một khoản chi
phí nhất đinh, hoàn lại khoản chi phí đó bằng lợi nhuận. Nói một cách ngắn gọn, Adam
Smith đã khẳng định vốn con người là kỹ năng, sự khéo léo trong tay nghề (thể chất, trí
tuệ, tâm lý, …), và phán đoán.
7
Trong một công bố tài chính vào năm 1928, Arthur Cecil Pigou đã tìm cách định
nghĩa rõ hơn thuật ngữ “vốn con người” bằng sự so sánh giữa vốn con người và sự đầu tư
vật chất. Tuy nhiên, khái niệm được biết đến nhiều nhất về “vốn con người” đã thuộc về
Jacob Mincer and Gary Becker của Trường Kinh tế Chicago. Đặc biệt là, trong cuốn sách
của Becker có tựa đề Vốn Con Người, xuất bản vào năm 1964, đã trở thành một tham
chiếu tiêu chuẩn trong nhiều năm. Theo quan niệm của cuốn sách này, vốn con người
tương tự như "phương tiện vật chất để sản xuất”, ví dụ nhà máy và máy móc: một người có
thể đầu tư vào vốn người (thông qua giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khoẻ) và kết quả của
sự đầu tư đó phụ thuộc một phần vào tỉ lệ mang lại cho người đó về vốn con người. Vốn
con người có thể thay thế được, những không thể chuyển nhượng lại được giống như đất
đai, lao động, hoặc vốn cố định (Becker, 1964).
Khái niệm vốn con người cũng có thể tìm thấy trong nhiều công trình nghiên cứu
hiện đại. Ví dụ, Hersch (1991) nói rõ rằng vốn con người là đề cập đến kinh nghiệm làm
việc và giáo dục, trong đó vốn làm việc được xác định bằng số năm kinh nghiệm làm việc
chính thức và giáo dục chính thức được tính bằng năm. Hỗ trợ cho quan điểm này,
Jacobsen (1998) nhấn mạnh rằng bất kỳ thứ gì tạo ra năng suất lao động cao hơn, bao gồm
giáo dục và đào tạo, sức khoẻ thể chất, được xem là vốn con người. Trong các bài viết và
nghiên cứu của Ngân hàng Thế Giới, vốn con người được định nghĩa là các kỹ năng và
năng lực được hợp nhất vào con người (World Bank 1995).
Hầu hết các công trình nghiên cứu đều mô tả vốn con người là: khả năng, trình độ,
kinh nghiệm và kiến thức đạt được thông qua giáo dục chính thức và những kỹ năng và
kiến thức chuyên môn đạt được trong quá trình đào tạo.
Năng suất lao động
Samuel- son và Nordhaus định nghĩa năng suất lao động là toàn bộ đầu ra được
phân chia bởi các đầu vào lao động (Koch and McGrath 1996). Theo Tổ chức Hợp Tác và
Phát Triển Kinh Tế (OECD), năng suất lao động được định nghĩa là "Tỉ lệ của một số đo
số lượng đầu ra với số đo số lượng đầu vào” (2001) tổng giá trị gia tăng (GVA). Horowitz
và Sherman (1980) lại đề cập đến năng suất lao động được xác định bởi thu nhập đồng thời
8
và số đo vật chất (ví dụ tình trạng thiết bị). Năng suất lao động xác định sẽ thay đổi như
một chức năng của tổng hệ số năng suất.
Sản lượng của mỗi công nhân tương ứng với “sản phẩm lao động trung bình” và có
thể đối lập với sản phẩm lao động biên tế. Sản phẩm lao động biên tế liên quan đến việc
tăng sản lượng do việc tăng đầu vào lao động biên tế. Năng suất lao động có thể được xác
định theo các phương diện vật chất hoặc phương diện giá cả.
Trong khi sản lượng tạo ra thông thường có thể xác định trong khu vực tư nhân, rất
khó xác định nó trong khu vực nhà nước hoặc các tổ chức phi chính phủ. Có thể khó xác
định đầu vào hơn theo một cách không thiên lệch ngay khi chúng ta đi chệnh khỏi ý tưởng
về lao động đồng nhất ("trên mỗi công nhân” hoặc "trên mỗi giờ lao động"):
✓
✓
✓
Cường độ nỗ lực lao động, và chất lượng của nỗ lực lao động nói chung.
Hoạt động sáng tạo liên quan đến việc tạo ra cải tiến kỹ thuật.
