Phương thức xác định việc làm gắn với phát triển năng lượng tái tạo
PHƯƠNG THỨC XÁC ĐỊNH VIỆC LÀM GẮN VỚI
PHÁT TRIỂN NĂNG LƯỢNG TÁI TẠO
TRẦN THỊ TUYẾT,
HÀ HUY NGỌC, PHẠM MẠNH HÀ
Tóm tắt: Phát triển năng lượng tái tạo (NLTT) là giải pháp hiệu quả nhằm đảm bảo an ninh năng
lượng và giải quyết các vấn đề môi trường, biến đổi khí hậu mang tính toàn cầu; đem lại những cơ
hội mới cho các ngành, lĩnh vực khác trong xã hội; trong đó, tạo việc làm được xem là khía cạnh quan
trọng được nhiều quốc gia quan tâm; tuy nhiên, các nghiên cứu dự báo liên quan vẫn còn hạn chế. Do
đó, nghiên cứu này tập trung vào phân tích một số phương thức xác định việc làm gắn với phát triển
NLTT đang được sử dụng tại một số quốc gia và tổ chức quốc tế; theo đó, tùy thuộc vào từng bối
cảnh lãnh thổ cụ thể sẽ ưu tiên lựa chọn phương thức đo lường phù hợp để xác định việc làm trực
tiếp, gián tiếp, phái sinh. Kết quả dự báo mang tính khách quan, kịp thời sẽ là cơ sở khoa học cần
thiết cho các chiến lược phát triển lãnh thổ và ngành.
Từ khóa: Việc làm, năng lượng, năng lượng tái tạo
METHODOLOGY OF DETERMINING JOBS WITH RENEWABLE
ENERGY DEVELOPMENT
Abstract: Renewable energy (RE) development is an effective solution to ensure national energy
security and solve global-wide environment and climate change; bringing new opportunities to other
areas of society and job creation which is considered an important aspect by many countries, however,
the related prediction studies are still limited. Therefore, this study focuses on analyzing some
methods of measuring jobs associated with RE development that are being used in a number of
countries and international organizations; accordingly, depending on the specific territorial context,
priority will be given to choosing the appropriate measurement method to determine direct, indirect,
indirect and derivative jobs. The timely and objective forecasting results will be the necessary
scientific basis for territorial and industry development strategies.
Keywords: Employment, energy, renewable energy
vệ môi trường. Nguồn năng lượng thay thế đã
được minh chứng hiệu quả, đó là năng lượng tái
1. Đặt vấn đề
Năng lượng được xem là nhân tố quan trọng
để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của nền kinh tế
và dân sinh. Tuy nhiên, các nguồn tài nguyên
năng lượng truyền thống đang dần trở nên khan
hiếm, trở thành mối quan tâm của mọi quốc gia,
nhất là trong bối cảnh triển khai các hành động
ứng phó với tác động của biến đổi khí hậu đòi
hỏi phải đa dạng các nguồn năng lượng, sao cho
vừa đảm bảo an ninh năng lượng, vừa hạn chế
được các chất thải gây hiệu ứng nhà kính, bảo
tạo (NLTT) - là năng lượng được phát sinh từ tự
nhiên với nguồn tái tạo liên tục, là nguồn năng
lượng “xanh”, “sạch”. NLTT được thúc đẩy sẽ
mở ra nhiều tiềm năng, cơ hội cho các ngành,
lĩnh vực khác phát triển; trong đó, có việc làm ở
các trình độ khác nhau, gồm: cơ hội việc làm
trong chính ngành NLTT và các ngành dịch vụ,
bổ trợ; những hoạt động lao động tạo ra thu nhập
nhằm duy trì và phát triển ngành theo chuỗi giá
trị sản phẩm. Theo thống kê, tỷ trọng NLTT hiện
48
Trần Thị Tuyết, Hà Huy Ngọc, Phạm Mạnh Hà - Phương thức xác định việc làm…
nay trên thế giới chiếm khoảng 26% tương ứng
7.027,7 TWh năng lượng điện toàn cầu (gồm cả
thủy điện) [3, 17] với 11,5 triệu việc làm trong
ngành; trong đó, châu Á chiếm tỷ lệ cao nhất
63% tổng việc làm [9].
(ii) Phương pháp so sánh: Trên cơ sở chuẩn
hóa các dữ liệu, tiến hành phân tích vai trò của
ngành NLTT đối với tạo việc làm. Các kết quả
phân tích, so sánh là cơ sở đề xuất một số giải
pháp phù hợp cho Việt Nam.
Xu hướng trong thời gian tới, NLTT tiếp tục
được ưu tiên phát triển nhưng vấn đề đặt ra là
các quốc gia, lãnh thổ cần đo lường, ước tính
được nhu cầu việc làm trên cơ sở các phương
thức nghiên cứu, dự báo có tính khoa học, thực
tiễn để ban hành các chính sách đáp ứng nhu cầu
phù hợp, nhất là trong hoạt động đào tạo nguồn
nhân lực, có ý nghĩa đối với sự phát triển ngành,
cơ sở đào tạo, đáp ứng nhu cầu của định hướng
xã hội; qua đó, giúp các nhà quản lý chủ động
trong việc chuẩn bị điều kiện cần cho quá trình
xây dựng kế hoạch và lường trước những thách
thức.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Việc làm trong ngành năng lượng tái
tạo
NLTT được xem là ngành năng lượng bền
vững với khả năng cạnh tranh ổn định, trở thành
cơ sở quan trọng để chuyển đổi năng lượng toàn
cầu với chi phí đang dần thấp hơn chi phí vận
hành cận biên của các nhà máy than đá; giá
thành sản phẩm có xu hướng giảm dần, trung
bình năm 2018 giảm xuống 0,049 USD/kWh đối
với năng lượng gió trên bờ và 0,055 USD/kWh
cho năng lượng mặt trời. Để khai thác triệt để cơ
hội kinh tế từ NLTT, các quốc gia, tổ chức đã và
đang hợp tác chặt chẽ để phối hợp hành động,
nhân rộng các nhà máy sản xuất và thị phần cung
cấp [8,11].