Các lợi ích về hiệu suất liên quan do các hệ thống quản lý, tổ chức, điều phối
và kỹ thuật khác nhau.
✓
Các tác động đến năng suất của một số hình thức lao động lên một số hình
thức lao động khác.
Những phương diện về năng suất này liên quan đến định tính, chứ không phải định
lượng, các quy mô đầu vào lao động. Nếu bạn cho rằng một công ty/một nước đang sử
dụng lao động cường độ cao hơn nhiều, bạn có thể không muốn nói rằng điều này là do
năng suất lao động của công ty đó/nước đó cao hơn. Quan điểm này trở nên đặc biệt quan
trọng khi một phần lớn những gì được tạo ra trong một nền kinh tế chỉ bao gồm dịch vụ.
Ban quản lý có thể rất quan tâm đến năng suất lao động của công nhân, song chính bản
thân ban quản lý lại rất khó chứng minh được những hiệu quả về nâng suất. Kiến thức
chuyên ngành về quản lý hiện đại nhấn mạnh tác dụng quan trọng của văn hoá công việc
tổng thể hoặc văn hoá tổ chức của doanh nghiệp. Nhưng một lần nữa có thể không chứng
minh được các ảnh hưởng cụ thể của bất kỳ một văn hoá cụ thể nào về năng suất.
Xét về các phương diện kinh tế vĩ mô, việc kiểm soát giờ làm việc (tức là thể hiện
năng suất lao động của mỗi giờ làm việc) phải đưa ra một thống kê về năng suất có thể sẵn
9
sàng so sánh được, nhưng điều này thường không được thực hiện do tính tin cậy của số
liệu về số giờ làm việc. Ví dụ, Mỹ và Anh không có số giờ làm việc dài hơn Châu Âu -
nếu không được tính đến thì điều này sẽ làm cho các con số về năng suất trong những
nước này tăng lên. Khi so sánh về thống kê năng suất lao động của các nước, cần phải xem
xét vấn đề về tỉ giá hối đoái bởi vì những khác biệt trong việc tính toán sản lượng như thế
nào trong các nước khác nhau, rõ ràng và hiển nhiên là các vấn đề này liên quan đến việc
quy đổi các đơn vị tiền tệ khác nhau ra một cơ sở tiêu chuẩn.
Các hệ số tác động đến năng suất lao động hoặc hiệu quả của các vai trò công việc
cá nhân là cùng một loại chung với những hệ số tác động đến hiệu quả của các công ty sản
xuất như một tổng thể. Chúng bao gồm:
(1) điều kiện vật chất, địa điểm, vật lý -hữu cơ của thiết bị và các yếu tố công nghệ;
(2) các yếu tố giá trị niềm tin văn hoá, thái độ cá nhân, động cơ và hành vi;
(3) những ảnh hưởng quốc tế tức là các mức độ cải tiến và hiệu suất về phía các
chủ lao động và người quản lý của các công ty nước ngoài đầu tư vào trong nước;
(4) môi trường quản lý - tổ chức và môi trường kinh tế rộng lớn hơn và môi trường
chính trị- pháp luật;
(5) các mức độ linh hoạt của thị trường lao động nội địa và các tổ chức hoạt động
lao động – ví dụ sự có mặt của các rào cản và đường phân ranh giới nghề truyền thống đối
với việc tham gia nghề;
(6) các hệ thống tiền công và tiền thưởng cá nhân, và hiệu quả của các nhân viên
quản lý nhân sự và những người khác trong tuyển dụng, đào tạo, thông báo, và người lao
động thúc đầy hiệu quả trên cơ sở tiền công và những khích lệ khác.
Chất lượng lao động
Có nhiều cách khác nhau để định nghĩa chất lượng lao động. Đã từ lâu, theo lý
thuyết về Vốn Con Người, kiến thức giáo dục và những kỹ năng kỹ thuật đã là hai đại diện
về chất lượng của sức lao động. Tuy nhiên, khái niệm chất lượng lao động đã được liên tục
phát triển để phản ánh những thay đổi trong nền kinh tế và xã hội. Năm 1966, trong cuốn
sách “chất lượng lao động và phát triển kinh tế tại một số nước: Một công trình nghiên cứu
10
sơ bộ”, Galenson và Pyatt đã đề xuất rằng chất lượng lao động được xác định bởi trình độ
giáo dục, sức khoẻ, chỗ ở và an sinh xã hội. Trình độ giáo dục được xác định thông qua
việc tuyển sinh vào trường học, bao gồm tỉ lệ phần trăm của nhóm có độ tuổi tương ứng
trong trường tiểu học, cơ sở, dạy nghề và đại học; sức khoẻ được xác định về các phương
diện như: tỷ lệ tử vong ở trẻ em, số dân trên một bác sỹ và trên một giường bệnh, tỉ lệ nạp
calorice trên đầu người; nhà ở được xác định theo chỗ ở trên đầu người và tỉ lệ đầu tư vào
nhà ở trên tổng sản phẩm quốc dân và an sinh xã hội được xác định bằng tỉ số trợ cấp trên
thu nhập quốc dân và chi phí an sinh xã hội trung bình trên đầu người.
Để hỗ trợ cho những yếu tố trên, theo VIT-CORP (2008), Có một số tiêu chí mà
Ngân Hàng Thế Giới khuyến cáo trong nhiều vấn đề khác nhau của các Chỉ Số Phát Triển
Thế Giới để đánh giá chất lượng lao động, như hệ thống giáo dục và công tác đào tạo
nguồn nhân lực; tính sẵn có của nguồn lao động cũng như các nhà quản lý hành chính có
chất lượng và trình độ giáo dục cao; và sự thành thục tiếng Anh, kỹ thuật, và công nghệ
tiên tiến trong khi Ward (1997) lập luận rằng trong các mô hình tổ chức sản xuất mới, chất
lượng lao động vượt xa kiến thức giáo dục và các kỹ năng kỹ thuật. Trong môi trường kinh
doanh hiện nay, một số phương diện xã hội của lao động đã trở nên phổ biến hơn trong
việc đánh giá sức lao động trong công ty. San và các cộng sự (2006) đã hợp nhất 7 yếu tố
chính, là (i) giáo dục, (ii) đào tạo, (iii) năng suất lao động, (iv) những thay đổi trong cơ cấu
sức lao động, (v) an toàn và sức khoẻ, (vi) đạo đức công việc và các mối quan hệ công
nghiệp, (vii) các mô hình quản lý lao động và chất lượng nghề nghiệp của người lao động
để tạo ra chất lượng chỉ số lao động trong các công nhân ngành sản xuất của Đài Loan.
3. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với thanh niên DTTS
3.1. Những chính sách cải thiện chất lượng nguồn nhân lực nói chung
Trong những năm qua Đảng và Nhà nước có nhiều chính sách nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực như là: Chính sách cử tuyển con em là đồng bào dân tộc vào học tại
các trường Đại học, Cao đẳng, Trung cấp chuyên nghiệp trong cả nước; Chính sách hỗ trợ
con em đồng bào dân tộc thiểu số vào học các trường nội trú từ THCS đến THPT và
trường dự bị đại học dân tộc Trung ương ở 3 khu vực miền Bắc - Trung - Nam. Từ năm
2009 có đề án 65/CP về đào tạo cán bộ công chức nguồn lãnh đạo quản lý cho giai đoạn
11
2011 - 2015 và định hướng đến 2020; Chính sách đào tạo nâng cao năng lực cán bộ quản
lý các cấp vùng DTTS thuộc chương trình thực hiện Quyết định: 135/1998/QĐ - TTg; Đề
án 1956/CP về đào tạo nghề cho lao động nông thôn; đào tạo nghề cho lao động thuộc hộ
nghèo theo Nghị Quyết 30/CP.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCH TƯ Đảng khóa X về" tăng cường sự lãnh đạo
của Đảng đối với công tác Thanh Niên thời kỳ đẩy mạnh CNH - HĐH và chương trình
hành động thực hiện NQ của BCH Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa; Quyết định số: 103/2008/QĐ
- TTg ngày 21/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án hỗ trợ TN học
nghề tạo việc làm giai đoạn 2008 - 2015; Quyết định số; 1956/2009/QĐ - TTg ngày
27/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ về việc đào tạo nghề cho lao động nông thôn;
Quyết định số: 1216/2011/QĐ - TTg Ngày 22/7/2011 của thủ tướng Chính phủ phê
duyệt qui hoạch phát triển nhân lực Việt Nam giao đoạn 2011 - 2020 và qui hoạch phát
triển nguồn nhân lực tỉnh Thanh Hóa giai đoạn 2011 - 2020.