Bài viết tập trung nghiên cứu tổng quan một
số phương thức đo lường dự báo việc làm gắn
với phát triển NLTT; từ đó, gợi mở một số
phương thức ước tính số lao động làm cơ sở
trong xây dựng chiến lược đào tạo nguồn nhân
lực, các kỹ năng để tận dụng cơ hội việc làm do
ngành NLTT mang lại.
Vương quốc Anh là một trong những quốc
gia ở châu Âu chuyển đổi mạnh từ năng lượng
truyền thống sang NLTT với các chính sách
chuyển đổi, ưu tiên đầu tư được ban hành từ năm
2007 với sự phát hành Sách trắng về năng lượng
tại Hội nghị thách thức năng lượng. Kết quả
chuyển đổi ở Anh đã góp phần nâng tỷ trọng của
ngành tăng không ngừng từ 5,2% năm 2013 lên
gần 8% năm 2017 trong tổng mức tiêu thụ năng
lượng; trong đó, điện gió đóng góp lớn nhất vào
tăng trưởng của ngành với công suất đạt gần 30
nghìn GWh. Ở khu vực châu Á, Trung Quốc là
quốc gia có nhiều chính sách phát triển nguồn
năng lượng sạch và công nghiệp môi trường
nhằm từng bước hạn chế sự phụ thuộc vào
nguồn năng lượng phát sinh từ nhiên liệu hóa
thạch và thực hiện các cam kết quốc tế về giảm
phát thải khí nhà kính; kết quả đến năm 2019,
trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu thế
giới về đầu tư NLTT với 70% tổng kinh phí (120
tỷ đồng) [8,15].
2. Dữ liệu và phương pháp nghiên cứu
2.1. Dữ liệu nghiên cứu
Để tiến hành phân tích các nội dung liên quan
đến phương thức xác định việc làm gắn với phát
triển NLTT, các nguồn tài liệu sau đã được sử
dụng: (1) Các công trình khoa học đã được công
bố; (2) Báo cáo của các tổ chức trong và ngoài
nước.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
(i) Phương pháp tổng hợp và phân tích tư
liệu: trên cơ sở các tài liệu thu thập, tác giả tiến
hành nghiên cứu tìm hiểu các đặc điểm có liên
quan đến phương thức xác định việc làm gắn với
phát triển NLTT, từ đó chuẩn hóa các dữ liệu
nhằm xây dựng luận cứ, cách tiếp cận nghiên
cứu một cách đồng bộ;
49
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Thá ng 3/2021
Cùng với sự phát triển NLTT, cơ hội việc làm
giới, với nhiều quốc gia sản xuất, kinh doanh và
lắp đặt các công nghệ năng lượng tái tạo mỗi
năm; số liệu này tăng khoảng 0,5 triệu việc làm
so với năm 2018 [8,9].
mới cũng được mở ra; trở thành một trong
những lý do để các quốc gia đa dạng hóa chuỗi
cung ứng NLTT. Tính đến cuối năm 2019, toàn
cầu sử dụng 11,5 triệu lao động trên toàn thế
Bảng 1. Ước tính việc làm trực tiếp và gián tiếp trong NLTT toàn cầu, 2018-2019
Loại hình NLTT
Năng lượng mặt trời
Năng lượng sinh học
Năng lượng gió
Địa nhiệt
Thế giới Trung Quốc Ấn Độ Brazil Mỹ Liên minh châu Âu
4.608
3.581
1.165
99
2.884
384
518
3
228
178
63
87
245
163
706
292
40
839 355
19
120
9
Thủy điện
1.957
561
367
213
22
78
Nguồn: IRENA, 2020 [9]
Quốc gia có số việc làm liên quan đến ngành
NLTT lớn nhất toàn cầu là Trung Quốc chiếm tỷ
lệ 38% tổng số việc làm; tiếp theo là Liên minh
châu Âu (11%) và Brazil (10%). Theo lĩnh vực
NLTT, ngành tạo nhiều việc làm nhất liên quan
đến năng lượng mặt trời chiếm 41%; tiếp theo là
năng lượng sinh học (31%), thủy điện (17%),
năng lượng gió (10%); thấp nhất là địa nhiệt
(1%), chủ yếu phát triển ở Mỹ và Liên minh
châu Âu [9]. Theo dự báo, trong lĩnh vực NLTT
có thể đạt 23,6 triệu việc làm vào năm 2030;
28,8 triệu việc làm vào năm 2050 với xu thế dịch
chuyển sang các quốc gia châu Á (tăng gấp 3
lần) và châu Phi (tăng gấp 7 lần), nhất là phân
khúc sản xuất và lắp đặt của chuỗi giá trị, đòi hỏi
các quốc gia cần có chính sách đào tạo phát triển
nguồn nhân lực phục vụ NLTT phù hợp trên cơ
sở các dữ liệu dự báo chính xác [8].