Phó Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Sinh Hùng nói: Ưu tiên đầu tư, đẩy mạnh công
tác giáo dục- đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Cần thực hiện tốt công tác đào
tạo nghề cho lao động nông thôn để chuyển đổi lao động sang lĩnh vực công nghiệp, dịch
vụ và đào tạo, nâng cao trình độ cho nông dân thông qua khuyến nông, khuyến lâm,
khuyến ngư, chuyển giao kỹ thuật, ứng dụng công nghệ trong nông nghiệp. Đặc biệt quan
tâm đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng trường lớp học, đồng thời, tăng chất lượng
đội ngũ giáo viên và các trường đạt chuẩn quốc gia. Tiếp tục chăm lo, đào tạo và đổi mới
công tác cán bộ, nhất là đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, các ngành, xem đây là
một khâu quyết định để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ Đảng bộ đề ra trong thời gian tới.
Đại bộ phận dân đang sống ở nông thôn và là nông dân. Diện tích có hạn và nguồn
lực nằm ở đấy nếu chỉ tập trung vào nông nghiệp thôi thì thu nhập không thể cao được.
Cho nên chúng ta phải chuyển một bộ phận lớn lao động. Từ nông thôn sang làm các
ngành công nghiệp, chuyển một bộ phận lớn hơn từ nông thôn sang làm các ngành dịch vụ.
Đấy là ngành phát triển với một cơ cấu kỹ thuật có chất lượng, có năng suất và có thu nhập
cao hơn. Muốn chuyển được như vậy thì dứt khoát phải đào tạo. 3 người lao động ở nông
thôn phải đào tạo cả 3: 1 người làm nông nghiệp, 1 người làm dịch vụ và 1 người làm công
12
nghiệp. Có như vậy thì mới chuyển đổi cơ cấu kinh tế thành công được. Và mới tạo ra
được một lực lượng lao động mới trong 2 năm tới, 5 năm tới, 10 năm tới có chất lượng cao
hơn, năng suất cao hơn, thu nhập cao hơn1.
3.2. Các chủ trương, chính sách nâng cao chất lượng nguồn lao động là thanh
niên DTTS
Khái niệm dân tộc thiểu số được hiểu là: dùng để chỉ những dân tộc có số dân ít,
chiếm tỷ trọng thấp trong tương quan so sánh về lượng dân số trong một quốc gia đa dân
tộc. Khái niệm “dân tộc thiểu số” cũng không có ý nghĩa biểu thị tương quan so sánh về
dân số giữa các quốc gia dân tộc trên phạm vi khu vực và thế giới.
Căn cứ vào tình hình thực tiễn về công tác dạy nghề và giải quyết việc làm cho TN
là đầu tư cơ sở vật chất cho các cơ sở dạy nghề còn nhiều hạn chế và bất cập, cơ chế chính
sách thiếu đồng bộ, nên chưa nhận được sự quan tâm của nhiều thành phần xã hội tham gia
mà chủ yếu là Nhà nước đầu tư; chi Ngân sách cho dạy nghề dài hạn mới đạt 50% nhu cầu,
hỗ trợ dạy nghề ngắn hạn cho lao động nông thôn, bộ đội xuất ngũ, Thanh niên DTTS mới
đáp ứng khoảng 25% số lượng hàng năm, chủ yếu là các nghề đơn giản, phổ thông; Nhà
nước Việt Nam xác định giải quyết việc làm cho thanh niên và TN DTTS là vấn đề bức
xúc của toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay.
Vì vậy, năm 2009, Chính Phủ ra Quyết định số 1956/2009/QĐ-TTg ngày
27/11/2009 về việc phê duyệt đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm
2020”; trong đó dân tộc thiểu số được coi là đối tượng số 1, được ưu tiên học nghề và có
hỗ trợ kinh phí học nghề cũng như giới thiệu việc làm sau khi tốt nghiệp; Trong Quyết
định 135 giai đoạn II (2006 - 2010) của Chính Phủ dành riêng một hợp phần cho đào tạo
nghề ngắn hạn hàng năm dành đối tượng Thanh niên là người dân tộc thiểu số. Quyết định
số: 103/2008/QĐ - TTg ngày 21/7/2008 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án
hỗ trợ TN học nghề tạo việc làm giai đoạn 2008 - 2015.
Nghị Quyết số: 24/NQ/TW ngày 12/3/2003 nhấn mạnh "...ở nhiều vùng dân tộc
miền núi tỷ lệ đói nghèo còn cao so với bình quân chung cả nước , khoảng cách chênh lệc
về mức sống giữa các vùng, giữa các dân tộc ngày càng tăng, chất lượng, hiệu quả giáo
1
Báo Vĩnh Long online ngày 05/2/2012 trích bài phát biểu của Phó thủ Tướng Nguyễn Sinh Hùng
13
dục và đào tạo còn thấp, việc đào tạo nghề chưa được quan tâm, công tác chăm sóc sức
khỏe cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xã còn nhiều khó khăn....";
4. Tổng quan tình hình lao động là thanh niên DTTS tỉnh Thanh Hóa
4.1.Tình hình dân số, lao động và việc làm tỉnh Thanh Hóa
Thanh Hóa có 11 huyện miền núi có 7 dân tộc cùng sinh sống gồm: Người Mường,
Thái, Thổ, Dao, mông, Khơ mú và Kinh
Dân tộc Mường ở Thanh Hóa sống chủ yếu tập trung ở các huyện Cẩm Thủy, Thạch
Thành và Ngọc Lặc, người Mường thuộc nhóm ngôn ngữ Việt - Mường nên họ sống gần
vùng đồng bằng đồi núi thấp, họ sản xuất bằng trồng lúa nước, ngành nghề chính là thủ
công có nghề dệt vải thổ cẩm, đan lát. Có thể khái quát đời sống sinh hoạt của người
Mường là "Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày tiến, năm lui" có nghĩa là: cơm thì
đồ bằng chõ để gạo chín bằng hơi nước, nhà thì làm nhà sàn, nước thường được đựng vào
ống cây bương, cây luồng để dùng ăn uống, thịt lợn được nướng trên bếp lửa cho chín
bằng than củi, cách tính ngày tháng được tính theo sao trên trời thường là chòm sao tua rua
đi qua mặt trăng... Chỉ có dân tộc Mường mới có đẩy đủ các đặc điểm trên.
Dân tộc Thái sống chủ yếu ở các huyện Quan Hóa, Quan Sơn và huyện Mường Lát,
Người Thái cũng có nghề trồng lúa nước và lúa nương và được đúc kết như câu thành ngữ
"Mương - Phai - Lái - Lin" tức là khơi mương, đắp đập, dẫn nước qua vật chướng ngại, đặt
máng trên các cánh đồng thung lũng. Họ làm ruộng cấy một vụ lúa nếp, hiện nay chuyển
sang 2 vụ lúa tẻ. Họ làm nương để trồng thêm lúa, ngô, hoa màu, cây thực phẩm và đặc
biệt là cây bông, cây thuốc nhuộm, dâu tằm để dệt vải, làm gốm; dệt thổ cẩm là nghề và là
một trong những mặt hàng truyền thống độc đáo.
Người Mông ở Thanh Hóa có khoảng 14.000 người, chủ yếu sống ở vùng núi cao
các Huyện Mường Lát, Quan Hóa và Quan Sơn, sản xuất chính là trồng lúa nương và
ruộng bậc thang, trồng ngô, cây đay để dệt thành sản phẩm vải lanh, vải đũi, nghề rèn cũng
là nghề truyền thống của người Mông. Song họ có tập tục sống du canh, du cư nên họ sống
tạm bợ từ nhà cửa cho đến đồ dùng sinh hoạt, Nhà nước rất khó khăn trong đầu tư xây
dựng để ổn định cuộc sống của họ.
14
Các dân tộc Dao, Thổ và Khơ mú ở Thanh Hóa chiếm tỷ lệ khoảng < 10% / tổng số
người DTTS (khoảng 650.000 người), về phong tục, tập tục có ảnh hưởng lớn của người
Mường, Thái và người Kinh2.
Nói chung người DTTS đều chăm chỉ và khéo léo trong sinh hoạt và ứng xử trong
cuộc sống, đời sống tinh thần phong phú và các lễ hội văn hóa đặc sắc đậm đà chất hoang
dã của núi rừng, chính vì vậy mà họ thường thích sống tự do, ít kỷ luật, khuôn phép và
thường thì họ bằng lòng với cuộc sống khó khăn về vật chất cộng với hiểu biết còn hạn
chế.
* Đặc điểm của Thanh niên DTTS: Thanh niên DTTS chiếm khoảng 13% tổng số
TN toàn tỉnh. Trình độ văn hóa, đạo đức, nếp sống của TN ngày càng chuyển biến tích
cực và có nhiều tiến bộ. TN DTTS ngày càng có nhiều cố gắng trong học tập nâng cao
trình độ học vấn, kiến thức khoa học kỹ thuật, số cán bộ có bằng đại học, thạc sỹ ngày
càng tăng . Tuy nhiên, trình độ chuyên môn kỹ thuật của TN DTTS còn thấp hơn mặt bằng
chung của tỉnh.