tùy thuộc vào từng mục tiêu nghiên cứu sẽ có ưu
tiên phương thức đo lường phù hợp. Cụ thể: đối
với phương thức đo lường tổng việc làm thường
được áp dụng trong kiểm tra trạng thái của việc
làm có liên quan đến NLTT; phương thức đo
lường việc làm ròng được áp dụng trong xác
định sự thay đổi việc làm khi triển khai các
chính sách liên quan đến phát triển NLTT; tuy
nhiên, hạn chế của phương thức này là đòi hỏi
nguồn dữ liệu, kinh phí lớn.
Theo Cơ quan NLTT Quốc tế, có 03 phương
thức chính có thể được áp dụng để ước tính việc
làm gắn với phát triển NLTT [6,7,10]. Cụ thể:
(i) Tiếp cận nhân tố việc làm: ước tính số
lượng việc làm tương đương toàn thời gian trung
bình trên đơn vị năng lực được lắp đặt hoặc năng
lượng được tạo ra nhân với tổng công suất hay
tổng năng lượng tạo ra. Phương pháp này chỉ
được sử dụng để ước tính việc làm trực tiếp –
cung cấp thông tin về số lượng việc làm trong
các giai đoạn cốt lõi của vòng đời sản xuất, gồm:
giai đoạn ý tưởng quy hoạch, xây dựng, lắp đặt,
cung cấp thiết bị, vận hành và bảo dưỡng hoặc
ngừng hoạt động. Mỗi giai đoạn của vòng đời
sản xuất sẽ tương ứng với nhân tố việc làm/MW
hay hệ số khác nhau (Bảng 2). Tổng số việc làm
trực tiếp được xác định theo công thức [7]:
3.2. Phương thức xác định việc làm trong
ngành năng lượng tái tạo
Ước tính việc làm có thể sử dụng 2 phương
thức đo lường: tổng hoặc ròng. Việc làm tổng
liên quan đến tổng cộng việc làm tích cực có
được từ kết quả các đầu tư vào NLTT, không
tính đến việc làm tiêu cực và những tác động có
thể gặp trong các lĩnh vực khác. Việc làm ròng
được xác định là tổng việc làm chung, gồm 2
yếu tố tác động tích cực và tiêu cực. Theo đó,
50
Trần Thị Tuyết, Hà Huy Ngọc, Phạm Mạnh Hà - Phương thức xác định việc làm…
퐻ệ 푠ố 푣ꢀệ푐 푙à푚
(
)
푉ꢀệ푐 푙à푚 푡푟ự푐 푡ꢀế푝 = 퐿ượ푛ꢁ đꢀệ푛 푝ℎá푡 sinh 푀푊 ×
푀푊
Bảng 2. Hệ số việc làm trung bình theo công nghệ phát sinh năng lượng
Hệ số việc làm (Việc làm/ MW trung bình)
Công nghệ
Vận hành, bảo dưỡng và chế biến
nhiên liệu
Xây dựng, chế tạo thiết bị, lắp đặt
Tổng
Điện mặt trời
Điện gió
5,76
2,51
0,4
4,8
10,56
2,79
2,84
2,16
2,33
0,27
2,44
1,98
2,07
Điện sinh khối
Địa nhiệt
0,18
0,26
Thủy điện nhỏ
Nguồn: Daniel M. et al., 2004 [4]; Wei et al., 2010 [18]
(ii) Tiếp cận chuỗi cung cấp: có thể ước tính
các việc làm trực tiếp và gián tiếp, tùy thuộc vào
mức độ chi tiết được chỉ ra trong chuỗi giá trị.
Đây là phương pháp dự báo nhu cầu việc làm
được nhiều quốc gia áp dụng, nhất là đối với lĩnh
vực NLTT thông qua phân tích, lập sơ đồ phân
cấp cung ứng và mối quan hệ giữa các hợp phần
trong một khu vực kinh tế; mỗi cấp thể hiện các
giai đoạn sản xuất, dịch vụ khác nhau từ cung
cấp nguyên liệu cho đến thành phẩm điện năng.
Từ sơ đồ phân cấp sẽ xác định nhà cung ứng
chính cho từng cấp theo chuỗi; kết quả phân tích
là cơ sở để cân đối tài chính, lao động phù hợp;
đồng thời, trong tính toán cũng cần phân tích
được các dữ liệu về xuất – nhập khẩu hay cung
ứng nội địa trong chuỗi.
Cấp 0: Nhà phát triển dự án
Cấp 1: Nhà cung cấp tuabin gió, hệ thống điện,
nền móng và dịch vụ…
Cấp 2: Đối với tuabin gió: Các nhà cung cấp rôto,
nacelle, tháp, thiết bị điện tử và hệ thống điều
khiển, …
Cấp 3: Đối với rôto: Bộ trợ lực tuabin, bộ điều
khiển bước, ổ trục…
Cấp 4: Đối với blader turbin: bu lông và blader
Cấp 5: Vật liệu blader, nhựa và khuôn
Hình 1. Kim tự tháp chuỗi cung cấp cho năng lượng gió
Nguồn: IRENA, 2013 [7]
Các quốc gia APEC sử dụng phương pháp
này để xác định tiềm năng cơ hội việc làm từ
ngành công nghiệp nhiên liệu sinh học [1].