Về lao động, việc làm và nghề nghiệp, phần lớn là TN các DTTS chịu khó, cần cù,
song tiếp xúc với kinh tế thị trường còn chậm, đa số họ có việc làm nhưng chất lượng,
năng suất lao động không cao. Cùng với dân tộc của họ, họ sinh sống chủ yếu ở vùng biên
giới rừng núi, vùng sâu, vùng xa; giao thông đi lại khó khăn; ở rải rác. Đời sống tinh thần,
vật chất của TN DTTS còn nhiều thiếu thốn, khó khăn; họ mong muốn đời sống ổn định,
không còn đói nghèo. TN DTTS bị ràng buộc bởi nhiều phong tục lạc hậu nhất là tang ma,
cưới hỏi, tín ngưỡng truyền thống, bản địa. Họ có nhu cầu giao lưu văn hóa, hoạt động tập
thể, tiếp cận với phương tiện hiện đại, giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống của dân tộc họ.
Tuy nhiên, họ nặng tâm lý tự ty, một số ỷ lại chính sách Nhà nước, không muốn tự
học hỏi vươn lên hoặc tự thỏa mãn với cuốc sống hiện tại3.
Dân số trung bình năm 2011 ước 3.411,2 nghìn người, tăng 4,4 nghìn người so với năm
2010, tốc độ tăng dân số 0,13%; tỷ lệ sinh 14,4%o, tỷ lệ chết 7,4%o, tỷ lệ tăng tự nhiên 7,0%o
2
Công tác đoàn kết, tập hợp TN các DTTS tr 90, 105 và 106 của TW ĐTN CS HCM - NXB Thanh
Niên.
3
Sđd trang 120 – 121.
15
và mức giảm sinh 0,1%o. 9 tháng năm 2011 đã sắp xếp 44,6 nghìn lao động có việc làm mới,
đạt 78,2% kế hoạch (trong đó xuất khẩu lao động 6. 820 người) và cả năm giải quyết được 57
nghìn lao động có việc làm mới, đạt 100% kế hoạch. Tổng kinh phí năm 2011 là 44.820 triệu
đồng. Tỷ lệ lao động qua đào tạo toàn tỉnh 9 tháng năm 2011 đạt 43,0%, tăng 6,0% so với năm
2010. Trong đó Thanh niên độ tuổi từ 16 - 30 khoảng 1.027.000 người chiếm 30% dân số;
chiếm 46% số người trong độ tuổi lao động của tỉnh. Khu vực miền núi, nơi tập trung chủ yếu
của đồng bào DTTS có dân số 1,1 triệu người, lao động trong độ tuổi chiếm khoảng 65%4.
Tuy nhiên, tỷ lệ lao động qua đào tạo tìm được việc làm đúng nghề chỉ đạt 80, 2% trên
tổng số lao động được đào tạo; Trong đó: Ngành nông nghiệp đạt 90%, Công nghiệp đạt 80%
và dịch vụ đạt 75%.
Đối với những người có việc làm mới sau khi hoàn thành khóa học tìm được việc
làm trực tiếp tại doanh nghiệp đã cam kết tạo việc làm đạt 2.756/44.600 người; sản xuất
tại gia đình, doanh nghiệp 4.932/44.600 người, chủ yếu là cung cấp nguyên vật liệu và thu
mua, bao tiêu sản phẩm đối với các nghề mây giang xiên, thêu ren - đính cườm, dệt chiếu.
Sau học nghề, người lao động được làm nghề và thu nhập bình quân từ 40 - 90 ngàn
đồng/ngày, góp phần cải thiện đời sống. So với trước khi học nghề, người lao động ngoài
việc trồng trọt, chăn nuôi tạo ra nguồn thu nhập chính, thì có thể sử dụng thời gian nông
nhàn làm nghề phụ để tăng thêm thu nhập cho gia đình.
Đối với những người tiếp tục sản xuất, kinh doanh như trước khi học nghề
Người lao động sau học nghề đã áp dụng những kiến thức khoa học kỹ thuật vào
sản xuất, nâng cao năng suất lao động đối với nghề kỹ thuật trồng lúa cao sản. Với việc áp
dụng kỹ thuật cấy lúa đã tiết kiệm công lao động, giống và hạn chế được sâu bệnh hại.
Nâng cao hiệu quả trong sản xuất lúa. So với phương pháp trồng lúa truyền thống, phương
pháp mới giảm chi phí giống từ 150.000 đồng/sào xuống còn 120.000 đồng/sào; giảm công
cấy từ 200.000 đồng/sào xuống còn 150.000 đồng/sào; giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật
4 Báo cáo kết quả thực hiện Quyết định số: 1956/QĐ - TTg năm 2011 của Sở Lao động TBXH tỉnh
Thanh Hóa.
16
từ 350.000 đồng/sào xuống còn 150.000 đồng/sào; lượng phân bón không đổi; năng suất
tăng từ 54 tạ/ha lên 59 tạ/ha (đối với vụ mùa).
Về Khả năng nhân rộng của các mô hình dạy nghề ở địa phương
Đối với nghề Kỹ thuật trồng lúa cao sản trước mắt có thể nhân rộng ở tất cả các xã
thuộc huyện Thọ Xuân là huyện trọng điểm lúa của tỉnh Thanh Hóa.
Đối với nghề dệt chiếu cói có thể nhân rộng để duy trì và phát triển làng nghề
truyền thống ở huyện Nga Sơn. Nghề mây giang xiên có thể nhân rộng ở huyện Thiệu
Hóa, Yên Định, Quảng Xương, Hoằng Hóa, Hậu Lộc... Nghề thêu ren-đính cườm có thể
nhân rộng ở các huyện Thọ Xuân, Quảng Xương, Nông Cống, Quan Hóa, Bá Thước,
Thường Xuân...
4.2. Thực trạng học nghề của Thanh niên dân tộc thiểu số:
Xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, những năm gần đây tỷ lệ
TN DTTS tham gia vào các lớp học nghề tăng lên đáng kể khoảng trên 2000 người/năm,
tập trung chủ yếu các ngành nghề ngắn hạn 3 - 6 tháng, các nghề khác có thời gian đào tạo
18 tháng trở lên có rất ít. Tuy nhiên, tình trạng học nghề xong nhưng không tự kiếm được
việc làm chiếm đến 20%, số còn lại 80% chủ yếu tập trung vào ngành nông nghiệp vốn
cho sản phẩm với thu nhập thấp, chưa đủ để góp phần giảm nghèo cho hộ gia đình TN
DTTS. Mặt khác, những TN DTTS học nghề trồng trọt, chăn nuôi sau mùa vụ thường ly
hương để kiếm việc làm phổ thông ở các tỉnh khác, tỷ lệ này chiếm đến 40% trên tổng số
TN DTTS toàn vùng 11 huyện miền núi.
4.3. Một số chính sách của tỉnh Thanh Hóa về nâng cao chất lượng nguồn lao
động là thanh niên dân tộc thiểu số.
Nhằm nâng cao chất lượng đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên,
UBND tỉnh Thanh Hóa có công văn gửi Trung ương Đoàn về việc xin thành lập trung tâm
hướng nghiệp, dạy nghề và giới thiệu việc làm cho thanh niên tỉnh Thanh Hóa và được
chấp nhận tại quyết định số: 385/QĐ - TƯ/ĐTN ngày 31/10/2008 của Ban bí thư TW
Đoàn.
17
Chính sách cử tuyển con em là đồng bào dân tộc vào học tại trường Đại học Hồng
Đức, trường Cao đẳng Y tế; Chính sách hỗ trợ con em đồng bào dân tộc thiểu số vào học
các trường nội trú từ THCS đến THPT và Trường dự bị Đại học Dân tộc Trung ương có
trụ sở tại Thị xã Sầm Sơn; Chính sách đào tạo nghề ngắn hạn 3 tháng thuộc chương trình
135/ QĐ -TTg giai đoạn II ( 2005 - 2010, đào tạo được 362 học viên, kinh phí 2.958 triệu
đồng. Ngoài ra Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh có đề án đào tạo nghề cho phụ nữ toàn tỉnh, trong
đó vùng dân tộc thiểu số có 11 huyện đạt tỷ lệ 30% phụ nữ được học các nghề thủ công -
mỹ nghệ: đan cót, dệt thổ cầm, mây giang xiên.....v..v... Đề án dạy nghề cho nông thôn bao
gồm các nghề may công nghiệp, kỹ thuật trồng trọt, kỹ thuật chăn nuôi gia súc, gia cầm,
dệt thổ cẩm...v...v.... Tùy từng địa phương và cam kết các doanh nghiệp để đào tạo nghề
cho phù hợp.