Khung phân tích đã xác định 5 nhân tố đầu vào
ảnh hưởng đến cơ hội việc làm trong sản xuất và
công nghệ, gồm: (i) Nguyên liệu liên quan đến
sinh khối thực vật được sử dụng làm nguyên liệu
thô cho sản xuất nhiên liệu sinh học. Nhân tố
này tạo cơ hội việc làm trong giai đoạn hình
thành sản phẩm, như: ngô, mía, cọ… chuyển
thành ethanol hoặc diesel sinh học; (ii) Số lượng
lao động để tạo nguyên liệu thô phụ thuộc vào
khả năng cơ giới hóa của mỗi quốc gia và mỗi
loại cây trồng (ngô dễ thực hiện cơ giới hóa hơn
mía, do đó cây mía tạo nhiều việc làm hơn); (iii)
Tác động môi trường: Về lý thuyết, nếu điều
51
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Thá ng 3/2021
kiện môi trường không đảm bảo dẫn đến hạn chế
Tại Anh, số lượng việc làm hiện tại được xác
định theo phương thức: Xây dựng chuỗi cung
ứng cho một số loại hình NLTT, khảo sát ở mỗi
phân khúc để cung cấp cơ hội việc làm từ tạo
nguyên liệu đến người tiêu dùng. Việc làm trực
tiếp theo chuỗi sẽ xuất hiện việc làm gián tiếp
tại mỗi liên kết, các công việc bổ sung từ xuất
khẩu mới và các công việc được tạo ra nhân với
hệ số theo dữ liệu tài khoản quốc gia. Chuỗi
cung ứng được phác thảo không chi tiết bằng các
liên kết IO – đầu vào và đầu ra (ví dụ, không bao
gồm năng lượng, vận chuyển hoặc quản lý) và
các công việc gián tiếp, trung gian có thể quá ít.
Không phân loại công việc được tạo bởi cấp độ
kỹ năng hoặc theo ngành [14,15].
sản xuất do thiếu nước, lượng mưa thất thường,
xói mòn đất… có thể sẽ giảm tiềm năng việc
làm; (iv) Quy trình sản xuất: chuyển đổi từ
nguyên liệu thành nhiên liệu, cơ hội việc làm
phụ thuộc vào mức độ tự động hóa; (v) Xử lý
sau chế biến: Cơ hội việc làm có thể gia tăng phụ
thuộc vào nhiên liệu sinh học, xu hướng sử dụng
nhiên liệu sinh học.
Các tác động của ngành nhiên liệu sinh học
đối với một nền kinh tế là tổng của 3 hợp phần:
tác động trực tiếp, tác động gián tiếp và tác động
trung gian (cảm ứng). Tác động trực tiếp bao
gồm việc làm và thu nhập được tạo ra trong sản
xuất và chế biến nguyên liệu sinh học do sự
tương tác giữa các công ty, ngành và tổ chức xã
hội trong lĩnh vực kinh tế ngành, tác động trực
tiếp là khởi đầu một loạt các vòng lặp tạo thu
nhập, chi tiêu và tái chi tiêu dẫn đến các tác động
gián tiếp và trung gian. Các tác động gián tiếp là
những thay đổi trong sản xuất, việc làm và thu
nhập do trao đổi hàng hóa được xuất phát từ tác
động trực tiếp. Các tác động trung gian phát sinh
do thay đổi thu nhập hộ gia đình và mô hình chi
tiêu gây ra bởi các tác động trực tiếp và gián tiếp.
Tồn tại hai quan điểm trong tạo cơ hội việc
làm, gồm: Quan điểm kinh tế vi mô về phương
thức sản xuất nhiên liệu sinh học từ các doanh
nghiệp cá nhân tác động đến việc tạo việc làm
trực tiếp (nông nghiệp và công nghiệp) và gián
tiếp (hỗ trợ). Những ảnh hưởng chính đến cơ hội
việc làm là lượng sản xuất nhiên liệu sinh học,
năng suất nhiên liệu sinh học trên một đơn vị
nguyên liệu, đầu vào lao động trên một đơn vị
sản xuất nguyên liệu và đầu vào lao động trên
một đơn vị sản xuất nhiên liệu sinh học trong
nhà máy. Quan điểm kinh tế vĩ mô, liên quan đến
tác động của quy mô nhà máy đến GDP, thu
nhập cá nhân và các biến số kinh tế vĩ mô khác.
Quan điểm kinh tế vĩ mô có xu hướng tập trung
vào giá trị xuất khẩu của ethanol sinh học và
diesel sinh học so với giá dầu thế giới.
Cơ quan NLTT quốc tế - IRENA [9] đã đưa
ra các dự báo về cơ hội việc làm dựa trên phân
tích chi tiết các mắt xích chuỗi giá trị sản phẩm
của từng loại NLTT, cho thấy:
- Nhiên liệu sinh học hóa lỏng: Hầu hết cơ
hội việc làm được tạo ra trong giai đoạn nguyên
liệu (trồng và thu hoạch nguyên liệu), việc làm
trong giai đoạn này ít đòi hỏi kỹ năng. Giai đoạn
chế biến, xử lý nhiên liệu có xu hướng tìm kiếm
việc làm ít hơn nhưng đòi hỏi kỹ thuật cao hơn
và lương cao hơn.
- Năng lượng gió: Các nhà máy gió ngoài
khơi đòi hỏi nhiều việc làm hơn các dự án trên
bờ. Ngoài việc xây dựng, lắp ráp và triển khai
các thiết bị mới, có thể tận dụng các năng lực và
kỹ năng hiện có và sử dụng cơ sở hạ tầng đã
được chuyển đổi và nâng cấp từ các ngành công
nghiệp dầu khí và vận tải biển.
- Thủy điện: Sự phân phối việc làm trên các
phân khúc khác nhau của chuỗi giá trị thủy điện:
Hơn 70% công việc đang hoạt động trong lĩnh
vực vận hành và bảo trì; Xây dựng và lắp đặt
chiếm 23% tổng số; sản xuất được đặc trưng bởi
cường độ lao động thấp hơn và chỉ đóng góp 5%.
- Năng lượng mặt trời: Dự báo cơ hội việc
làm của IRENA bao gồm các phân khúc theo
chuỗi giá trị: bán hàng và phân phối, lắp đặt và
52
Trần Thị Tuyết, Hà Huy Ngọc, Phạm Mạnh Hà - Phương thức xác định việc làm…
bảo trì, hỗ trợ khách hàng, nhưng không bao
gồm sản xuất và lắp ráp.
tương lai. Cơ sở lý luận của phương pháp dựa
trên liên kết các yêu cầu nhân lực với đầu ra của
ngành và với sự phát triển trong phần còn lại của
nền kinh tế. Giả định rằng sự tăng trưởng của
một ngành công nghiệp nhất định, chẳng hạn:
công nghiệp NLTT sẽ dẫn đến sự tăng trưởng
theo nhu cầu của từng ngành nghề với ngành
công nghiệp này; do đó, đòi hỏi dự báo tổng hợp
liên quan đến các ngành kinh tế, lĩnh vực khác
nhau. Trước hết, dự báo về tổng sản phẩm quốc
nội và các loại nhu cầu, thu nhập chính bằng mô
hình kinh tế lượng vĩ mô; Tiếp theo, dựa vào ma
trận nghề nghiệp liên quan đến các ngành công
nghiệp để phân tích phân bổ việc làm cho nền
kinh tế. Sự thay đổi nghề nghiệp theo ma trận có
thể được xác định khi thay đổi công nghệ, mức
lương. Kết quả tính toán của BLS được đánh giá
là chính xác, có thể áp dụng để tính toán tổng
lượng việc làm của bất kỳ ngành kinh tế nào,
trong đó có công nghiệp NLTT. Tuy nhiên,
trong phân tích dự báo đòi hỏi dữ liệu thống kê
lớn, tránh khuynh hướng bảo thủ theo ngành mà
cần tầm nhìn toàn bộ nền kinh tế [12].
Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu dự báo về
tiềm năng việc làm, các Chính phủ, các tổ chức
sẽ có những quyết định hợp lý nhằm đáp ứng
nhu cầu, tận dụng được các cơ hội thông qua các
chính sách khác nhau, nhất là giáo dục, đào tạo
kỹ năng dọc theo chuỗi cung ứng; đánh giá các
cơ hội để tận dụng năng lực trong nước; phân
tích các chính sách và cách tiếp cận để đảm bảo
sự chuyển đổi công bằng; đánh giá việc làm và
cơ hội sinh kế liên quan đến tiếp cận năng lượng.
(iii) Mô hình đầu vào – đầu ra (Input-
Output/ IO): Dự báo kết quả kinh tế vĩ mô dựa
vào việc theo dõi các liên kết toàn bộ nền kinh
tế; do đó, có thể ước tính việc làm trực tiếp, gián
tiếp, trung gian của tất cả các ngành.
Cách tiếp cận cung cấp liên kết dựa trên dữ
liệu lịch sử giữa đầu vào và đầu ra cho các lĩnh
vực khác nhau trong nền kinh tế, bao gồm liên
kết giữa đầu ra và việc làm. Ưu điểm của phương
pháp này là dễ áp dụng khi có mô hình IO và khả
năng cung cấp các ước tính về việc làm gián tiếp
bằng một thao tác đơn giản của mô hình IO. Một
nhược điểm của phương pháp này là mô hình IO
có thể không được phân tách đủ để đưa ra ước
tính chính xác cho dự án cụ thể đang được xem
xét [14]. Đối với ngành năng lượng, mô hình IO
cung cấp các liên kết liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp đến việc làm thông qua mối quan hệ giữa các
ngành kinh tế cung cấp cho hoạt động phát triển
NLTT. Trong đó, có tính đến yếu tố nhập khẩu
ảnh hưởng trực tiếp đến tính tạo việc làm trực tiếp
trong nước; điều này có nghĩa để sản xuất điện
thành phẩm mà tỷ lệ nhập khẩu trang thiết bị,
nhân công lớn sẽ đồng nghĩa với việc ít việc làm
được tạo ra [4, 13].