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1.Phương pháp hàm số Mincerian căn bản
“Hàm số thu nhập vốn con người” (HCEF) lần đầu tiên được phát triển tại
Chiswick và Becker (1966) và mở rộng bao gồm cả đào tạo tại chức trong Mincer (1974).
Một phần lớn thuật ngữ “đào tạo tại chức” gắn với việc học tập từ kinh nghiệm. Mincer
(1974) đã trình bày rằng tại Mỹ, thu nhập tương quan chặt chẽ hơn với số năm kinh
nghiệm làm việc. Ngoài ra, Mincer (1974) còn phát triển nhân tố căn bản này trong dạng
thức bậc hai tiêu chuẩn của biến số kinh nghiệm EXP2. Các số đo của lao động hoặc cung
cấp lao động (số giờ làm việc mỗi tuần hoặc số tuần làm việc mỗi năm) cũng có thể được
hợp nhất thành một phân tích dạng lô-ga. Mô hình phục vụ giải thích trên đây có thể được
diễn đạt như trong “hàm số thu nhập cơ bản” sau đây:
lnYi = + 1 Si + 2 EXPi + 3 EXPi2 + i
Trong đó Si là số năm học tập của các nhân i, và EXPi và EXPi2 là số năm kinh
nghiệm và bình phương số năm kinh nghiệm. Trong hàm số này, hệ số năm học tập trong
trường (β1) có thể được lý giải là lợi suất riêng một năm tăng thêm của việc học tập, không
kể trình độ học tập. Hệ số số năm học tập trong trường có thể được lý giải như lợi suất
riêng trung bình của mỗi một năm giáo dục tăng thêm nói chung.
18
5.2. Phương pháp hàm số Mincerian mở rộng
Trên ý tưởng cơ bản là quy hồi một hàm số có lô-ga về tiền công lao động theo giờ
như một biến số phụ, Hàm số Mincerian cơ bản có thể được phát triển để hợp nhất và định
lượng hoá bất kỳ hệ số tiềm ẩn nào với năng suất lao động. Hàm số cải tiến này có thể
được diễn đạt là:
lnYi = + 1Xi1 + 2Xi2 + 3 Xi3 + .... + n Xin+ i
Trong đó, Xi là các yếu tố quyết định có tiềm năng của năng suất lao động trong
hồi quy. Xi có thể là bất kỳ biến số nào như số năm được giáo dục, kinh nghiệm tiềm năng,
vùng, khu vực, người di cư, sắc tộc, tình trạng hôn nhân hoặc nghề nghiệp,…
Thông qua việc đánh giá ý nghĩa của những biến số trong hồi quy, ta có thể so sánh
và nhận diện những yếu tố nào đóng một vai trò quan trọng trong việc quyết định chất
lượng của sức lao động.
Đào tạo nghề và chất lượng lao động
Mặt được:
Đối với nghề tiểu thủ công nghiệp: mây giang xiên, thêu ren - đính cườm, dệt chiếu,
với ưu điểm người lao động sau học nghề có thể sử dụng thời gian nông nhàn để làm nghề
tại gia đình hoặc làm việc tại doanh nghiệp, tăng thu nhập, góp phần cải thiện đời sống.
Doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu và bao tiêu sản phẩm cho người lao động nên họ
yên tâm sản xuất. Một người học nghề có thể truyền nghề cho anh em, con cái trong gia
đình cùng làm nghề.
Đối với nghề nông nghiệp (trồng lúa sản lượng cao): Thông qua những học viên
được học và kết quả thực tế đã làm thay đổi nhận thức của người nông dân trong cộng
đồng về việc áp dụng những kiến thức và kỹ năng nghề trong sản xuất. Những kết quả
bước đầu này đã tạo động lực để thu hút những lao động nông thôn khác trong thôn, làng,
xã tham gia các khóa đào tạo nghề được tổ chức tại địa bàn.
Khó khăn, tồn tại:
19
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Luận văn Chất lượng lao động Thanh Niên dân tộc thiểu số - Trường hợp nghiên cứu tại huyện Quan Hóa - Tỉnh Thanh Hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- luan_van_chat_luong_lao_dong_thanh_nien_dan_toc_thieu_so_tru.doc