Nhìn chung, ước tính việc làm cho một
ngành, lĩnh vực của nền kinh tế được xem là khá
phức tạp; tùy thuộc vào từng mục tiêu, khía cạnh
nghiên cứu sẽ có những phương pháp dự báo
phù hợp. Đối với NLTT, các quốc gia thường sử
dụng các phương pháp tiếp cận theo chuỗi giá trị
sản phẩm hoặc theo tiếp cận mô hình đầu ra –
đầu vào (IO) để xác định nhu cầu việc làm; từ
đó, làm cơ sở cho những quyết sách đào tạo, sử
dụng, chuyển đổi hợp lý…
Chẳng hạn, đối với việc làm trực tiếp của
chuỗi giá trị quang điện mặt trời, gồm các hợp
phần: Chế biến nguyên liệu thô: kỹ sư, kỹ thuật
viên; Sản xuất các hợp phần, mô dul: kỹ sư, kỹ
thuật viên; Lắp đặt/ xây dựng nhà máy: nhà phân
tích phát triển dự án, nhà bán buôn, các nhà thiết
kế và lắp đặt quang điện, công nhân xây dựng,
nhà khí tượng học; Vận hành và bảo dưỡng: kỹ
thuật viên, nhân viên bảo trì; Ngừng hoạt động:
công nhân xây dựng, nhà tái chế vật liệu.
Mô hình dự báo việc làm của Hoa Kỳ theo
phương pháp tiếp cận của Cục Thống kê lao
động – The Bureau of Labor Statistics (BLS)
hay còn gọi là mô hình BLS, tiếp cận dự báo từ
trên xuống. Đây là phương pháp chủ yếu để giải
quyết nhu cầu nhân lực ngành, lãnh thổ trong
53
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Thá ng 3/2021
3.3. Một số gợi mở nhằm tận dụng cơ hội
Mặc dù NLTT đã có những bước phát triển
đáng ghi nhận nhưng năng lượng quốc gia vẫn
phụ thuộc nhiều vào nhiên liệu hóa thạch, trong
quá trình chuyển đổi phải đối mặt với nhiều
thách thức, có thể gia tăng tính dễ bị tổn thương
xã hội nếu không kịp thời tái cơ cấu nền kinh tế;
giải pháp căn cơ là cần chủ động dự báo, giải
quyết các thách thức trong khuôn khổ chuyển
đổi công bằng thông qua các cơ chế, công cụ phù
hợp nhằm thúc đẩy sự đa dạng hóa kinh tế, hỗ
trợ quá trình chuyển đổi năng lượng; xác định
năng lực kinh tế để tìm kiếm trụ cột; dự báo kỹ
năng trong lĩnh vực NLTT; xác định tiềm năng
việc làm gắn với phát triển NLTT được xem là
nền tảng để xây dựng chiến lược phát triển hợp
lý trên cơ sở áp dụng linh hoạt các phương thức
đo lường phù hợp với cơ sở dữ liệu hiện có.
Chẳng hạn [7]:
tạo việc làm trong ngành năng lượng tái tạo
Việt Nam nằm ở vị trí địa lý thuận lợi, hình
thành nhiều tiềm năng cho phát triển NLTT;
đồng thời, tạo điều kiện thực thi các cam kết
quốc tế về giảm thiểu phát thải khí nhà kính, chủ
động ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đến nay, Việt Nam đã ban hành các định
hướng chính sách để từng bước hạn chế phụ
thuộc vào nguồn năng lượng hóa thạch; thúc đẩy
các nguồn năng lượng có khả năng tái tạo, như:
năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng
biển… Nhận định này, tiếp tục được khẳng định
trong Nghị quyết 55-NQ/TW, ngày 11/02/2020
của Bộ Chính trị với quan điểm ưu tiên khai
thác, sử dụng triệt để và hiệu quả các nguồn
năng lượng tái tạo hướng tới mục tiêu đảm bảo
25-30% NLTT trong tổng năng lượng quốc gia
vào năm 2045. Để thực hiện được mục tiêu trên,
đòi hỏi các cơ quan quản lý phải nghiên cứu, ban
hành các cơ chế khuyến khích phù hợp với từng
giai đoạn, lãnh thổ khác nhau; bước đầu hình
thành ngành NLTT tạo ra nhiều cơ hội trực tiếp,
gián tiếp cho các ngành kinh tế, các lãnh thổ phát
triển, mở ra nhiều cơ hội việc làm gắn với ngành.
Tính đến năm 2019, Việt Nam trở thành quốc
gia có tốc độ tăng trưởng năng suất NLTT cao
nhất Đông Nam Á (chiếm 51,3%) và chiếm
4,4% tổng công suất điện cả nước (năm 2020).
Cùng với tăng trưởng ngành, số lượng việc làm
cũng đang gia tăng, nhất là thủy điện, chiếm 4%
toàn cầu; 56,7 nghìn việc làm trong lĩnh vực
quang điện mặt trời [2,9].
(i) Đối với xác định lao động trực tiếp có thể
sử dụng cách tiếp cận nhân tố trên cơ sở dữ liệu
công suất được lắp đặt mới, sản xuất năng lượng
và hệ số việc làm.
Ưu điểm của phương thức: điều chỉnh đơn
giản đối với năng suất lãnh thổ hay thay đổi công
nghệ; đo lường nhanh nếu dữ liệu đáng tin cậy
và có sẵn; chi phí thấp nhất để đánh giá thông
qua xác định dữ liệu về số lượng người làm việc
theo số việc làm/công nghệ và trên các giai đoạn
của chu trình tồn tại, gồm: các giai đoạn sản
xuất, xây dựng, lắp đặt, cung cấp nhiên liệu, vận
hành, bảo trì và phá hủy, như:
Ướ퐜 퐭í퐧퐡 퐯퐢ệ퐜 퐥à퐦 퐭퐫퐨퐧퐠 퐠퐢퐚퐢 đ퐨ạ퐧 퐬ả퐧 퐱퐮ấ퐭 đá퐩 ứ퐧퐠 퐧ă퐧퐠 퐥ượ퐧퐠 퐜퐡퐨 đị퐚 퐩퐡ươ퐧퐠
= MW được lắp đặt trong năm theo lãnh thổ × nhân tố việc làm sản xuất
× hệ số việc làm lãnh thổ × % sản xuất địa phương
Ướ풄 풕í풏풉 풗풊ệ풄 풍à풎 풕풓풐풏품 품풊풂풊 đ풐ạ풏 풙â풚 풅ự풏품
= 푀푊 đượ푐 푙ắ푝 đặ푡 푡푟표푛ꢁ 푛ă푚 × 푛ℎâ푛 푡ố 푣ꢀệ푐 푙à푚 푡푟표푛ꢁ 푥â푦 푑ự푛ꢁ
× ℎệ 푠ố 푣ꢀệ푐 푙à푚 푙ã푛ℎ 푡ℎổ
54
Trần Thị Tuyết, Hà Huy Ngọc, Phạm Mạnh Hà - Phương thức xác định việc làm…
Ướ풄 풕í풏풉 풗풊ệ풄 풍à풎 풕풓풐풏품 품풊풂풊 đ풐ạ풏 풗ậ풏 풉à풏풉 풗à 풃ả풐 풅ưỡ풏품
= 푁ă푛ꢁ 푙ượ푛ꢁ 푡í푐ℎ 푙ũ푦 × 푛ℎâ푛 푡ố 푣ꢀệ푐 푙à푚 푡푟표푛ꢁ ꢁꢀ푎ꢀ đ표ạ푛
× ℎệ 푠ố 푣ꢀệ푐 푙à푚 푙ã푛ℎ 푡ℎổ
Áp dụng phương thức tính việc làm trực tiếp
theo tiếp cận nhân tố việc làm cho quy hoạch
phát triển điện lực quốc gia giai đoạn 2011-2020
có xét đến 2030, kết hợp với các hệ số tạo việc
làm theo IKI [9], kết quả số việc làm được tạo
ra nhằm đáp ứng yêu cầu điện phát sinh cho loại
hình năng lượng gió và năng lượng mặt trời theo
quy hoạch điện VII khoảng từ 58.860 đến
134.484 việc làm tùy theo hệ số áp dụng.
Bảng 3. Ước tính số việc làm trực tiếp được tạo ra xét đến năm 2030
Áp dụng hệ số từ Bảng 2
Hệ số Tổng số việc làm
Áp dụng hệ số việc làm theo IKI
Loại năng lượng
Lượng điện sản xuất (MW)
Hệ số
2,79
3.51
Tổng số việc làm
16.740
Gió
6.000
2,79
16.740
117.744
134.484
Mặt trời
Tổng
12.000
10,56
42.120
58.860
Nguồn: Tính toán của nhóm tác giả
(ii) Đối với xác định việc làm gián tiếp (gồm
tất cả việc làm liên quan đến lĩnh vực sản xuất
và dịch vụ trung gian để thiết lập một hệ thống
NLTT); có thể cung cấp nguyên vật liệu, tài
chính và các dịch vụ khác.
Để sớm khai thác các nguồn NLTT, một mặt
cần ban hành các chính sách khuyến khích phát
triển các loại hình phù hợp; ưu tiên đầu tư theo
chuỗi liên kết từ sản xuất đến tiêu thụ (upstream
– downstream linkages) là nhân tố quan trọng để
tạo việc làm; mặt khác, có chính sách đào tạo,
giáo dục nguồn nhân lực, các kỹ năng để tận
dụng cơ hội việc làm do ngành NLTT mang lại
thông qua các kết quả dự báo đảm bảo tính khoa
học, thực tiễn, phù hợp với năng lực lãnh thổ.
Đồng thời, hệ thống thống kê cần thu thập dữ
liệu cho ngành NLTT để tạo cơ sở cho các
nghiên cứu mang tính dự báo.
Tùy thuộc vào nguồn dữ liệu sẵn có có thể áp
dụng các phương thức đo lường, như: phân tích
hệ số được xác định thông qua việc nhân một hệ
số với việc làm trực tiếp; hệ số ở Liên bang Đức
cho công nghệ quang điện mặt trời là 3,4; điều
này có nghĩa tạo 01 việc làm trực tiếp, sẽ có 3,4
việc làm gián tiếp.
Ưu điểm là có thể ước tính các tác động của
ngành NLTT lên nền kinh tế chung; tuy nhiên,
hệ thống dữ liệu về các nhân tố việc làm phải có
sẵn trong phân loại thống kê. Phân tích việc làm
theo chuỗi giá trị, kèm theo số liệu về các kỹ
năng đòi hỏi để đáp ứng.
4. Kết luận
NLTT đang được các quốc gia trên thế giới
đẩy mạnh phát triển, với mong muốn giải quyết
các thách thức chung toàn cầu liên quan đến bảo
vệ môi trường, giảm phát thải khí nhà kính; đồng
thời, đem lại các giá trị mới, cơ hội mới cho xã
hội cùng chuyển đổi theo hướng “xanh”.
(iii) Phân tích đầu vào – đầu ra (IO) để xác
định tổng số lượng việc làm của nền kinh tế
nhằm phục vụ phát triển NLTT, gồm: việc làm
trực tiếp, việc làm gián tiếp và việc làm trung
gian.
Tuy nhiên, đến nay ở nhiều quốc gia đang
phát triển vẫn chưa có nhiều đánh giá mang tính
tổng quan về tác động của phát triển NLTT đến
các lĩnh vực kinh tế, xã hội; trong đó có tác động
55
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 1(32) – Thá ng 3/2021
tạo việc làm gắn với ngành bởi thiếu dữ liệu
mang tính hệ thống.
quan về các khía cạnh liên quan đến NLTT trên
cơ sở lựa chọn phương thức phù hợp với mục
tiêu, nguồn kinh phí, dữ liệu làm tiền đề khoa
học, đảm bảo tính khách quan cho các chiến
lược phát triển lãnh thổ và ngành.
Do đó, để tận dụng hiệu quả các cơ hội việc
làm gắn với phát triển NLTT đòi hỏi các vùng,
lãnh thổ phải có những đánh giá mang tính tổng
Bài viết là sản phẩm của đề tài cấp Bộ theo Hợp đồng số 371/HĐKH-KHXH, ngày 30/12/2020:
Việc làm bền vững gắn với phát triển năng lượng tái tạo ở Ninh Thuận của Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. APEC (2010), A Study of Employment Opportunities from Biofuel Production in APEC Economies, APEC Energy
Working Group, APEC#210-RE-01.9, Canada.
2. Bộ Công thương (2020). Bá o cá o số 32/BC-CBT, ngày 25/5/2020 về thực trạng triển khai cá c dự án điện.
3. BP p.l.c (2020). Statistical Review of World Energy 2020, 1 St James’s Square London SW1Y 4PD UK.
4. Daniel M. et al. (2004), Putting Renewables to Work: How Many Jobs Can the Clean Energy Industry Generate? RAEL
Report, University of California, Berkeley.
5. IKI – International Climate Initiative (2019), Những kĩ năng và tiềm năng tạo việc làm trong tương lai từ NLTT ở Việt
Nam, DOI: 10.2312/iass.2019/029.
6. IRENA (2011), Renewable Energy Jobs: Status, prospects & policies International Renewable Energy Agency
(IRENA), Abu Dhabi.
7. IRENA (2013), Renewable Energy and Jobs: Annual Review 2012, International Renewable Energy Agency, Abu
Dhabi, United Arab Emirates.
8. IRENA (2019), Future of wind: Deployment, investment, technology, grid integration and socio-economic aspects (A
Global Energy Transformation paper); Renewable Energy and Jobs: Annual Review 2018 International Renewable
Energy Agency, Abu Dhabi. ISBN 978-92-9260-155-3;
9. IRENA (2020), Renewable Energy and Jobs: Annual Review 2020 and Renewable capacity statistics 2020,
International Renewable Energy Agency (IRENA), Abu Dhabi.
10. IRENA (2020), Measuring the Socio- economics of Transition: Focus on Jobs, International Renewable Energy
Agency, AbuDhabi.
11. IRENA and ADFD (2020), vancing renewables in developing countries: Progress of projects supported through the
IRENA/ADFD Project Facility, International Renewable Energy Agency (IRENA) and Abu Dhabi Fund for
Development (ADFD).
12. James M.W. et al. (2012), A Critical Review of Forecasting Models to Predict Manpower Demand, Australasian
Journal of Construction Economics and Building · November 2012.
13. Miller, R.E., Blair, P.D. (2009), Input-Output-Analysis: Foundation and Extensions, Second Edition, Cambridge
University Press, Cambridge.
14. R. Bacon and M. Kojima (2011), Issues in estimating the employment generated by energy sector activities, World
Bank.
15. Renewable UK (2015). General Election Manifesto 2015, The Green Party of England and Wales.
16. U.K. DTI (Department of Trade and Industry) (2004), Renewable Supply Chain Gap Analysis: Summary Report.
17. UN (2021). Energy Statistics Pocket book 2021, United Nations Publications, 405 East 42nd Street, S-09FW001,
New York, NY 10017 USA.
18. Wei et al. (2010). Putting renewables and energy efficiency to work: How many jobs can the clean energy industry
generate in the US? M.Wei, S. Patadia, D.M. Kammen, in Energy Policy 38 (2010) 919-913.
Thô ng tin tꢀc giꢁ:
Nhật ký tò a soạn:
Trần Thị Tuyết, Hà Huy Ngọc, Phạm Mạnh Hà
Viꢀn Địa lꢁ nhân văn, Viꢀn Hꢂn lâ m Khoa học xꢃ hội Viꢀt Nam
Sꢄ 1, Liꢅu Giai, Ba Đꢆnh, Hꢂ Nội
Ngày nhận bài: 10/01/2021
Biên tập: 03/2021
ĐT: 0773322866; Email: trantuyet.iesd@gmail.com
56
Bạn đang xem tài liệu "Phương thức xác định việc làm gắn với phát triển năng lượng tái tạo", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
File đính kèm:
- phuong_thuc_xac_dinh_viec_lam_gan_voi_phat_trien_nang_luong.pdf